Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI HẠN TẠI NGÂN HÀNG ĐT PT HÀ THÀNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.12 KB, 16 trang )

GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG TRUNG VÀ DÀI
HẠN TẠI NGÂN HÀNG ĐT PT HÀ THÀNH
3.1 Phương hướng hoạt động tín dụng của Chi nhánh Ngân hàng ĐT & PT Hà
Thành trong giai đoạn (2009 – 2012)
Sau hơn 6 năm hoạt động, Chi nhánh Hà Thành đã đi vào thời kỳ ổn định và
ngày càng mở rộng thị phần trên thành phố Hà Nội. Tuy nhiên, Chi nhánh cũng
gặp không ít khó khăn, thử thách như sự biến động của tình hình kinh tế trong
nước và thế giới, sự cạnh tranh mạnh mẽ của các Ngân hàng khác (với khoảng 150
tổ chức tín dụng chỉ tính đến Chi nhánh cấp 1 đang hoạt động trên địa bàn). Đặc
biệt, trong tình hình của năm 2009 với ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế tài
chính toàn cầu, cuộc chạy đua lãi suất giữa các NHTM vừa kết thúc, thì sự cạnh
tranh càng khó khăn hơn. Kế hoạch kinh doanh giai đoạn 2009 – 2012 Chi nhánh
đã xác định: tiếp tục tăng trưởng bền vững; Lấy an toàn, chất lượng và hiệu quả
làm hàng đầu trong hoạt động; Đổi mới cách thức quản lý – quản trị kinh doanh –
quản trị điều hành hướng tới các chuẩn mực và thông lệ quốc tế của một NHTM
hiện đại. Đẩy mạnh hoạt động dịch vụ theo hướng tập trung vào các dịch vụ phi tín
dụng, dịch vụ tài chính, đưa vào khai thác các sản phẩm dịch vụ mới. Đảm bảo tỷ
trọng nguồn thu phi lãi trong chênh lệch thu chi là trên 50%.
Xác định thị trường khách hàng của một chi nhánh mới ra đời trên địa bàn
cạnh tranh gay gắt, Ngân hàng Đt & PT Hà Thành luôn xây dựng định hướng cho
công tác tín dụng là: an toàn và hiệu quả, hết sức thận trọng khi cho vay, luôn nắm
chắc tình hình kinh doanh của khách hàng, tư vẫn giúp cho các đơn vị tháo gỡ khó
khăn, đồng thời cương quyết và cững rắn đối với khách hàng có thái độ không
đúng trong quan hệ tín dụng
Chi nhánh đã đặt ra chỉ tiêu tăng trưởng đối với hoạt động tín dụng như sau:
+ Tổng tài sản tăng >20%
+ Tổng nguồn vồn huy động tăng 20%, trong đó huy động vốn bình quân tăng
15%.
+ Tín dụng tăng 20%, trong đó dư nợ bình quân tăng 15%.
+ Dư nợ cho vay trung và dài hạn < 40% tổng dư nợ cho vay.
+ Nợ quá hạn (không kể nợ khoanh thấp dưới 3%).


3.2 Giai pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn tại Ngân hàng
ĐT & PT Hà Thành
3.2.1 Xây dựng chiến lược kinh doanh phù hợp với từng thời kỳ
Những năm gần đây, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị
trường, đặc biệt trong lĩnh vực tài chính tiền tệ, hoạt động của các NHTM Việt
Nam ngày càng sôi động và ngày càng gắn liền với thị trường tài chính thế giới.
Chính vì thế, là một trong bốn Ngân hàng thương mại quốc doanh lớn nhất Việt
Nam, Ngân hàng ĐT & PT nói chung và Chi nhánh Hà Thành nói riêng phải xác
định cho mình mục tiêu, định hướng phát triển lâu dài, thống nhất, ổn định với các
nguồn lực sẵn có …để xây dựng chiến lược kinh doanh nhằm phát huy thế mạnh
vốn có của mình trong lĩnh vực đầu tư, phát triển trong các ngành công nghiệp và
xây dựng đúng như tên gọi của mình.
Ngân hàng cần giữ quan hệ tốt với những khách hàng truyền thống, khách
hàng lớn, có lịch sử tín dụng tốt với Ngân hàng. Đồng thời, chủ động trong việc
lựa chọn những khách hàng mới tiềm năng, các dự án tốt có tình khả thi cao để đầu
tư. Xác định những xu hướng phát triển mới, trọng điểm trong thời gian tới để mở
rộng thị phần trong môi trường cạnh tranh mới. Tiếp tục triển khai có hiệu quả mô
hình “ba nhà”: Nhà đầu tư – Nhà quản lý – Nhà băng.
Giữ vững chiến lược kinh doanh, tiếp tục hoàn thiện công cuộc chuyển đổi,
đồng bộ mô hình kinh doanh mới hướng tới khách hàng và quản trị rủi ro theo mô
hình chuẩn của một NHTM bán lẻ hiện đại – mô hình dự án hỗ trợ kỹ thuật TA2 do
Worldbank tài trợ.
3.2.2 Hoàn thiện chính sách tín dụng, tổ chức hợp lý, khoa học quy trình tín
dụng
Toàn bộ các vấn đề có liên quan đến hoạt động cấp tín dụng nói chung và
hoạt động tín dụng trung và dài hạn nói riêng đều được xem xét và đưa ra trong
chính sách tín dụng như: lãi suất, quy mô, kỳ hạn, tài sản đảm bảo, phạm vi, các
khoản tín dụng có vấn đề và các nội dụng khác..
Chính sách tín dụng phải phù hợp với đường lối phát triển của Nhà nước,
đồng thời đảm bảo kết hợp hài hòa quyền lợi của người gửi tiền, người vay và

Ngân hàng. Muốn vậy, phái xây dựng chính sách tín dụng trên cơ sở khoa học,
phải đảm bảo khả năng sinh lời của các hoạt động tín dụng trên cơ sở phân tán rủi
ro, tuân thủ pháp luật và đường lối chính sách của Nhà nước, đồng thời đảm bảo
tính công bằng. Chính sách tín dụng cần tiếp tục được hoàn thiện, vừa đảm bảo
huy động được tiền gửi vào Ngân hàng (đặc biệt là nguồn vốn trung và dài hạn),
vừa đảm bảo Ngân hàng kinh doanh có lãi, bảo toàn được vốn, khuyến khích các
DN kể cả các DN vừa và nhỏ tiếp cận được nguồn vốn Ngân hàng, kích thích mở
rộng tín dụng trung và dài hạn.
Lãi suất tín dụng do ban giám đốc Ngân hàng thông qua và cần được phổ biến
đến mọi cán bộ tín dụng, bao gồm lãi suất cơ bản và lãi suất bình quân đối với các
kỳ hạn, các ngành, các lĩnh vực chủ yếu. Chính sách này cần khuyến khích tính
linh hoạt, đa dạng trong việc đặt giá trên cơ sở đảm bảo khả năng sinh lời cũng như
tính cạnh tranh của Ngân hàng. Ngân hàng cần đưa ra chính sách lãi suất linh hoạt,
cho phép cán bộ tín dụng được thay đổi trong giới hạn nhất định cho phù hợp với
tình hình thực tế, hoặc cho phép khách hàng được chọn hình thức lãi suất…Chính
sách lãi suất cần chỉ rõ các bộ phận cơ bản cấu thành nên lãi suất tín dụng như lãi
suất nguồn, chi phí khác, rủi ro, thuế, và tỷ lệ lợi nhuận tối thiểu …và các nhân tố
chính tác động đến các bộ phận đó.
Quy trình tín dụng có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng tín dụng và hiệu
quả hoạt động của Chi nhánh. Trong khi thực hiện công tác phân tích cấp trước khi
cấp tín dụng cho khách hàng cần thực hiện một cách nghiêm túc, sát sao hơn công
tác khảo sát tình hình thực tế của khách hàng để nắm bắt được hiện trạng hoạt động
của khách hàng. Chi nhánh cũng cần không ngừng hoàn thiện, bổ sung, và cải tiến
hệ thống chấm điểm tín dụng sao cho phù hợp với thực trạng của khách hàng về
mọi mặt như tài sản thế chấp, hệ thống kế toán, sở hữu vốn…
Quy trình tín dụng cần phải được Ngân hàng xem xét và xây dựng sửa đổi sao
cho đơn giản hóa, giảm bớt sự phức tạp, cồng kềnh, nhưng vẫn đảm bảo đủ các
bước. Hướng dẫn chỉ đạo đến các bộ phận trong toàn bộ Ngân hàng để đảm bảo
quy trinhg tín dụng diễn ra thồng nhất, đồng bộ trong toàn Ngân hàng, giảm bơt
khó khăn cho khách hàng. Từ đó xây dựng hình ảnh mới, nâng cao vị thế của Ngân

hàng trong hệ thống Ngân hàng ĐT & PT nói riêng và hệ thống NHTM Việt Nam
nói chung.
3.2.3 Nâng cao chất lượng thẩm địng dự án
Thẩm định tài chính là phương diện quan trọng nhất trong công tác thẩm định
dự án đầu tư. Chất lượng của công tác thẩm định tài chính dự án quyết định một
phần trong chất lượng tín dụng
Tuy nhiên, công tác này ở các NHTM nói chung và Ngân hàng ĐT & PT Hà
Thành nói riêng còn chưa đạt được hiệu quả cao. Bên cạnh đó, do trình độ của cán
bộ tín dụng còn nhiều hạn chế, thiếu kinh nghiệm thực tiễn, thông tin khách hàng
cung cấp cho Ngân hàng bị sai lệch …thì công tác thẩm định cũng là một nguyên
nhân quan trọng làm cho chất lượng công tác thẩm địng chưa cao.
Thứ nhất, hiệu quả tài chính cũng như các loại hiệu quả khác, bản chất của nó
không được thực hiện đơn thuần trên một lĩnh vực nào đó, mà được thực hiện trên
nhiều lĩnh vực khác nhau. Do vậy, Ngân hàng cần xây dựng cho mình một hệ
thống chỉ tiêu về thẩm định dự án đầu tư một cách hiệu quả nhất, trung thực nhất,
phản ánh khách quan và đầy đủ nhất tình hình tài chính của DN. Đồng thời có thể
phá hiện ngay những hành vi gian lận, giả mạo của khách hàng.
Thứ hai, thực chất việc xây dựng tính toán những chỉ tiêu thẩm định dự án
đầu tư có cơ sở toán học logic, chặt chẽ. Nhưng ở đây, nếu chỉ quá chú trọng đến
cơ sở lý thuyết thì rất khó để áp dụng, triển khai trong thực tiễn thẩm định dự án vì
bị giới hạn bởi nhiều yếu tố như kinh phí, thời gian, bộ máy tổ chức…
Thứ ba, hệ thống chỉ tiêu là một nội dung chính trong thẩm địng tài chính dự
án đầu tư nhưng dù sao nó cũng chỉ là một phương tiện để phân tích đánh giá. Điều
quan trọng là phải sử dụng những chỉ tiêu kết hợp với tình hình thực tiễn đó để
đánh giá, phân tích được chất lượng hiệu quả của dự án đầu tư. Từ đó có thể đưa ra
quyết định tín dụng đúng đắn, đảm bảo chất lượng cho khoản vay.
3.2.4 Nâng cao hiệu quả huy động vốn
Từ khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, với những cam
kết mới, Ngân hàng đang phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt không chỉ đến từ
phía các Ngân hàng trong cùng địa bàn mà còn phải cạnh tranh với những Ngân

hàng nước ngoài mới tại Việt Nam. Những Ngân hàng này có vị thế lớn về tài
chính, công tác tổ chức quản lý. Điều đó đã gây ra nhiều khó khăn cho hoạt động
của Ngân hàng ĐT & PT Hà Thành.
Mặt khác do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, dự báo tăng
trưởng kinh tế thế giới năm 2009 sẽ thấp hơn năm 2008; các nước phát triển có khả
năng suy thoái, các nước mới nổi và đang phát triển suy giảm hoặc tăng trưởng với
tốc độ thấp. Việt Nam cũng không nằm ngoài vòng xoáy đó. Tiết kiệm, đầu tư và
khối lượng vốn luân chuyển ở trong nước suy giảm hoặc tăng trưởng với tốc độ
thấp so với các năm trước. Nguồn tiền nhàn rỗi trong dân cư có xu hướng giảm
xuống. Ngân hàng cần tiến hàng mọi biến pháp để huy động được nguồn vốn nhàn
rỗi trong dân cư để cho vay. Vì vậy, để đảm bảo cho hoạt động tín dụng trung và
dài hạn có hiệu quả thì Ngân hàng cần có một nguồn vốn ổn định.
Ngân hàng cần đưa ra nhiều hình thức huy động đa dạng và linh hoạt. Các
hình thức huy động có thể bao gồm các hình thức khuyến mãi như: tiết kiệm dự
thưởng, tiết kiệm bậc thang, phát hành các loại giấy tờ có giá, điều chỉnh cơ cấu
huy động vốn giữa thị trường cấp I (thị trường huy động vốn từ dân cư và các tổ
chức kinh tế) và thị trường cấp II (thị trường liên Ngân hàng)…Đồng thời điều
chỉnh lãi suất tiền gửi cho phù hợp với tình hình biến động của nền kinh tế đặc biệt
là điều chỉnh lãi suất tiền gửi trung và dài hạn hợp lý nhằm tăng khả năng huy
động tiền gửi dân cư, tiền gửi thanh toán cả bằng nội tệ và các ngoại tệ mạnh.
Ngân hàng phải thường xuyên nắm bắt thị trường, tích cực tìm kiếm những
nguồn vốn trung và dài hạn với chi phí rẻ. Để có được một cơ cấu nguồn vốn hợp
lý, tăng trưởng ổn định và vững chắc thì Ngân hàng cần phân tích và cơ cấu lại
nguồn vốn. Ngân hàng cần xem xét lại cơ cấu danh mục tài sản nợ, tài sản có cho
phù hợp, nhằm hạn chế thấp nhất rủi ro có thể xảy ra, đó là cơ cấu lại dư nợ cho
vay ngắn hạn với cho vay dài hạn, giữa nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung và
dài hạn. Ngân hàng cần phải duy trì một tỷ lệ dự trữ (bao gồm tiền mặt trong Ngân
hàng, tiền gửi tại Ngân hàng trung ương và các tài sản có tính lỏng cao khác). Làm
như vậy để đảm bảo tỷ lệ dự trữ bắt buộc theo quy định của Ngân hàng Trung
ương và để đối phó với các dòng tiền đi ra. Việc kết hợp giữa dự trữ thứ cấp và dự

trữ sơ cấp sẽ giúp Ngân hàng chủ động vừa đối phó với rủi ro thanh khoản, vừa có
thu nhập hợp lý. Tránh tình trạng Ngân hàng phải đối mặt với rủi ro thanh khoản
và rủi ro lãi suất.
Đặc biệt, Ngân hàng có thể tranh thủ nguồn vốn trung và dài hạn theo các
chương trình, dự án phát triển, khuyến khích DN vừa và nhỏ của các tổ chức quốc
tế để tăng nguồn vốn cho Ngân hàng, giúp cho các DN có điều kiện đổi mới công
nghệ, thiết bị.
Ngân hàng tiếp tục mở rộng mạng lưới phòng giao dịch ở các khu dân cư
đông đúc, phát triển các dịch vụ Ngân hàng hiện đại như: thẻ ATM, chi trả lương

×