Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

LÍ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG CHUYỂN TIỀN ĐIỆN TỬ QUA NGÂN HÀNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.3 KB, 20 trang )

LÍ LUẬN CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG CHUYỂN TIỀN ĐIỆN TỬ QUA NGÂN HÀNG
1.1. KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA CHUYỂN TIỀN ĐIỆN TỬ TRONG NHTM
1.1.1. Khái niệm về chuyển tiền điện tử.
a. Khái niệm về thanh toán vốn giữa các ngân hàng
Ngân hàng là một trong những trung gian tài chính lớn nhấtcủa nền kinh
tế, nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng rất đa dạng và phong phú. Dù hoạt động dưới
hình thức nào cũng được kết thúc ở việc thanh toán quyết toán do đó thanh toán là
một chức năng quan trọng của ngân hàng. Tuỳ thuộc vào mối liên hệ giữa các ngân
hàng( cùng hệ thống hay khác hệ thống) mà các ngân hàng áp dụng cac phương
thức thanh toán khác nhau. Hiện nay thanh toán vôn giữa các ngân hàng có thể
thực hiện theo năm phương thức chủ yếu sau:
- Thanh toán liên hàng trong cùng hệ thống
- Thanh toán bù trừ khác hệ thống
- Thanh toán uỷ nhiệm thu hộ, chi hộ
- Thanh toán qua tài khoản tiền gửi tại ngân hàng Nhà nước
- Mở tài khoản lẫn nhau để thanh toán
 Thanh toán liên hàng
Thanh toán liên hàng là quan hệ thanh toán giữa các chi nhánh ngân hàng
trong nội bộ hệ thống phát sinh trên cơ sở nghiệp vụ thanh toán không dùng tiền
mặt giữa các ngân hàng có mở tài khoản tiền gửi thanh toán ở các chi nhánh ngân
hàng khác nhau hoặc các nghiệp vụ chuyển tiền, điều hoà vốn trong nội bộ hệ
thống ngân hàng
Tuỳ theo đặc điểm và điều kiện về ứng dụng công nghệ thông tin riêng mà
mỗi ngân hàng xây dựng cho mình một hệ thống thanh toán một cách thích hợp.
Có những hệ thống ngân hàng tổ chức hệ thống thanh toán liên hàng toàn hệ thống
nhưng có một số hệ thống ngân hàng, bên cạnh hệ thống TTLH toàn hệ thống còn
thiết lập thêm hệ thống TTLH nội tỉnh để phục vụ cho việc thanh toán giữa các chi
nhánh ngân hàng trong cùng một tỉnh, một thành phố và thực hiện kiểm soát, đối
chiếu liên hàng nội tỉnh theo sự uỷ quyền của cấp TƯ
Hiện nay Việt Nam có các hệ thống thanh toán liên hàng sau:
- Hệ thống thanh toán liên hàng của NHNN


- Các hệ thống thanh toán liên hàng của các NHTM NN
- Các hệ thống thanh toán của các NHTM cổ phần
- Các hệ thống thanh toán của các chi nhánh NH nước ngoài
- Hệ thống thanh toán của kho bạc Nhà nước
Trong thanh toán liên hàng tiến hành các nghiệp vụ thanh toán liên hàng
theo sự uỷ nhiệm chi của hệ thống thanh toán liên hang mà họ tham gia nên không
phải trực tiếp thanh toán vốn với nhau. Việc thanh toán vốn giữa các đơn vị ngân
hàng thông qua kiểm soát, đối chiếu liên hàng và theo dõi số dư tài khoản liên hàng
di, liên hàng đến của các đơn vị liên hàng tại trung tâm thanh toán ( nếu là thanh
toán liên hàng toàn hệ thống ) Và chi nhánh ngân hàng cấp tỉnh ( nếu là thanh toán
liên hàng nội tỉnh).Như vậy tuy đơn vị ngân hàng tham gia thanh toán liên hàng
không phải là đơn vị kinh tế hạch toán độc lập nhưng là đơn vị hạch toán nội bộ
phải có đầy đủ vốn để đảm bảo hoạt động tanh toán liên hàng nói riêng. Trường
hợp thiếu vốn thì phải nhận vốn điều hoà của hệ thống và phải chịu chi phí trả lãi
nhận điều hoà.
 Thanh toán bù trừ giữa các ngân hàng
Thanh toán bù trừ giữa các ngân hàng (TTBT) là phương thức thanh toán
vốn giữa các ngân hàng được thực hiện bằng cách bù trừ tổng số phải thu, phải trả
để thanh toán số chênh lệch ( kết quả bù trừ). TTBT phát sinh trên cơ sở các khoản
tiền hàng hoá, dịch vụ của khách hàng mở tài khoản ở các ngân hàng khác nhau
hoặc thanh toán vốn của bản thân ngân hàng. TTBT được áp dụng giữa các ngân
hàng khác hệ thống với nhau hoặc có thể áp dụng giữa các đơn vị ngân hàng thuộc
cùng một hệ thống ngân hàng. Tuỳ thuộc vào phương pháp trao đổi chứng từ,
chuyển số liệu mà có cơ chế TTBT trên cơ sở chứng từ giấy (TTBT giấy) và TTBT
điện tử .Đối với các chứng từ giấy, các ngân hàng, tổ chức tín dụng và Kho Bạc
Nhà nước, kể cả các đơn vị trực thuộc được phép làm dịch vụ thanh toán tham gia
TTBT được gọi là ngân hàng thành viên. Các ngân hàng thành viên phải mở tài
khoản tại tiền gửi tại ngân hàng chủ trì. Đối với TTBT khác hệ thống thì các ngân
hàng thành viên phải mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng chủ trì là NHNN trên địa
bàn. Ngân hàng chủ trì chịu trách nhiệm tổng hợp các kết quả thanh toán bù của

các ngân hàng thành viên. Ngân hàng chủ trì được quyền trích tài khoản tiền gửi
của ngân hàng thành viên để thanh toán. TTBT có thể tổ chức trong phạm vi địa
bàn ( nội thành, nội thị và các đơn vị ngân hàng có cự li gần đẻ đảm bảo giao nhận
chứng từ TTBT theo phiên giao dịch trong ngày), hoặc có thể tổ chức TTBT theo
khu vực hay toàn quốc.
Hiện nay do trình độ phát triển của công nghệ thông tin,các ngân hàng có
thể thực hiện TTBT với nhau theo phương thức bù trừ điện tử thông qua hệ thống
thanh toán điện tử liên ngân hàng của NHNN, theo đó các NHTM chỉ phải mở một
tài khoản duy nhất tại NHNN và thực hiện toàn bộ các giao dịch thanh toán của
ngân hàng mình qua tài khoản này.Nếu trước kia, mọi hoạt động thanh toán diễn ra
giữa các ngân hàng được tổ chức phân tán tại các chi nhánh NHNN trên địa bàn thì
hiện nay việc thực hiện từ khâu xử lý chứng từ đến khâu thanh toán đều được kết
nối với tất cả thành viên. Nhờ đó giúp cho NHNN và các ngân hàng thành viên
hàng ngày có thể nhận biết, kiểm tra và tổng hợp được toàn bộ hoạt động thanh
toán toàn hệ thống của mình với các ngân hàng khác một cách nhanh chóng. Vì thế
các ngân hàng có thể cân đối nguồn vốn và sử dụng một cách kịp thời, khi cần thiết
có thể vay và cho các ngân hàng khác vay từ đó nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
của toàn hệ thống.
 Thanh toán qua tài khoản của NHNN
Thanh toán qua tài khoản tiền gửi tại NHNN dược áp dụng đối với những
ngân hàng khác hệ thống khác địa bàn đều mở tài khoản tại NHNN (cùng hoặc
khác chi nhánh, sở giao dịch NHNN).
Việc thanh toán giữa các ngân hàng theo phương thức này được thực hiện
từng lần theo số tiền ghi trên bảng kê các chứng từ thanh toán.Ngân hàng bên trả
tiền lập bảng kê kèm chứng từ gốc gửi đến NHNN nơi mở tài khoản yêu cầu
NHNN trích tài khoản nhà nước thanh toán trả cho người thụ hưởng. Nếu ngân
hàng của nguời thụ hưỏng và ngân hàng của người trả tiền cùng mở tài khoản tại
cùng một chi nhánh NHNN thì việc thanh toán rất đơn giản, chi nhánh NHNN chỉ
cần căc cứ vào các chứng từ gốc được gửi đến để hạch toán vào các tài khoản tiền
gửi tương ứng.Nếu hai NHTM này mở tài khoản tại các chi nhánh NHNN khác

nhau thì chi nhánh NHNN phải căn cứ vào chứng từ gốc để lập lệch chuyển tiền di
nơi ngân hàng của người thụ hưởng mở tài khoản. Hiện nay NHNN đã xây dựng
riêng một hệ thống CTĐT nên việc thanh toán theo phương thức này càng trở nên
đơn giản, nhanh chóng và chính xác hơn.
 Thanh toán uỷ nhiệm thu hộ chi hộ
Uỷ nhiệm thu hộ, chi hộ là phương thức thanh toán được áp dụng đối với
ngân hàng cùng hệ thống hoặc khác hệ thống theo sự thoả thuận cam kết với nhau,
ngân hàng sẽ thực hiện thu hộ chi hộ cho ngân hàng kia trên cơ sở chứng từ thanh
toán của khách hàng có mở tài khoản của ngân hàng kia.
Để thực hiện phương thức thanh toán này thì hai ngân hàng phải tiến hành
kí kết hợp đồng với nhau để thống nhất với nhau về nguyên tắc, thủ tục và nội
dung thanh toán.Việc thu hộ, chi hộ giữa hai ngân hàng chỉ được tiến hành trong
phạm vi những khoản thanh toán đã được thoả thuận và qui định trong hợp đồng.
 Mở tài khoản lẫn nhau để thanh toán
Phương thức nay có thể áp dụng giữa hai ngân hàng cùng hệ thống hoặc
khác hệ thống với điều kiện ngân hàng kia để hạch toán các khoản thanh toán qua
lại giữa hai ngân hàng và các ngân hàng phải đăng kí mẫu dấu chữ ký của người có
thẩm quyền ra lệnh thanh toán với nhau. Ngân hàng phát sinh nghiệp vụ thanh toán
có trách nhiệm lập chứng từ thanh toán (nếu là tài khoản của chính mình) Hoặc
bảng kê có kèm theo chứng từ thanh toán của khách hàng (đối với khoản thanh
toán của khách hàng) gửi tới ngân hàng có quan hệ tiền gửi để yêu cầu thanh toán.
Trên đây là năm phương thức mà các ngân hàng có thể sử dụng để thanh
toán cho nhau , tuỳ thuộc vào từng điều kiện cụ thể mà mỗi ngân hàng có thể lựa
chọn cho mình phương thức thanh toán thích hợp. Ngày nay, cùnh với sự phát triẻn
của khoa học kĩ thuật cũng như phần mềm thanh toán hiện đại ra đời đã hỗ trỡ đắc
lực cho công tác thanh toán của ngay càng trở nên nhanh chóng và chính xác.
Như vậy: Thanh toán vốn giữa các ngân hàng là nghiệp vụ thanh toán
qua lại giữa cá ngân hàng nhằm tiếp tục quá trình hình thanh toán tiền giữa các
xí nghiệp, tổ chức kinh tế, cá nhân với nhau mà họ không cùng mở tài khoản tại
một ngân hàng hoặc thanh toán vốn trong nội bộ các hệ thống ngân hàng”

b. Khái niệm thanh toán CTĐT
Thanh toán là việc thực hiện nghĩa vụ trả tiền hoặc chuyển tiền giữa các tổ
chức cá nhân. Hoạt động thanh toán là việc mở tài khoản, thực hiện dịch vụ thanh
toán của các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán và việc mở tài khoản, sử dụng
dịch vụ thanh toán cuẩ người sử dụng dịch vụ thanh toán.Thanh toán có thể thực
hiện dưới hình thai vô cùng đơn giản, tồn tại duới dạng trao đỏi vật chất như hàng
đổi hàng, chi trả bằng tiền mặt và cho đến nay người ta có thể thực hiện dịch vụ
thanh toán hoàn toàn phi vật chất: thanh toán điện tử.Thanh toán điện tử được thực
hiện thông qua các ngân hàng, các ngân hàng cung ứng các phương tiện thanh
toán, thực hiện các giao dịch thanh toán trong và quốc tế, thực hiện thu hộ, chi hộ
và các loại dịch vụ khác theo yêu cầu của người thực hiện dịch vụ thanh toán
Thanh toán liên hàng điện tử hay chuyển tiền điện tử (CTĐT) là phương
thức thanh toán vốn giữa các đơn vị liên hàng trong cùng một hệ thống bằng
chương trình phần mềm chuyển tiền điện tử với sự trợ giúp của hệ thống máy tính
và hệ thống mạng truyền tin nội bộ.
Chuyển tiền điện tử áp dụng phương thức “Kiểm soát tập trung, đối chiếu
tập trung”. Do việc kiểm soát và đối chiếu được tập trung tại TTTT và kết thúc
ngay trong ngày nên đảm bảo tất cả các chuyển tiền được kiểm soát trước khi trả
tiền cho khách hàng, từ đó đảm bảo an toàn tài sản.
Theo văn bản qui trình nghiệp vụ CTĐT (ban hành theo quyết định số 516
ngày 26/07/2000 của Tổng giám đốc NHNo&PTNT Việt Nam) thì: “Chuyển tiền
điện tử là quá trình xử lý một khoản chuyển tiền qua mạng máy tính, kể từ khi
nhận được lệnh chuyển tiền của người phát lệnh đến khi hoàn tất việc thanh
toán cho người thụ huởng (đối với chuyển tiền Có) hoặc thu tiền từ người nhận
lệnh (đối với lệnh chuyển Nợ).
1.1.2. VAI TRÒ CỦA THANH TOÁN CHUYỂN TIỀN ĐIỆN TỬ
Thanh toán giữa các ngân hàng qua chuyển tiền điện tử có vai trò quan
trọng trong quá trình luân chuyển vốn an toàn, nhanh chóng và hiệu quả
a. Đối với khách hàng:
Giúp thực hiện việc thanh toán hộ cho khách hàng chính xác, an toàn,

nhanh chóng và hiệu quả
Bằng khả năng nghề nghiệp và chuyên môn cao cũng như được sự trợ giúp
của các phương tiện kỹ thuật hiện đại, các ngân hàng có thể thanh toán cho khách
hàng một cách nhanh chóng, chính xác và an toàn nhất, đồng thời có thể cập nhật
thường xuyên, liên tục số dư tài khoản, tình hình thanh toán của các ngân hàng.
Ngoài ra, bằng khả năng nắm bắt tổng hợp các thông tin kinh tế cũng như am hiểu
trong nhiều lĩnh vực kinh doanh, ngân hàng cũng có thể tư vấn cho khách hàng
cách làm ăn có hiệu quả nhất
b. Đối với ngân hàng
Thanh toán điện tử thực hiện điều hoà vốn một cách nhanh chóng trong
nội bộ hệ thống giữa các ngân hàng và góp phần củng cố, phát triển mối quan hệ
giữa các ngân hàng
Thanh toán vốn giữa các ngân hàng có tác dụng điều hoà vốn trong nội bộ
hệ thống ngân hàng với nhau và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.Do nhu cầu vốn
của các chủ thể trong nền kinh tế là luôn biến động nên không ngân hàng nào có
thể đảm bảo chắc chắn là lượng vốn của mình có thể đáp ứng ngay được tất cả mọi
nhu cầu phát sinh. Chính vì thế mà ngân hàng thiếu vốn sẽ nhận được sự điều
chuyển của ngân hàng thừa vốn, ngân hàng thừa vốn sẽ không lâm vào tinh trạng
huy động quá nhiều nhưng không cho vay được mà vẫn phải trả lãi tiền gửi cho
khách còn ngân hàng thiếu vốn sẽ không phải chịu lãi suất tiền cao hơn lãi suất
huy động do phải đi vay nóng của các tổ chức tín dụng khác để duy trì hoạt động
kinh doanh. Ngoài ra các ngân hàng thừa vốn còn được tăng thêm thu nhập do
được hưởng lãi suất điều hoà vốn
Bằng việc thực hiện dịch vụ thanh toán cho khách hàng, ngân hàng có thể
huy động một khối lượng vốn lớn với chi phí thấp.
Thanh toán vốn giữa các ngân hàng còn góp phần củng cố và phát triển
mối quan hệ giữa các ngân hàng với nhau nếu họ thanh toán một cách sòng phẳng
nhanh chóng
c. Đối với nền kinh tế:
Tăng nhanh tốc độ tập trung thanh toán của ngân hàng đối với nền kinh

tế quốc dân và phát huy vai trò giám đốc đối với nền kinh tế.
Thực hiện tốt nhiệm vụ thanh toán vốn giữa các ngân hàng góp phần thúc
đẩy thanh toán không dùng tiền mặt phát triển, giảm lưọng tiền mặt trong lưu
thông, do đó góp phần giảm chi phí lưu thông xã hội như: in tiền, vận chuyển, bảo
quản, cất giữ… tiền mặt, tạo điều kiện cho việc điều hành chính sách tiền tệ của
NHNN và hạn chế rủi ro.
Hầu như tất cả các loại hình doanh nghiệp thực hiện kinh doanh đều có tài
khoản tại ngân hàng nên bằng việc theo dõi tình hình thanh toán giữa các ngành
nghề, các lĩnh vực kinh tế của khách hàng trong toàn bộ nền kinh tế ngân hàng có
thể đánh giá được ngành nào có khả năng phát triển từ đó tư vấn được cho Chính
phủ đầu tư vào lĩnh vực kinh tế đó, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Như vậy có thể thấy thực hiện tốt công tác thanh toán chuyển tiền điện tử
không chỉ có ý nghĩa to lớn đối với toàn bộ nền kinh tế, với các ngân hàng mà còn
đem lại lợi ích cho cả tổ chức, cá nhân thực hiện thanh toán qua ngân hàng.
1.2. CÁC CĂN CỨ PHÁP LÝ VỀ HOẠT ĐỘNG CTĐT
Năm 1993, NHNN Việt Nam đã có những quy định đầu tiên về việc phát
hành và thanh toán thẻ nhằm tạo điều kiện hành lang pháp lý cho việc bắt đầu phát
hành, sử dụng thanh toán thẻ. Đồng thời NHNN cũng rất khuyến khích các cá
nhân, tổ chức sử dụng tài khoản ngân hàng và thanh toán qua ngân hàng. Các văn
bản chính hướng dẫn có liên quan đến hoạt động CTĐT gồm:
Quyết định 308/QĐ/NH2 do thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt Nam ban hành ngày
16/9/1997 về qui chế lập, sử dụng, kiểm soát, xử lý, bảo quản và lưu trữ chứng từ
điện tử của các ngân hàng và tổ chức tín dụng
Quyết định số 353/1977/QĐ-NHNN2 do Thống đốc NHNN Việt Nam ban hành ngày
22/10/1997 về qui chế CTĐT.
Nghị định 64/2001/NĐ-CP do chính phủ ban hành ngày 20/9/2001 về hoạt động thanh
toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán: quy định về hoạt động thanh
toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán bao gồm các quy định về mở tài
khoản, thực hiện dịch vụ thanh toán, tổ chức và tham gia các hệ thống thanh toán
của tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán: mở tài khoản, sử dụng dịch vụ thanh toán

của người sử dụng dịch vụ thanh toán.
QĐ số 44/2002/QĐ-TTG do thủ tướng chính phủ ngày 21/3/2002 về việc sử dụng
chứng từ điện tử làm chứng từ kế toán để hạch toán và thanh toán vốn của các tổ
chức cung ứng dich vụ thanh toán.
Cụ thể, chứng từ điện tử là hình thức của lệch thanh toán được sử dụng trong thanh
toán điện tử, thay thế cho chứng từ bằng giấy được truyền đi giữa các ngân hàng
qua mạng vi tính. Chứng từ điện tử được tạo trên hệ thống máy vi tính thông qua
việc chuyển hoá chứng từ giấy thành chứng từ điện t. Khi chuyển hoá phải đảm
bảo đúng mẫu đã được cài đặt trong máy, đầy đủ các yếu tố của chứng từ điện tử
và chính xác với số liệu. Chương trình thanh toán điện tử đã cài sẵn các chứng từ
như: giấy nộp tiền, ngân phiếu thanh toán, uỷ nhiệm chi, séc chuyển khoản…
Chứng từ điện tử đủ điều kiện lưu hành phải được thể hiện dưới dạng dữ liẹu điện
tử, được mã hoá không bị thay đổi trong quá trình chuyển mạng máy tính hoặc trên
mạng mang tin như băng từ, đĩa từ và các loại thẻ thanh toán.
Chứng từ điện tử được chuyển hoá thành chứng từ giấy để vừa làm căn cứ để hạch
toán tài khoản điều chuyển vốn vừa làm chứng từ cho khách hàng.
Nội dung chứng từ điện tử bao gồm: các nội dung cơ bản của chứng từ giấy thông
thường:
1. Tên gọi của chứng từ (ví dụ: uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm thu…)
2. Số, ký hiệu chứng từ và ký hiệu loại nghiệp vụ
3. Ngày, tháng, năm lập chứng từ điện tử, ngày giá trị của chứng từ điện tử
4. Tên, địa chỉ, số hiệu tài khoản của đơn vị cá nhân chuyển tiền
5. Tên, địa chỉ, tài khoản của đơn vị cá nhân thụ hưởng
6. Tên, địa chỉ, mã ngân hàng thanh toán
7. Tên, địa chỉ, mã ngân hàng phục vụ bên thụ hưởng.
8. Nội dung của nghiệp vụ kinh tế phát sinh
9. Các chỉ tiêu về số lương và giá trị
10. Chữ ký điện tử của người lập và những người liên quan chịu trách
nhiệm về tính chính xác của dữ liệu trên chứng từ.
Chữ ký điện tử là loại khoá bảo mật tham gia hệ thống thanh toán điện tử được xác

định duy nhất cho mỗi cá nhân khi thực hiện chức năng nhiệm vụ của mình với
TTTT. Khi một cá nhân ghi chữ ký điện tử của mình trên chứng từ điện tử thì chữ
ký đó có giá trị như chữ ký bằng tay trên chứng từ giấy.
Quyết định số 309/2002/QĐ-NHNN về quy chế thanh toán điện tử liên ngân hàng do
NHNN ban hành ngày 9/4/2002 trong đó quy định lệnh thanh toán là một tin điện

×