Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

Tư liệu nhà nước văn lang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (54.53 KB, 5 trang )

Bài. Nhà nước Văn Lang. Lịch sử lớp 6
1. Nhà nước Văn Lang ra đời trong hoàn cảnh nào?
Như chúng ta đã biết, vào khoảng thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ thứ 7 trước công nguyên,
người nguyên thủy đã tập trung đông đúc, sống định cư ở các khu vực chân núi, thung
lũng gần những con suối và các bãi đất rộng lớn ven những con sông, nhất là những
con sông lớn, tạo thành những chiềng, chạ.
Những người trong chiềng, chạ chủ yếu có mối quan hệ gia đình, anh em, họ hàng;
nhiều làng, bản, chiềng, chạ có mối quan hệ qua lại, liên kết chặt chẽ với nhau tạo
thành Bộ Lạc.
Ở khu vực bắc bộ và bắc trung bộ ngày nay, thời nguyên thủy có nhiều bộ lạc sinh
sống, gần gũi với nhau về tiếng nói và phương thức hoạt động kinh tế.
Người dân các bộ lạc thuộc khu vực Bắc bộ và Bắc trung bộ được gọi chung là người
Lạc Việt.
Công cụ lao động phát triển, sức sản xuất ngày càng tăng, có người làm ra nhiều của
cải vật chất, giàu có, nhưng cũng có nhiều người rất ít của cải, nghèo khó, phải phụ
thuộc, làm th cho người giàu.
Những người giàu có là những người có khả năng tạo ra nhiều công cụ lao động tốt,
khai khẩn được nhiều ruộng đất, khỏe mạnh, dung mãnh, làm ra nhiều của cải vật
chất, nên những người này được bầu làm người quản lý làng, bản, chiềng, chạ.
Trong xã hội sự phân hóa giàu nghèo càng ngày càng lớn, mâu thuẫn giữa người giàu
với người nghèo càng ngày càng tăng. Điều này địi hỏi phải có một tổ chức chịu
trách nhiệm điều phối lợi ích, giải quyết mâu thuẫn.
Cơng cụ lao động phát triển mạnh, dân số gia tăng nhanh, diện tích ruộng đồng ngày
càng được mở rộng, quy mô sản xuất nông nghiệp ngày càng lớn, nhất là trồng lúa
nước. Do đó, việc phịng, chống bão, lụt, dẫn nước tưới tiêu càng ngày càng khó khăn.
Thơng qua câu chuyện Sơn Tinh – Thủy Tinh nhân dân ta đã diễn tả lại hoạt động
chống thiên tai, bão, lụt để bảo vệ nhà cửa, mùa màng, vật nuôi, cây trồng…. Từ đó
đặt ra yêu cầu là, cư dân các bộ lạc cần một người lãnh đạo, tập hợp sức mạnh toàn
dân để chống lại thiên tai, xây dựng cuộc sống no ấm, an tồn.
Các nhà khảo cổ đã tìm thấy số lượng vũ khí trong các di tích thời Đơng Sơn nhiều
hơn rất nhiều lần thời Phùng Nguyên, điều đó chứng tỏ, trong xã hội ngày càng có


nhiều xung đột. Xung đột không chỉ xảy ra giữa người lạc việt với các dân tộc khác,
mà cịn có sự xung đột giữa các bộ lạc Lạc việt với nhau.
Từ thực tế đó, trải qua các thế hệ nối tiếp nhau, ý thức xây dựng và củng cố mối quan
hệ gắn bó họ hàng, làng, bản được tăng cường. Điều đó, đã đưa đến sự liên minh giữa


nhiều bộ lạc lớn với nhau (mà sử cũ gọi là 15 bộ) thành một lãnh thổ chung lấy bộ lạc
Văn Lang làm trung tâm. Liên minh bộ lạc Văn Lang là bước khởi đầu cho việc hình
thành một quốc gia đầu tiên trong lịch sử Việt Nam.
Xem Kênh "HỌC LỊCH SỬ PHỔ THƠNG" để có thơng tin các bài học.
2. Nước Văn Lang được thành lập
Theo sử cũ ghi, khu vực khơng gian văn hóa Đơng Sơn (là vùng bắc bộ và bắc trung
bộ ngày nay) có 15 bộ lạc sinh sống, trong đó bộ lạc Văn Lang là một trong những bộ
lạc hùng mạnh, giàu có nhất.
Bộ lạc Văn lang cư trú trên vùng đất ven sông Hồng, từ Ba vì (Hà nội) đến Việt trì
(Phú thọ) ngày nay. Các nhà khảo cổ phát hiện, tại di chỉ Làng cả (Việt trì, phú thọ) có
nghề đúc đồng phát triển rất sớm và dân cư đông đúc.
Dựa vào thế mạnh có đơng dân cư, có nhiều cơng cụ lao động, vũ khí tốt, và được sự
ủng hộ của những người đứng đầu các bộ lạc khác ở vùng đồng bằng bắc bộ, và bắc
trung bộ ngày nay,
thủ lĩnh bộ lạc Văn lang đã hợp nhất các bộ lạc lại thành một nước, tự xưng là Hùng
vương, đóng đơ ở bạch hạc (phú thọ), đặt tên nước là Văn lang.
Theo truyền thuyết Âu cơ - Lạc long quân thì 50 người con theo mẹ sống trên đất liền
đã tôn người anh cả lên làm vua, hiệu là Hùng vương, đặt tên nước là Văn lang.
Nước Văn lang được thành lập, có bộ máy nhà nước cai quản chung, do vua Hùng
đứng đầu.
Xem Kênh "HỌC LỊCH SỬ PHỔ THƠNG" để có thông tin các bài học.
3. Nhà nước Văn lang được tổ chức như thế nào?
Vua Hùng lập nước, chia nước Văn lang thành 15 bộ, (trên cơ sở 15 bộ lạc trước đó),
các bộ đều chịu sự cai quản của nhà vua.

Đặt tướng văn là Lạc hầu, tướng võ là Lạc tướng, con trai nhà vua là Quan lang, con
gái nhà vua là Mị nương. Thực hiện chế độ vương quyền đời đời cha truyền con nối.
Nhà vua có quyền hành cao nhất trong mọi việc, giúp vua Hùng điều hành đất nước là
các Lạc hầu, Lạc tướng.
Đứng đầu các bộ, là Lạc tướng. Đứng đầu các chiềng, chạ (Làng, bản) là Bồ chính.
Trong chiềng, chạ, những người già được tơn trọng, thường giúp Bồ chính chăm lo
những cơng việc sảng xuất, chia ruộng cày cấy, và giải quyết các mối bất hòa của dân
làng.


Nhà nước Văn lang chưa có luật pháp và quân đội. Khi có chiến tranh, vua Hùng và
các lạc tướng huy động thanh niên trai tráng ở các chiềng, chạ tập hợp lại, cùng chiến
đấu.
Như vậy, chúng ta thấy rằng, tổ chức nhà nước Văn lang còn rất đơn giản, tuy nhiên,
đây là một bước tiến bộ rất quan trọng, làm tiền đề để xây dựng quốc gia hùng mạnh
sau này. Đó là việc đã tập hợp, thống nhất được cả 15 bộ lạc về một mối, có hệ thống
chính quyền điều hành mọi việc từ trung ương, đến làng, bản, dưới sự chỉ huy thống
nhất của vua Hùng.
Xem Kênh "HỌC LỊCH SỬ PHỔ THƠNG" để có thơng tin các bài học.
4. Nông nghiệp và các nghề thủ công thời Văn lang phát triển như thế nào?
Cư dân Văn lang lao động sản xuất trên nhiều ngành nghề khác nhau, như trồng trọt,
chăn nuôi, luyện kim, làm gốm, dệt vải, đánh bắt cá, làm nhà… nhưng, chủ yếu vẫn
là, sản xuất nông nghiệp trồng lúa nước.
Ở mỗi vùng khác nhau, tùy theo địa hình, thời tiết, và tính chất thổ nhưỡng, mà cư
dân Lạc việt có cách deo cấy trên ruộng đồng, hay nương rẫy.
Công cụ lao động nông nghiệp chủ yếu, là đồ đồng, đặc biệt là, họ đã sáng tạo ra lưỡi
cày bằng đồng; việc xuất hiện lưỡi cày bằng đồng, chứng to cư dân Văn lang đã biết,
dùng sức của những con vật ni như, trâu, bị, để cày xới đất thay cho sức người.
Thóc lúa, là nguồn lương thực chủ yếu của cư dân Văn lang, ngồi ra họ cịn biết
trồng thêm các loại cây hoa màu khác, như: khoai, đậu, bầu, bí, chuối, cam ….

Một số lĩnh vực hoạt động khác trong nông nghiệp như, nghề chăn nuôi, đánh bắt cá
cũng phát triển, cư dân Văn lang đã biết trồng dâu, nuôi tằm để lấy tơ dệt vải.
Các nghề thủ công như, làm gốm, dệt may, đóng thuyền, làm nhà, đã có sự chun
mơn hóa. Nghĩa là, đã có một lực lượng lao động chuyên làm những công việc này.
Điều này được xuất phát từ nhu cầu, có nhà để ở, có quần áo để mặc, có phương tiện
để đi lại.
Luyện kim là nghề phát triển mạnh nhất thời bấy giờ, nghề này đã được chun mơn
hóa cao, có nhiều xưởng luyện kim, và thợ luyện kim. Thời này, người ta cũng đã phát
hiện ra kim loại sắt, và biết rèn đồ sắt. Ngoài việc, đúc, rèn cơng cụ lao động, và vũ
khí, như: lưỡi cày, lưỡi hái, rìu, cuốc, mũi tên, dao găm, mũi giáo… thì, nghề luyện
kim cịn đúc các vật dụng phục vụ cho đời sống vật chất, và tinh thần của con người,
như, trống đồng, thạp đồng. Điều này không chỉ thể hiện kỹ thuật đúc đồng đã phát
triển cao, mà còn thể hiện đời sống tinh thần của cư dân Văn lang phát triển sâu sắc,
phong phú, đa dạng.


Trống đồng là một loại nhạc cụ bằng đồng, có kiểu dáng, hoa văn, họa tiết, đặc trương
tùy vào từng vùng miền. Trống đồng được coi là biểu tượng văn hóa của cư dân Lạc
việt, nó được dùng trong các nghi lễ tôn giáo, trong các lễ hội, và, trong chiến tranh,
khi người thủ lĩnh bộ lạc kêu gọi mọi người từ khắp nơi tụ về, để cùng chiến đấu.
Ngày nay, người ta đã phát hiện thấy trống trống đồng ở nhiều nơi trên đất nước ta, và
cả nước ngoài, trong đó, số lượng nhiều nhất vẫn là trống đồng Đông sơn ở nước ta.
Điều này thể hiện, đất nước ta thời đó có nghề đúc đồng phát triển rất mạnh; đời sống
văn hóa tinh thần của nhân dân phát triển cao; có sự giao thương qua lại giữa các
vùng trong nước, và với cả nước ngoài.
Theo các nhà khảo cổ, thạp đồng có chức năng chính là để dự trữ lương thực. Mặt
khác, trong một số phát hiện, người ta thấy, trong thạp đồng còn chứa nhiều than tro
và răng người. Điều này chứng tỏ, chiếc thạp còn được dùng để mai táng người sau
khi chết.
Xem Kênh "HỌC LỊCH SỬ PHỔ THƠNG" để có thơng tin các bài học.

5. Đời sống vật chất của cư dân Văn lang như thế nào?
Thời Văn lang, nghề làm nhà ở phát triển, chứng tỏ cư dân thời này, không chỉ dừng
lại ở nhu cầu cần có một chỗ ở, mà cịn cần chỗ ở phải đẹp, chắc chắn, an tồn, có thể
tránh được bão, lụt, và thú giữ. Nhà ở phổ biến là nhà sàn, mái nhà cong hình thuyền,
hoặc mái trịn hình mũi thuyền, vật liệu làm nhà là gỗ, tre, nứa, lá,….. nhà có cầu
thang để lên xuống.
Làng, chạ, thường gồm vài chục gia đình, sống quay quần ở ven đồi, hoặc ở các vùng
đất cao ven sông, ven biển. Ở một vài làng, chạ, người ta đã biết dùng tre rào quanh
làng để ngăn thú giữ. Phương tiện đi lại giữ các làng, chạ, chủ yếu bằng thuyền.
Thức ăn chính hàng ngày của người dân là cơm, có rau, củ, quả, thịt, cá. Trong bữa
ăn, họ đã biết dùng mâm, chén bát, mi. Họ cịn biết làm muối, mắm cá, và dùng
gừng làm gia vị.
Ngày thường, nam thì đóng khố, mình trần, đi chân đất; cịn nữ thì mặc váy, áo xẻ
giữa, có yếm che ngực. Mái tóc có nhiều kiểu, hoặc là cắt ngắn bỏ xõa, hoặc búi tó,
hoặc tết đi sam để sau lưng. Ngày lễ họ thích đeo vịng tay, vịng cổ, chuỗi hạt,
khun tai, và Phụ nữ mặc váy xòe kết bằng long chim, đội mũ cắm lông chim, hay
bông lau.
6. Đời sống tinh thần của cư dân Văn lang có gì mới?
Xem Kênh "HỌC LỊCH SỬ PHỔ THƠNG" để có thơng tin các bài học.
Trong xã hội Văn lang có 3 tầng lớp khác nhau đó là: Quyền q, dân tự do, và nơ tì.


Tuy nhiên, sự phân biệt đẳng cấp, thứ bậc giữa các tầng lớp trong xã hội thời kỳ này,
chưa sâu sắc.
Người dân Văn lang đã biết tổ chức nhiều lễ hội, và các trò vui chơi. Trong các lễ hội,
mọi người đều ăn mặc đẹp, nhảy múa, hát ca, hòa cùng tiếng trống đồng, tiếng cồng
chiêng rộn rang, náo nức.
Họ còn tổ chức chơi đua thuyền, dã gạo.
Tiếng trống đồng trong ngày hội vang lên, thể hiện điều mong muốn được mưa thuận,
gió hịa, mùa màng tươi tốt, bội thu, sinh con đàn cháu đống, làm ăn yên ổn.

Trên mặt trống đồng, chính giữa là ngơi sao nhiều cánh, tượng trưng cho thần mặt
trời, và những vòng tròn đồng tâm xung quanh, thể hiện trang phụ, lễ hội, trò chơi, và
những hoa văn trang trí tinh xảo.
Thời Văn lang, mối quan hệ tình cảm gia đình, vợ chồng, anh em rất bền chặt, có trên
dưới, trước sau rõ ràng.
Các câu chuyện Bánh chưng, Bánh giày và chuyện Trầu, cau đã thể hiện điều đó. Các
câu chuyện này, cũng cho chúng ta biết, nhân dân ta thời đó đã có tục ăn trầu, làm
bánh chưng, bánh giầy nhân dịp các ngày lễ hội.
Về tín ngưỡng, người Lạc việt thờ cúng thần núi, thần sông, thần mặt trời, thần mặt
trăng, thần đất, thần nước. Người chết được chơn trong thạp, bình, mộ thuyền, kèm
theo những công cụ, và trang sức quý giá.
Như vậy, có thể nói, cư dân thời Văn lang đã có khiếu thẩm mỹ khá cao, đời sống vật
chất, và tinh thần của xã hội đã hòa quyện vào trong mỗi con người, tạo nên tình cảm
cộng đồng sâu sắc, bền chặt, có nền nếp.



×