Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Mối quan hệ giữa hoạt động thể chất và sức khỏe tâm thần ở học sinh: Nghiên cứu tổng quan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (460.18 KB, 11 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>MỐI QUAN HỆ GIỮA HOẠT ĐỘNG THỂ CHẤT VÀ SỨC </b>


<b>KHỎE TÂM THẦN Ở HỌC SINH: NGHIÊN CỨU TỔNG QUAN</b>



PGS.TS Đặng Hồng Minh1


<b>Tóm tắt: Hoạt động thể chất có ý nghĩa quan trọng đối với sức khỏe thể chất, </b>
sức khỏe tâm thần và tự trọng ở học sinh. Bài viết này tổng quan các nghiên
cứu đa phân tích trên thế giới về mối quan hệ giữa hoạt động thể chất và sức
khỏe tâm thần. Bài viết cũng tổng hợp các chiến lược tăng cường hoạt động
thể chất cho học sinh trong nhà trường ngồi khn khổ của mơn giáo dục
thể chất đã được chứng minh có hiệu quả và khả năng áp dụng ở Việt Nam.
<b>Từ khóa: Hoạt động thể chất, sức khỏe tâm thần, học sinh, can thiệp</b>
<b>1. Đặt vấn đề</b>


<i><b>1.1. Tầm quan trọng của hoạt động thể chất đối sức khỏe của học sinh</b></i>


Các hoạt động thể chất đều đặn đem lại nhiều lợi ích cho trẻ em và vị thành
niên, bao gồm tăng cường hệ tim mạch, trao đổi chất, xương cơ, sự lành mạnh về
tâm lý và kết quả học tập (Strong et al., 2005). Hoạt động thể chất đều đặn đóng
vai trị quan trọng trong phịng ngừa các bệnh mạn tính khi trưởng thành, bao gồm
tim mạch, ung thư, đột quỵ- ba bệnh dẫn đầu tử vong ở người trưởng thành trên 18
tuổi. Thiếu hoạt động ở người trẻ tuổi có thể tăng nguy cơ suy hại sức khỏe như béo
phì, tiểu đường, tim mạch, lỗng xương (Janssen & LeBlanc, 2010). Theo khuyến
nghị của Tổ chức Y tế thế giới, trẻ em từ 5-17 tuổi cần có hoạt động thể chất ở mức
độ vừa và mạnh ít nhất 60 phút mỗi ngày. Các hoạt động thể chất hàng ngày cần
dưới dạng tiêu hao nhiều oxy và tăng nhịp tim (như đi bộ, bơi, đạp xe, chạy, leo
núi, nhảy thể thao, v.v). Các hoạt động cường độ mạnh cần được kết hợp, bao gồm
những hoạt động tăng sức mạnh của cơ và xương ít nhất 3 lần tuần (WHO, 2010).


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<i><b>1.2. Mối quan hệ giữa hoạt động thể chất và sức khỏe tâm thần ở học sinh</b></i>



Các minh chứng cho thấy hoạt động thể chất không những tốt cho sức khỏe
thể chất của mỗi cá nhân nói chung và trẻ em nói riêng, mà còn tốt cho sức khỏe
tâm thần và sự lành mạnh về cảm xúc. Chẳng hạn, hoạt động thể chất cải thiện tâm
trạng và giảm các triệu chứng trầm cảm và lo âu (dẫn từ Penedo & Dahn, 2005).
Những cá nhân được chẩn đoán trầm cảm tham gia vào các can thiệp liên quan đến
vận động tăng nhịp tin có sự cải thiện đáng kể so với những bệnh nhận được trị liệu
thuốc (Babyak et al., 2000). Hoạt động thể chất đều đặn có thể phòng ngừa khởi
phát trầm cảm. Hơn thế nữa, chức năng cuộc sống cũng cải thiện nhờ hoạt động
thể chất do tăng cường cơ hội trải nghiệm khỏe mạnh và sức khỏe thể chất (CDC,
2001). Tuy nhiên, hầu như các nghiên cứu về quan hệ giữa hoạt động thể chất và
sức khỏe tâm thần lại tập trung vào đối tượng người lớn. Bài viết này tổng quan các
nghiên cứu liên quan đến hoạt động thể chất và sức khỏe tâm thần ở đối tượng trẻ
em/học sinh, và tập trung đến các vấn đề trầm cảm, lo âu, tự trọng.


<b>2. Phương pháp</b>


Các bài báo khoa học tiếng Anh từ năm 2010 liên quan đến hoạt động thể
chất (physical activity, exercise, sport) và sức khỏe tâm thần ở trẻ em (học sinh, trẻ
em tuổi đến trường), tập trung đến trầm cảm, lo âu và tự trọng trên cơ sở dữ liệu
PsychINFO, Web of Science, Medline. Các bài báo tiếng Việt với từ khóa giáo dục
thể chất, hoạt động thể chất được tìm trên Google Scholar. Các tiêu chí lựa chọn là
(a) bài báo khoa học có phản biện; (b) nghiên cứu mối quan hệ giữa hoạt động thể
chất đến các biểu hiện của có vấn đề về sức khỏe tâm thần (trầm cảm, lo âu, rối loạn
hành vi, tự trọng, v.v; (c) trẻ em, hoặc học sinh từ 3-18 tuổi; (d) loại trừ các trẻ em
có suy giảm chức năng thể chất hoặc mắc bệnh mạn tính.


<b>3. Kết quả</b>


<i><b>Trầm cảm</b></i>



Nghiên cứu đa phân tích (meta-analysis) đầu tiên tổng hợp mối quan hệ giữa
hoạt động thể chất và trầm cảm báo cáo cỡ tác động (ES) -0.53 với 5 nghiên cứu ở
những người trẻ tuổi dưới 24. Tuy nhiên, trong 5 nghiên cứu này bao gồm các các
nghiên cứu không can thiệp (theo Biddle & Asare, 2011). Nghiên cứu đa phân tích
tiếp theo với nhóm vị thành niên và thanh niên từ 11-21 tuổi, chỉ dùng các nghiên
cứu thực nghiệm, báo cáo cỡ tác động -0.38 khẳng định hiệu quả của hoạt động thể
chất ở nhóm thực nghiệm so với nhóm đối chứng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

nhóm trẻ 12-18 tuổi, cho thấy mức độ tác động nhỏ khơng có ý nghĩa -0.15, nhỏ hơn
rất nhiều so với các nghiên cứu ở người lớn -0.72. Larun và cs (2006) tổng quan hệ
thống các can thiệp liên quan đến hoạt động thể chất và trầm cảm ở vị thành niên và
thiếu niên dưới 20 tuổi. Có 5 nghiên cứu chỉ ra hoạt động thể chất mạnh như luyện
tập gym, thể dục giảm cân, có hiệu quả hơn nhóm chứng khơng hoạt động gì với cỡ
tác động ở mức trung bình là -0.66. Khi so sánh giữa nhóm hoạt động mạnh và nhóm
hoạt động cường độ thấp, và hoạt động mạnh và can thiệp tâm lý, khơng có sự khác
biệt giữa các nhóm. Kết quả này gợi ý là hiệu quả của hoạt động thể chất, kể cả cường
độ yếu có hiệu quả tương đương với can thiệp tâm lý đối với trầm cảm.


Nhìn chung, hoạt đơng thể chất có hiệu quả để giảm trầm cảm so với khơng
hoạt động và khơng có can thiệp gì ở nhóm trẻ em. Tuy nhiên, cỡ tác động khơng
cao, nhiều nghiên cứu cắt ngang cho thấy quan hệ tương quan, không cho biết quan
hệ nhân quả giữa hai yếu tố này. Hơn nữa, các can thiệp liên quan đến hoạt động
không chỉ rõ được về cường độ hoạt động, mức độ thường xuyên, thời lượng và các
dạng hoạt động thể chất cụ thể.


<i><b>Lo âu</b></i>


Số lượng các nghiên cứu về hoạt động thể chất và giảm lo âu ở trẻ em là rất
nhỏ. Petruzzello và cs (1991) báo cáo cỡ tác động từ trung bình -0.47 với các can
thiệp hoạt động thể chất với lo âu trên đối dượng trẻ dưới 18 tuổi. Cũng nghiên cứu


của Larun và cs chỉ ra cỡ tác động -0.48 giữa nhóm hoạt động thể chất mạnh và
nhóm khơng có can thiệp. So sánh giữa nhóm hoạt động thể chất mạnh với nhóm
hoạt động cường độ thấp, và với nhóm can thiệp tâm lý, khơng có sự khác biệt


<i><b>Tự trọng</b></i>


Đa phân tích của Ekeland và cs, (2005) xem xét liệu các chương trình can
thiệp về hoạt động thể chất có tăng tự trọng ở trẻ từ 3-20 tuổi. Kết quả cho thấy với
8 nghiên cứu thực nghiệm giữa can thiệp và không can thiệp, cỡ tác động ở mức
trung bình 0.49 với nhóm can thiệp và nhóm chứng. Tuy nhiên các nghiên cứu mà
Ekeland tổng hợp đều khơng có kết quả theo dõi (follow-up) và là can thiệp ngắn.
Cũng trong tổng quan tổng hợp của Ekeland và cs, có 4 nghiên cứu khác so sánh
hoạt động thể chất như một cấu phần của chương trình can thiệp tổng thể nhiều
thành phần với nhóm đối chứng khơng tham gia vào can thiệp gì. Cỡ tác động là
0.51 với tự trọng cho nhóm có can thiệp. Nhìn chung, hoạt động thể chất có thể
tăng tự trọng, ít nhất trong thời gian ngắn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

nhiên (randomized controlled trials), nghiên cứu bán thực nghiệm và nghiên cứu cắt
ngang. Các hoạt động thể chất được miêu tả trong các nghiên cứu thuộc nhiều dạng,
từ luyện tập aerobic (tăng nhịp tim, cần nhiều oxy), luyện tập sức bền/sức mạnh,
các luyện tập linh hoạt, chương trình giáo dục thể chất học đường, thể thao, luyện
tập vận động, yoga và thiền, hỗn hợp. Biến đầu ra về sức khỏe tâm thần bao gồm
trầm cảm, lo âu, tự trọng, quan niệm về bản thân, stress, các biểu hiện stress sau
sang chấn, rối loạn dạng cơ thể, suy nghĩ tự sát, các vấn đề về hành vi, loạn thần,
các vấn đề về chức năng xã hội. Kết quả cho thấy tăng mức độ hoạt động thể chất có
tác động có ý nghĩa đến việc giảm trầm cảm, lo âu, stress, các vấn đề cảm xúc ở trẻ
em. Cả nghiên cứu thực nghiệm ngẫu nhiên và phi thực nghiệm đều cho thấy hoạt
động thể chất tăng mức độ tự trọng. Cỡ tác động khoảng 0.3 với các nghiên cứu thực
nghiệm và 0.57 với nghiên cứu phi thực nghiệm. Kết quả này cũng tương đồng với
kết quả của Larun và cs, (2006). Các dạng hoạt động thể chất khác nhau cũng có tác


động khác nhau đến sức khỏe tâm thần ở trẻ. Các hoạt động thể chất liên quan đến
luyện tập sức mạnh/độ bền và các hoạt động hỗn hợp dẫn đến tăng nhịp tim là hiệu
quả nhất. Cơ chế lý giải có thể là do các hoạt động này làm tăng lượng serotonin và
các chất dẫn truyền thần kinh khác, giúp giảm đi các cảm xúc âm tính. Cường độ
luyện tập có giá trị điều hịa. Trong khi mức độ luyện tập cao có tác động lớn nhất
đến sức khỏe tâm thần trẻ em trong các nghiên cứu thực nghiệm thì mức độ luyện
tập trung bình có hiệu quả cao nhất trong các nghiên cứu phi thực nghiệm. Một kết
quả có ý nghĩa quan trọng trong đa phân tích của Ann và Fedewa là các can thiệp
nhóm hoặc cá nhân đều có tác động tích cực với sức khỏe tâm thần của trẻ em. Các
chương trình này có thể hướng dẫn bởi bất cứ người lớn nào, giáo viên, nghiên cứu
viên, giáo viên thể dục, v.v. Điều này gợi ý rằng các can thiệp hoạt động thể chất có
thể được đưa vào nhà trường vì thời gian trẻ em ở trường rất nhiều. Khi trẻ khơng
có điều kiện đến bệnh viện, cơ sở y tế hoặc cơ sở chăm sóc chuyên biệt về sức khỏe
tâm thần, nhà trường là nơi lý tưởng để thực hiện các hoạt động hỗ trợ sức khỏe tâm
thần cho học sinh, thông qua chính các chương trình hoạt động thể chất.


<b>4. Đề xuất về tăng cường hoạt động thể chất ở học sinh ngoài giáo dục thể </b>
<b>chất trong trường học</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

chất. Lý do vì học sinh dành nhiều thời gian ở trường và nhà trường có sẵn nguồn
lực, nhân lực, thiết bị, không gian để tổ chức các hoạt động thể chất cho học sinh.


Các hoạt động thể chất trong nhà trường dưới hình thức sơ đẳng nhất là giáo dục thể
chất (GDTC), các câu lạc bổ thể thao dành cho những học sinh quan tâm. Mặc dù GDTC
là bắt buộc với học sinh ở tất cả các cấp ở tất cả các nước trên thế giới, các giờ học này
thường diễn ra thiếu hứng thú, không thường xuyên và học sinh thường hoạt động thể
chất ở mức thấp (Simons-Morton et al., 1994). Theo Tudor-Locke và cộng sự (2006),
chương trình GDTC ở trường chỉ đáp ứng 8-11% các hoạt động thể chất cần thiết cho học
sinh. Thêm nữa, trường học cũng bị áp lực càng tăng về thành tích, kết quả học tập của
học sinh. Điều này dẫn đến nhà trường ưu tiên thời gian dạy, và các hoạt động sư phạm,


ít thời gian cho hoạt động thể chất như GDTC hoặc các giờ nghỉ, giải lao giữa giờ. Bên
cạnh đó, cơng nghệ hiện đại như chơi game, xem TV, lướt web, v.v. và giao thông hiện
đại (ví dụ như đi bus đến trường, bố mẹ đưa đến trường thay vì trẻ tự đi bộ hay đạp xe đến
trường như trước kia) khiến trẻ ít tham gia vào các hoạt động hơn (Stevens et al., 2008).


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

kiện để học sinh được lựa chọn các hoạt động phù hợp với thể lực, nguyện vọng của bản
thân và điều kiện của nhà trường (Bộ GD-ĐT, 2018).


Để tăng hoạt động thể chất của học sinh, cần tăng cơ hội học sinh hoạt động và chủ
động (Mahar, 2011). Nhà trường có thể cải thiện các hoạt động thể chất và hạn chế thời
lượng tĩnh của học sinh thơng qua nhiều hình thức khác nhau, không chỉ trong khuôn
khổ của môn học giáo dục thể chất. Sau đây là những giải pháp đã được nghiên cứu trên
thế giới để tăng cường hoạt động thể chất ở học sinh dưới các hình thức khác.


<i><b>4.1. Nghỉ ngắn giữa giờ trên lớp</b></i>


Một chiến lược tăng hoạt động thể chất hàng ngày cho học sinh ở trường là thực
hiện nghỉ ngắn giữa giờ học trong lớp để dành cho hoạt động thể chất. Hoạt động thể
chất trong lớp học có thể là tất cả các hoạt động, bất kể cường độ, được thực hiện trong
lớp học trong giờ lên lớp, bao gồm trong giờ học cũng như nghỉ giữa các môn học, giờ
học các mơn đặt biệt như nhạc, họa. Nó khơng bao gồm giờ giáo dục thể chất, hoặc thể
dục sau giờ ra chơi, hay sau giờ ăn trưa. Nghỉ giữa giờ trên lớp này có thể thiết kế 10-15
phút hoạt động thể chất ở mức độ mạnh hoặc trung bình. Các hình thức hoạt động thể
chất có thể đa dạng, nhảy, tập thể dục tại chỗ, v.v. Cách thức này được chứng minh là
có hiệu quả tăng cường hoạt động thể chất, giảm chỉ số cơ thể (BMI) ở học sinh (Mahar
et al., 2006). Giáo viên bộ môn cần được tập huấn để hiểu rõ vai trò của giáo dục thể
chất và được khuyến khích thiết kế những khoảng thời gian dành cho hoạt động thể chất
trong giờ học của mình (tốn, văn, khoa học, v.v.) và trong thời gian nghỉ giữa các mơn
học. Khó khăn khi áp dụng cách thức này là sức ép về tiến độ nội dung chương trình và
thành tích học tập mà giáo viên và nhà trường đều thực hiện. Tuy vậy, các nghiên cứu


đều chứng minh là nghỉ giữa giờ dành cho hoạt động thể chất khơng chỉ khuyến khích
sức khỏe thể chất cho trẻ em, mà cịn có thể dễ dàng thực hiện trong lớp học mà không
cần giảm nhẹ việc dạy học, đồng thời cải thiện việc học cũng như các hành vi trên lớp
của học sinh (Donnelly et al., 2009). Nghỉ giữa giờ trên lớp thuận lợi và khả thi do khơng
q địi hỏi về kế hoạch tổ chức, không cần dụng cụ, thời gian ngắn. Cách thức này đặc
biệt hiệu quả đối với học sinh tiểu học (Koll & Cook, 2013)


Thiếu không gian cũng là một khó khăn để thực hiện cách thức này. Bàn và
không gian lớp học nên được sắp xếp lại để có khơng gian mở cho học sinh vận
động trong thời gian nghỉ giữa giờ.


<i><b>4.2. Giờ giải lao</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

vào sự phát triển của trẻ em, trong đó nhấn mạnh giờ giải lao là phần bổ sung chứ
khơng phải thay thế cho giáo dục thể chất, góp phần vào 60 phút hoạt động thể chất
cho trẻ em. Trong giờ giải lao, tương tác với bạn đồng lừa có ý nghĩa quan trọng
mà ở đó, trẻ có thể học được các kĩ năng xã hội như giao tiếp, thương thuyết, hợp
tác, giải quyết vấn đề, v.v. (Council on School Health, 2013)


Nhà trường nên đảm bảo 15-20 phút/ngày học giờ giải lao cho học sinh. Không
gian trong nhà trường cần mở, có nhiều chỗ chơi, hoặc thiết bị chơi, thể dục để khuyến
khích hoạt động thể chất của học sinh. Nhà trường cũng cần bố trí giám thị giờ giải lao
và tập huấn họ để khơng những đảm bảo an tồn cho học sinh mà còn tương tác với học
sinh trong giờ giải lao để gợi ý, hướng dẫn và khuyến khích hoạt động thể chất.


<i><b>4.3. Hoạt động thể thao trong nhà trường và ngoài nhà trường</b></i>


Thể thao là một hoạt động không thể thiếu trong trường học. Các hoạt động
này có thể dưới hình thức trong nhà trường và ngoài nhà trường-thi đấu, diễn tập
với các đội ở trường khác. Nhà trường cần tổ chức các câu lạc bộ thể thao với nhiều


môn đa dạng bao gồm cả các mơn theo đội như bóng đá, bóng rổ, mơn cá nhân như
bóng bàn, thể dục dụng cụ, chạy, v.v. và các giải đấu trong và ngoài trường. Dù
các nghiên cứu đều nhấn mạnh ảnh hưởng của thể thao đối với kết quả học tập, tự
trọng, sức khỏe thể chất và tâm lý của học sinh và yêu cầu về thể thao trong nhà
trường đều đươc phổ biến ở tất cả các nước kể cả Việt Nam, thực tế cho thấy ngân
sách cho hoạt động này thường bị cắt. Điều đó bao gồm cả việc thiếu thiết bị, dụng
cụ, thiếu huấn luyện viên, thiếu các giải thi đấu khiến cơ hội để học sinh tăng cường
hoạt động thể chất giảm đi. Ngoài ra, nhà trường cũng cần xây dựng các hoạt động
thể thao cho các học sinh khuyết tật, đảm bảo quyền bình đẳng cho các em.


<i><b>4.4. Các chương trình sau giờ học</b></i>


Các chương trình sau giờ học là cơ hội tốt để khuyến khích hoạt động thể chất
cho học sinh trong trường học. Trong bối cảnh các cha mẹ đều đi làm toàn thời
gian, và tan sở muộn hơn giờ tan học chính thức của trẻ em, các chương trình sau
giờ học là một giải pháp giúp học sinh được vui chơi ở môi trường an tồn, có giám
sát. Trong 15 năm qua, số chương trình sau giờ học tăng lên ở các trường ở các
nước phát triển như Hoa Kỳ, Anh, Pháp (Koll & Cook, 2013). Hiện nay, các trường
học ở Việt nam thường có chương trình sau giờ học. Các nội dung về hoạt động thể
chất cần được bổ sung vào chương trình sau giờ học này.


<i><b>4.5. Một số nghiên cứu thử nghiệm chương trình khuyến khích hoạt động </b></i>
<i><b>thể chất trong trường học trên thế giới</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

học đã được nghiên cứu và chứng minh có hiệu quả đối với chỉ số cơ thể, khả năng
chú ý, hứng thú và học tập của học sinh. Chương trình Take10! ( là
chương trình nghỉ giữa giờ trên lớp dành cho hoạt động thể chất. Kibbe and colleagues
(2011) đã đánh giá hiệu quả của chương trình và cho thấy mức độ hoạt động thể chất
của học sinh mẫu giáo đến lớp 5 tăng thêm. Các hành vi tuân thủ, chỉ số cơ thể, các
thói quen về sức khỏe và kết quả học tập cũng được cải thiện. Một chương trình khác


là chương trình “Energizers” ( Với 10
phút hoạt động thể chất trong giờ học cùng với trung bình 782 bước/ngày sẽ giúp học
sinh tăng các hành vi tuân thủ trên lớp học. Chương trình Jammin› Minute cũng là
một chương trình hiệu quả để tăng cường hoạt động thể chất cho học sinh trong khi
nhà trường chưa có đủ nguồn lực để cung cấp chương trình giáo dục thể chất tổng
thể cho học sinh (Mahar et al., 2006). Chương trình Texas I-CAN (Bartholomew and
Jowers, 2011) tập huấn cho giáo viên tiểu học cách thay đổi kế hoạch dạy học để tích
hợp hoạt động thể chất trong giờ lên lớp các mơn cơ bản như tốn, văn, khoa học, v.v.
Học sinh được khuyến khích đi 1000 bước/ngày. Các nghiên cứu này đều chỉ ra việc
giáo viên bộ môn dành thời gian hoạt động thể chất cho học sinh trong giờ học của
mình khơng làm tốn thời gian dạy học, khơng cản trở thành tích học tập của học sinh,
mà có hiệu quả tích cực đối với học tập của học sinh (Erwin et al., 2012).


<b>5. Kết luận</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

tập, sức khỏe, xã hội cần được triển khai. Nhà trường cũng cần có tiếp cận tổng thể
đối với việc khuyến khích hoạt động thể chất cho học sinh.


<i><b>Lời cảm ơn: Nghiên cứu này được tài trợ bởi Quỹ Phát triển khoa học và công </b></i>


nghệ Quốc gia (NAFOSTED) trong đề tài mã số 501.02-2016.03


<b>Tài liệu tham khảo</b>


Ahn, S., & Fedewa, A. L. (2011). A meta-analysis of the relationship
<i>between children’s physical activity and mental health. Journal of pediatric </i>


<i>psychology, 36(4), 385-397.</i>


Babyak, M., Blumenthal, J. A., Herman, S., Khatri, P., Doraiswamy, M.,


Moore, K., ... & Krishnan, K. R. (2000). Exercise treatment for major depression:
<i>maintenance of therapeutic benefit at 10 months. Psychosomatic medicine, 62(5), </i>
633-638.


Biddle, S. J., & Asare, M. (2011). Physical activity and mental health in
<i>children and adolescents: a review of reviews. British journal of sports medicine, </i>
bjsports90185.


Centers for Disease Control and Prevention. (2001). Effects of physical activity
<i>on health and disease: A report from the Surgeon General. Retrieved March, 14, 2007.</i>


Craft, L. L., & Landers, D. M. (1998). The effect of exercise on clinical
<i>depression and depression resulting from mental illness: A meta-analysis. Journal </i>


<i>of Sport and Exercise Psychology, 20(4), 339-357.</i>


Donnelly, J. E., Greene, J. L., Gibson, C. A., Smith, B. K., Washburn, R.
A., Sullivan, D. K., ... & Jacobsen, D. J. (2009). Physical Activity Across the
Curriculum (PAAC): a randomized controlled trial to promote physical activity
<i>and diminish overweight and obesity in elementary school children. Preventive </i>


<i>medicine, 49(4), 336-341.</i>


Ekeland, E., Heian, F., & Hagen, K. B. (2005). Can exercise improve self
esteem in children and young people? A systematic review of randomised controlled
<i>trials. British journal of sports medicine, 39(11), 792-798.</i>


Erwin, H., Fedewa, A., Beighle, A., & Ahn, S. (2012). A quantitative review
of physical activity, health, and learning outcomes associated with classroom-based
<i>physical activity interventions. Journal of Applied School Psychology, 28(1), 14-36. </i>


Janssen, I., & LeBlanc, A. G. (2010). Systematic review of the health benefits
<i>of physical activity and fitness in school-aged children and youth. International </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

Kohl III, H. W., & Cook, H. D. (2013). Approaches to physical education in
schools, Washington, D.C: National Academies Press.


Larun, L., Nordheim, L. V., Ekeland, E., Hagen, K. B., & Heian, F. (2006).
Exercise in prevention and treatment of anxiety and depression among children
<i>and young people. Cochrane database of systematic reviews, (3)</i>


Mahar, M. T. (2011). Impact of short bouts of physical activity on
<i>attention-to-task in elementary school children. Preventive medicine, 52, S60-S64.</i>


Murray, R., Ramstetter, C., Devore, C., Allison, M., Ancona, R., Barnett, S... &
<i>Okamoto, J. (2013). The crucial role of recess in school. Pediatrics, 131(1), 183-188.</i>


Penedo, F. J., & Dahn, J. R. (2005). Exercise and well-being: a review of
<i>mental and physical health benefits associated with physical activity. Current </i>


<i>opinion in psychiatry, 18(2), 189-193.</i>


Petruzzello, S. J., Landers, D. M., Hatfield, B. D., Kubitz, K. A., & Salazar,
W. (1991). A meta-analysis on the anxiety-reducing effects of acute and chronic
<i>exercise. Sports medicine, 11(3), 143-182.</i>


Simons-Morton, B.G., Taylor, W.C., Snider, S.A., et al., (1994). Observed
levels of elementary and middle school children’s physical activity during physical
<i>education classes. Preventive Medicine, 23(4):437–441</i>


Stevens, T. A., To, Y., Stevenson, S. J., & Lochbaum, M. R. (2008). The


importance of physical activity and physical education in the prediction of academic
<i>achievement. Journal of Sport Behavior, 31(4), 368.</i>


Strong, W. B., Malina, R. M., Blimkie, C. J., Daniels, S. R., Dishman, R. K.,
Gutin, B., ... & Rowland, T. (2005). Evidence based physical activity for
<i>school-age youth. The Journal of pediatrics, 146(6), 732-737.</i>


Tudor-Locke, C., Lee, S. M., Morgan, C. F., Beighle, A., & Pangrazi, R. P.
(2006). Children’s pedometer-determined physical activity during the segmented
<i>school day. Medicine and science in sports and exercise, 38(10), 1732-1738.</i>


WHO (2010) Global recommendations on physical activity for health, Genève,
<b>WHO ISBN: 9789241599979</b>


Vũ Quỳnh Anh & Lê Đức Thiện (2017) Thực trạng và biện pháp nâng cao
<i>hiệu quả công tác Giáo dục thể chất cho học sinh, sinh viên, Tạp chí thể thao, 2017</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>



<b>A RELATIONSHIP BETWEEN PHYSICAL ACTIVITY </b>


<b>AND MENTAL HEALTH IN STUDENTS: </b>



<b>A LITERACTURE REVIEW</b>



Assoc.Prof.PhD Dang Hoang Minh1
<b>Abstract: Physical activity has impact not only on children’s physical health </b>
but also on mental health outcomes. The present study was a synthesis of
literature examiming the effects of physical activity on anxiety, depression
and self-esteem in children. The paper also reviewed various strategies to
promote physical activity in schools beyond the physical education programs


and discussed the practical implications in Vietnam.


<b>Keywords: physical activity, mental health, students, intervention</b>


1 University of Education, Vietnam National University – Hanoi;
Email: ;


</div>

<!--links-->

×