Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Mối quan hệ giữa Phật giáo với tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.63 MB, 81 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

1


<b>ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI </b>


<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN </b>
<b>KHOA TRIẾT HỌC </b>


<b>--- </b>


<b>TRẦN THỊ HỒNG NHUNG </b>


<b>MỐI QUAN HỆ GIỮA PHẬT GIÁO VỚI </b>


<b>TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU CỦA NGƯỜI VIỆT </b>



<b>Ở ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ </b>



<b>KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP </b>


<b> NGÀNH : TRIẾT HỌC </b>
<b> KHÓA : 60 (2015 - 2019) </b>
<b> HỆ </b> <b>: CHÍNH QUY </b>


<b>GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: PGS. TS ĐẶNG THỊ LAN </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

2


<b>LỜI CẢM ƠN </b>


Đề tài “Mối quan hệ giữa Phật giáo với tín ngưỡng thờ Mẫu của
người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ” là nội dung nghiên cứu và làm khóa
luận tốt nghiệp của tơi tại khoa Triết học - trường Đại học Khoa học Xã


hội và Nhân văn.


Để hoàn thành quá trình nghiên cứu và hồn thiện khóa luận này, lời
đầu tiên tôi xin chân thành cảm ơn sâu sắc đến cô PGS.TS Đặng Thị Lan
thuộc Khoa Triết học – Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Cô
đã trực tiếp chỉ bảo và hướng dẫn tôi trong suốt quá trình nghiên cứu để tơi
hồn thiện khóa luận này. Ngồi ra, tơi xin chân thành cảm ơn các Thầy, Cô
trong khoa Triết học và các Thầy, Cô trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn đã tận tình truyền đạt kiến thức bổ ích, kinh nghiệm sống trong suốt
những năm em học tập.


Mặc dù đã có nhiều cố gắng để thực hiện đề tài một cách hoàn chỉnh
nhất. Nhưng do hạn chế về kiến thức và quá trình nghiên cứu nên khơng
tránh khỏi những thiếu sót nhất định mà bản thân chưa thấy được. Tôi rất
mong nhận được sự đóng góp của các Thầy, Cơ để bài khóa luận được hồn
chỉnh hơn.


<i><b>Tơi xin chân thành cảm ơn! </b></i>


<i>Hà Nội, ngày 28 tháng 4 năm 2019 </i>


<b>Sinh viên </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

3


<b>LỜI CAM ĐOAN </b>


Tơi xin cam đoan khóa luận này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi
dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Đặng Thị Lan. Các kết quả nghiên cứu trong
khóa luận này hồn tồn trung thực, đảm bảo tính khách quan. Các tài liệu


tham khảo có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng. Tôi xin chịu trách nhiệm về khóa
luận của mình.


<i>Hà Nội, ngày 28 tháng 4 năm 2019 </i>


<b>Sinh viên </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

4
<b>MỤC LỤC </b>


MỞ ĐẦU ... 1


CHƯƠNG I. KHÁI LƯỢC VỀ PHẬT GIÁO VÀ TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU
CỦA NGƯỜI VIỆT Ở VÙNG ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ ... 8


1.1. Qúa trình du nhập và phát triển Phật giáo ở Việt Nam... 8


1.1.1. Sự ra đời và phát triển Phật giáo ở Việt Nam ... 8


1.1.2. Giáo lý cơ bản của Phật giáo ... 13


1.1.3. Đặc trưng của Phật giáo Việt Nam ... 15


1.1.4. Vai trò của phật giáo trong đời sống xã hội Việt Nam ... 18


1.2. Khái quát về tín ngưỡng thờ Mẫu ở Đồng bằng Bắc bộ ... 21


1.2.1. Cơ sở hình thành tín ngưỡng thờ Mẫu ở Đồng bằng Bắc Bộ ... 21


1.2.2. Đặc trưng của tín ngưỡng thờ Mẫu ... 24



1.2.3. Nghi lễ, tổ chức, nơi thờ cúng của tín ngưỡng thờ Mẫu ... 26


1.2.4. Vai trị của tín ngưỡng thờ Mẫu ... 30


CHƯƠNG II. MỘT SỐ BIỂU HIỆN CƠ BẢN CỦA MỐI QUAN HỆ GIỮA
PHẬT GIÁO VỚI TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU CỦA NGƯỜI VIỆT Ở ĐỒNG
BẰNG BẮC BỘ ... 34


2.1 Cơ sở cho mối quan hệ giữa Phật giáo với tín ngưỡng thờ Mẫu của
người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ ... 34


2.1.1 Điều kiện tự nhiên, kinh tế và cơ sở tâm lý cho mối quan hệ giữa
Phật giáo và tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt ... 34


2.1.2 Cơ sở triết lý của Phật giáo và tín ngưỡng thờ Mẫu ... 36


2.2 Mối quan hệ giữa Phật giáo thời kỳ du nhập với tín ngưỡng thờ Mẫu của
người Việt ở đồng bằng Bắc bộ ... 37


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

5


2.3 Mối quan hệ giữa tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt vùng đồng bằng
Bắc Bộ với quá trình phát triển của Phật giáo ... 49


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

1
<b>MỞ ĐẦU </b>


<b>1. Lý do chọn đề tài </b>



Việt Nam là quốc gia có nhiều loại hình tín ngưỡng và tôn giáo như
Phật giáo, Hồi giáo, Kitơ giáo…Trong đó, Phật giáo là một tơn giáo lớn, có
vai trị quan trọng trong công cuộc dựng nước và giữ nước suốt chiều dài lịch
sử dân tộc, và là một học thuyết có tính triết học sâu sắc và giá trị nhân văn
cao cả. Trước khi đạo Phật du nhập vào Việt Nam, người Việt Nam đó có tín
ngưỡng dân gian truyền thống của mình, Với tinh thần “Tùy duyên nhi giáo”
thì Phật giáo đã nhanh chóng kết hợp với tín ngưỡng bản địa của người Việt
cổ làm cho Phật giáo hóa tín ngưỡng bản địa và bản địa hóa Phật giáo. Một
trong những biểu hiện của sự hòa nhập và dung hợp của Phật giáo với các tín
ngưỡng bản địa là tục thờ Mẹ hay tục thờ Nữ thần của người Việt.


Mặt khác, tín ngưỡng thờ Mẫu cũng hòa quyện với Phật giáo để bổ
sung cho mình những triết lý nhân sinh, nhân bản, lòng từ bi hỷ xả vượt ra
ngoài biên giới quốc gia, nâng triết lý nhân sinh lên một tầm cao mới. việc
nghiên cứu, tìm hiểu về mối quan hệ giữa Phật giáo với tín ngưỡng thờ Mẫu ở
Đồng bằng bắc Bộ là một vấn đề tuy khơng cịn mới nhưng hết sức cần thiết,
vì giờ đây, chúng ta có điều kiện hơn để nhìn nhận lại quá trình này như một
trong những con đường văn hóa Việt Nam lưu giữ bản sắc riêng, cùng với
việc nhìn nhận ra sự dung hợp, mối quan hệ giữa Phật giáo đối với tín ngưỡng
Thờ Mẫu.


Từ đó, nghiên cứu mối quan hệ giữa Phật giáo với tín ngưỡng thờ Mẫu
cuả người Việt vùng Đồng bằng Bắc Bộ là để khẳng định bản sắc riêng của
Phật giáo Việt Nam, nhằm khai thác các giá trị văn hóa dân tộc, nhằm góp
phần xây dựng nên nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, củng cố
khối đại đoàn kết toàn dân. Tất cả những khía cạnh trên là cơ sở để tơi lựa
<i>chọn đề tài “Mối quan hệ giữa Phật giáo với tín ngưỡng thờ Mẫu của người </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

2
<b>2. Tình hình nghiên cứu </b>



Tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt và nhiều dân tộc thiểu số khác ở
Việt Nam có lịch sử hình thành và phát triển từ lâu đời. Tín ngưỡng thờ Mẫu
lấy việc tôn thờ người phụ nữ làm đấng sáng tạo và sinh thành ra vũ trụ, đất
nước và con người. Chính vì thế thờ Mẫu là một loại hình tín ngưỡng dân
gian khá tiêu biểu và mang đậm bản sắc văn hóa Việt Nam. Khi đạo Phật du
nhập vào Việt Nam thì nó đã nhanh chóng dung hợp với tín ngưỡng bản địa
của người dân Việt Nam tạo nên nét đặc sắc riêng của Phật giáo Việt Nam.


Vấn đề đạo Phật với tín ngưỡng thờ Mẫu ln được các nhà nghiên cứu
trong và ngoài nước quan tâm, mỗi cơng trình đều làm sáng tỏ, sâu sắc và
phát hiện thêm nhiều giá trị mới. Nghiên cứu về Phật giáo với Tín ngưỡng thờ
Mẫu đã có các cơng trình tiêu biểu sau:


<i>Nguyễn Lang với tác phẩm: “Việt Nam Phật giáo sử luận” (Nxb Văn </i>
học, Hà Nội, 1992) đã đề cập đến các giai đoạn du nhập của Phật giáo vào
Việt Nam, vai trị của các thiền sư trong cơng cuộc dựng nước và giữ nước. Ở
mỗi giai đoạn, tác giả đều đi sâu vào phân tích các nội dung tư tưởng của Phật
giáo và các đại diện tiêu biểu cho từng trường phái và đã khái quát đặc điểm
nổi bật của Phật giáo Việt Nam gắn với các thời kỳ tương ứng. Đây là một
cơng trình nghiên cứu rất chi tiết về Phật giáo Việt Nam từ khi mới du nhập
vào nước ta cho đến thế kỉ XX.


<i>Lịch sử Phật giáo Việt Nam của Lê Mạnh Thát (Nxb. Thuận Hoá, 1999 </i>


Huế) đã phác họa một cách rõ nét diện mạo của Phật giáo Việt Nam qua
những đặc điểm và các trường phái cơ bản.


<i>Nguyễn Duy Hinh và cộng sự (2011), trong tác phẩm Phật giáo trong </i>



<i>văn hóa Việt Nam, Về hai đặc điểm Phật giáo Việt Nam in trong Về tín </i>


ngưỡng tôn giáo Việt Nam hiện nay. Hai tác phẩm này đã bàn sâu về hai đặc
điểm cơ bản của phật giáo Việt Nam, đó là tính dân gian và tính thống nhất.


<i>Cơng trình Tư tưởng Phật giáo Việt Nam của Nguyễn Duy Hinh (Nxb. </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

3


Việt Nam. Từ đó, tác giả lý giải những đặc điểm cơ bản của Phật giáo Việt
Nam được hình thành trên cơ sở tín ngưỡng, tâm linh của cư dân bản địa có
<i>tiếp thu tơn giáo ngoại nhập. </i>


Cùng với đó cịn có các tạp chí, luận văn, luận án liên quan đến Phật
giáo như:


<i>Phan Đại Doãn - Lê Văn Mỹ, Phật giáo dân gian vùng Dâu (Hà Bắc), </i>


<i>Tạp chí văn hóa dân gian, số 1- 1987. </i>


<i>Luận án Tiến sĩ Triết học của Tạ Chí Hồng: “Ảnh hưởng của đạo đức </i>


<i>Phật giáo trong đời sống đạo đức của xã hội Việt Nam hiện nay”, Hà Nội, </i>


2004.


Vấn đề tín ngưỡng thờ Mẫu đã và đang thu hút sự quan tâm của nhiều
học giả như: Ngô Đức Thịnh, Nguyễn Đăng Duy, Đặng Văn Lung, Đỗ Thị
Hảo,… đã cơng bố các cơng trình nghiên cứu về tín ngưỡng Mẫu gắn với đời
<i>sống văn hố, lịch sử, tơn giáo… Ngơ Đức Thịnh với cuốn “Đạo Mẫu ở Việt </i>



<i>Nam” (2 tập), Nhà xuất bản Văn hóa dân gian, Hà Nội, 2002 được coi là một </i>


tác phẩm nghiên cứu một cách cơ bản và tương đối hồn chỉnh về tín ngưỡng
Mẫu ở Việt Nam và đã tiếp cận tín ngưỡng này dưới góc độ văn hóa và phần
nào cũng chỉ ra được ở góc độ tín ngưỡng tơn giáo.


<i>Tục thờ đức thánh Mẫu và đức thánh Trần của Vũ Ngọc Khánh (Nxb </i>


<i>Văn hóa - Thơng tin, Hà Nội 2005) đã trình bày về sự phát triển từ nguyên lý </i>
Mẹ của văn hóa Việt Nam phát triển đến tín ngưỡng thờ Mẫu và phát triển
thành tín ngưỡng thờ Tam phủ - Tứ phủ. Cuốn sách đã phân tích và chỉ ra vị
trí của Đức Mẫu Liễu Hạnh trong đời sống tín ngưỡng Việt Nam nói chung,
tín ngưỡng Tam phủ, Tứ phủ nói riêng thơng qua các nguồn thư tịch cổ về Bà
<i>trong dân gian. </i>


<i>Văn hóa Thánh Mẫu, của Đặng Văn Lung (Nxb Văn hóa -Thơng tin, </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

4


thành, truyền bá và sự sửa đổi cốt truyện, lễ hội theo lơgic - lịch sử - chính trị
- văn hóa - xã hội của đất nước.


<i>Đỗ Thị Hảo, Mai Thị Ngọc Chúc với cuốn Các Nữ thần Việt Nam (Nxb </i>
Phụ nữ, Hà Nội, 1984) cũng đã cung cấp đủ rất nhiều thông tin về hệ thống
các Nữ thần ở Việt Nam. Thơng qua việc trình bày thần tích của các vị nữ
thần ở Việt Nam, cơng trình đã cung cấp một nguồn tư liệu rất phong phú và
bổ ích về các Nữ thần và sự phân chia nữ thần ở Việt Nam thành các Nữ thần
trong thần thoại, Nữ thần của các dân tộc thiểu số, các Thánh Mẫu, các Chư
thần. Để từ đó các nhà nghiên cứu có thể hiểu rõ hơn về hệ thống nữ thần ở


Việt Nam.


<i>Bên cạnh đó có thể kể đến các cơng trình như: “Việt Nam phong tục” </i>
<i>của Phan Kế Bính, Nxb Tp. Hồ Chí Minh, 1997; “Nữ Thần và Thánh Mẫu </i>


<i>Việt Nam” do Vũ Ngọc Khánh chủ biên, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 2002, </i>


<i>“Các hình thái tơn giáo tín ngưỡng ở Việt Nam” của Nguyễn Đăng Duy , Nxb </i>
<i>Văn hố – Thơng tin, Hà Nội, 2001; “Về tơn giáo tín ngưỡng Việt Nam hiện </i>


<i>nay” do Đặng Nghiêm Vạn chủ biên , Nxb khoa học xã hội, Hà Nội, 1996. </i>


Về báo, tạp chí về tín ngưỡng thờ Mẫu có thể kể đến bài viết của một
<i>số tác giả như: Nguyễn Hữu Toàn với bài “Một số sinh hoạt văn hoá - tín </i>


<i>ngưỡng ở vùng Dâu”, Tạp chí Di sản văn hoá, số 17, 2004; Nguyễn Quốc </i>


<i>Phẩm với bài “Góp bàn về tín ngưỡng dân gian và mê tín dị đoan”, Tạp chí </i>
<i>Văn hố nông thôn, số 11, trang 11 – 13, 1998; Đinh Gia Khánh với bài “Tục </i>


<i>thờ Mẫu và những truyền thống văn hố dân gian ở Việt Nam”, Tạp chí Văn </i>


hoá, số 5, trang 7 - 13, 1992...


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

5


những tác động của nó đến văn hóa, xã hội của người Việt cả trong lịch sử
<b>cũng như ở hiện tại. </b>


Những công trình nghiên cứu về mối quan hệ của Phật giáo với tín


ngưỡng thờ Mẫu của người Việt có các cơng trình như:


<i>Luận án Tiến sĩ Triết học của Đặng Minh Châu về “Mối quan hệ giữa </i>


<i>Phật giáo và tín ngưỡng dân gian Việt Nam (qua nghiên cứu một số ngôi </i>
<i>chùa tiêu biểu của phật giáo Bắc tông)”(Hà Nội, 2015). </i>


<i>Đức Thiện - Tín ngưỡng thờ tứ pháp - hiện tượng tiếp biến văn hóa Ấn </i>


<i>Độ, số 6 - 2002. </i>


<i> Luận văn Thạc sỹ của Phan Thị Kim: "Tìm hiểu mối quan hệ giữa </i>


<i>phật giáo với tín ngưỡng thờ mẫu ở vùng đồng bằng bắc bộ" (Hà Nội, 2011) </i>


<i>Luận văn Thạc sỹ của Nguyễn Huyền Trang "Sự dung thơng giữa Phật </i>


<i><b>giáo với tín ngưỡng dân gian Việt Nam thời kì đầu du nhập" (Hà Nội ,2013) </b></i>


<i>Nguyễn Hữu Thụ với bài viết: “Đôi điều về sự tiếp xúc giữa Phật giáo </i>


<i>và tín ngưỡng thờ mẫu qua truyền thuyết Phật mẫu Man Nương và Thánh </i>
<i>mẫu Liễu Hạnh”, Tạp chí nghiên cứu Tơn giáo, số 4 – 2009... </i>


Các cơng trình nghiên cứu trên đều vấn đề mối quan hệ Phật giáo với
tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ vẫn chưa được
nghiên cứu nhiều và chưa nghiên cứu một cách hệ thống, chuyên sâu. Do đó,
khóa luận này sẽ định hướng nghiên cứu làm rõ hơn về mối qua hệ giữa Phật
<b>giáo với tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. </b>



<b>3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu </b>


- Mục đích: Trên cơ sở trình bày một cách khái quát về Phật giáo và tín
ngưỡng thờ Mẫu của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ, khóa luận làm rõ
mối quan hệ giữa Phật giáo và tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt ở Đồng
bằng Bắc Bộ từ khi Phật giáo du nhập vào Việt Nam và rút ra một số giá trị
<b>của mối quan hệ này. </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

6


+ Phân tích, khái quát những nội dung cơ bản của Phật giáo và tín
ngưỡng thờ Mẫu của người Việt ở khu vực Đồng bằng Bắc Bộ.


+ Trình bày phân tích những biểu hiện cơ bản của mối quan hệ biện
chứng giữa Phật giáo với tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt ở khu vực Đồng
bằng Bắc Bộ.


+ Phân tích một số giá trị của mối quan hệ giữa Phật giáo và tín ngưỡng
thờ Mẫu của người Việt ở Đồng bằng Bắc Bộ.


<b>4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. </b>


- Đối tượng nghiên cứu: Khóa luận tập trung nghiên cứu về mối quan
hệ giữa Phật giáo và tín ngưỡng thờ Mẫu ở khu vực Đồng bằng Bắc Bộ.


- Phạm vi nghiên cứu: Khóa luận tìm hiểu mối quan hệ giữa Phật giáo
với tín ngưỡng thờ Mẫu ở khu vực Đồng bằng Bắc Bộ qua 2 thời kỳ cơ bản là
thời kỳ du nhập của Phật giáo vào Việt Nam và thời kỳ phát triển của Phật
giáo ở Việt Nam.



<b>5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu </b>


- Cơ sở lý luận: Khóa luận dựa trên cơ sở là quan điểm của chủ nghĩa
Mác Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối chính sách của Đảng và Nhà
nước về tơn giáo và tín ngưỡng. Khóa luận cũng dựa trên một số lý thuyết
nghiên cứu của tôn giáo học hiện đại như lý thuyết về giao lưu, tiếp biến...
Đồng thời khóa luận cũng kế thừa những kết quả của những cơng trình nghiên
cứu trước đó.


- Phương pháp nghiên cứu: Khóa luận sử dụng phương pháp luận của
triết học Mác Lê-nin trong nghiên cứu những vấn đề của đời sống xã hội, có
kết hợp một số phương pháp nghiên cứu: logic và lịch sử, phân tích- tổng
hợp, khái quát, so sánh, đối chiếu…


<b>6. Đóng góp của khóa luận </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

7


Bắc Bộ như: tín ngưỡng thờ Mẫu trong tâm thức người dân Đồng bằng Bắc
Bộ qua thực hành nghĩ lễ ở chùa, mối quan hệ giữa tín ngưỡng thờ Mẫu với
quá trình phát triển của Phật giáo Việt Nam.


- Khóa luận đã phân tích mối quan hệ, sự tác động hai chiều của Phật
giáo lên tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt ở vùng đồng bằng Bắc Bộ và
ngược lại, từ đó chỉ ra những giá trị của mối liên hệ này trong văn hóa tín
ngưỡng nước ta.


<b>7. Ý nghĩa của khóa luận </b>


- Khóa luận đã góp phần sáng tỏ về mối quan hệ giữa các hình thái ý


thức xã hội với nhau mà cụ thể là mối quan hệ giữa một tơn giáo ngoại nhập
với một hình thái tín ngưỡng dân gian Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử khác
nhau của dân tộc.


- Khóa luận có thể làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu Phật
giáo và tín ngưỡng thờ Mẫu, cho việc hoạch định chính sách đối với tơn giáo
của Đảng và nhà nước hiện nay.


<b>8. Kết cấu của khóa luận </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

8


<b>CHƯƠNG I </b>


<b>KHÁI LƯỢC VỀ PHẬT GIÁO VÀ TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU CỦA </b>
<b>NGƯỜI VIỆT Ở VÙNG ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ </b>


<b>1.1 . Qúa trình du nhập và phát triển Phật giáo ở Việt Nam </b>


<i><b>1.1.1 Sự ra đời và phát triển Phật giáo ở Việt Nam </b></i>


Ấn Độ là quê hương của Phật giáo. Xã hội Ấn Độ cổ đại xuất hiện từ
rất sớm, vào khoảng thế kỉ XXV trước công nguyên. Xã hội Ấn Độ thời cổ
đại được phân chia thành bốn đẳng cấp lớn là: tăng lữ, quý tộc, bình dân tự do
và nơ lệ cung đình. Mỗi giai cấp giữ một thế sinh hoạt riêng và có sự phân
biệt sâu sắc giữa các giai cấp từ đó đã dẫn đến cuộc đấu tranh giữa các đẳng
cấp trong xã hội. Trong khi những người Bà La Mơn có uy tín tuyệt đối trong
quần chúng và hưởng rất nhiều đặc quyền thì giai cấp tiện nơ lại sống cuộc
sống cơ cực lầm than, khơng có quyền ăn nói cũng như đóng góp ngang hàng
với mọi người.



Nhìn rõ được cảnh khổ của chúng sinh, Đức Phật Thích Ca vốn là Thái
tử của Ấn Độ lúc bầy giờ, Ngài đã quyết xuất gia tầm đạo để giải thoát khổ
đau cho con người trong xã hội. Ròng rã sáu năm tu hành khổ hạnh trong
rừng sâu và 49 ngày nhập định dưới gốc cây Bồ Đề, Đức Phật đã giác ngộ
được đạo quả vô – thượng, chính – đẳng, chính – giác. Phật giáo ra đời trong
làn sóng phản đối sự ngự trị của đạo Bà-La-Môn và chế độ đẳng cấp. Phật
giáo đã lí giải căn nguyên nỗi khổ và tìm đường giải thoát cho con người
khỏi nỗi khổ triền miên đè nặng trong xã hội.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

9


<i>Con đường du nhập của Phật giáo vào Việt Nam </i>


Việt Nam là quốc gia có vị trí địa lý đặc biệt – đó là nằm trên trục giao
thông từ Nam Á lên Bắc Á, gần như nằm giữa các nước Đông Nam Á và là
cái lưng của bán đảo Ấn Trung – vị trí nằm gữa Ấn Độ và Trung hoa. Với địa
thế này, Việt Nam không những chịu ảnh hưởng của kinh tế mà cịn có cả văn
hóa và tôn giáo của hai nền văn minh cổ xưa này, trong đó có Phật giáo.


Phật giáo đã có mặt ngay tại nước ta từ những năm đầu sau cơng
ngun, nếu khơng nói là sớm hơn. Q trình du nhập đó của Phật giáo được
<i>thực hiện thông qua hai con đường: </i>


Phật Giáo du nhập qua con đường bộ (Ấn Độ - phía bắc Việt Nam) cịn
gọi là con đường tơ lụa. Những người Ấn phát xuất từ Trung Ấn còn dùng
tuyến đường bộ quang qua đèo Hasse Des Trois Pagodes, theo sông Kanburi
xuống châu thổ sơng Menam, từ đó đến sông Mêkông qua đất Lào rồi vào
<i>Thanh Hóa, Nghệ An và đến Luy Lâu của Giao Châu. Trong cuốn Lịch sử </i>



<i>Phật Giáo Việt Nam (Hà Nội, 1988) có nói rõ: "Các thương nhân xuất phát từ </i>


Trung Ấn có thể dùng tuyến đường bộ ngang qua đèo Ba Chùa và theo sông
Kanburi mà xuống Châu Thổ Mênam, bằng tuyến đường hiện nay vẫn nối
liền cảng Moulmein với thành phố Raheng, nằm trên một nhánh của con sông
Mênam (…) chính tuyến đường này dẫn tới vùng Bassak ở trung lưu sông
Mekong, địa bàn của vương quốc Kambijan. Vương quốc này có thể là do
những di dân Ấn Độ thành lập trước cơng ngun. Rất có thể các tăng sĩ Ấn
Độ vào đầu công nguyên đã theo con đường này mà đến đất Lào, rồi từ đây
<i>vượt Trường Sơn sang Thanh Hóa hay Nghệ An". </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

10


Ðộ xuôi buồm đến Giao Châu cũng cùng thời điểm và cùng đi theo đường
biển lên phương Bắc.


Hơn nữa, từ những thế kỷ trước công nguyên Ấn Ðộ vẫn mua được
vàng ở Xibêri nhưng từ thế kỷ thứ hai trước công nguyên vì các đợt di dân lớn
ở Trung Á đã làm chướng ngại con đường chuyên chở đó. Sau đó họ chuyển
hướng nhập vàng từ La Mã thế nhưng chẳng bao lâu La Mã không bán vàng
ra nước ngoài nữa nên Ấn Ðộ mới chuyển qua các nước phía Ðơng và lên tận
Giao Châu để mua những tiêu, quế, gỗ trầm hương, vàng bạc và các loại ngọc
thạch.


Vì địa thế của Việt Nam nằm trên trục giao thông từ Nam Á lên Bắc Á
và gần như nằm giữa các nước Ðông Nam Á nên các tàu buôn Ấn Ðộ theo gió
Tây Nam lên trước khi đến Trung Quốc họ phải ghé qua Giao Châu như trạm
dừng chân để nghỉ ngơi cũng như học Hán văn và làm quen với phong tục của
Việt Nam và Trung Hoa trước khi đi sâu vào lục địa Trung Quốc.



Như vậy, Phật giáo được du nhập nước ta (thời bấy giờ là Giao Châu)
trực tiếp từ Ấn Độ, và vào khoảng thế kỷ thứ II sau công nguyên, Phật giáo đã
trở nên thịnh hành ở nước ta với một cơ sở mạnh mẽ thể hiện qua hệ thống
những cứ liệu về số lượng Tăng sĩ, chùa chiền, thành quả của công tác dịch
thuật kinh điển... tại trung tâm Luy Lâu.


<i>Sự phát triển của Phật giáo Việt Nam </i>


Phật giáo đóng vai trị quan trọng trong cơng cuộc dựng nước và giữ
nước của dân tộc Việt Nam, nó đã hịa quyện vào đời sống nhân dân và góp
phần vào việc xây dựng nền văn hóa truyền thống của dân tộc. Phật giáo Việt
Nam chia làm 4 thời kỳ khác nhau, nhưng lúc nào Phật giáo cũng tìm mọi
cách thích ứng để có những đóng góp thiết thực nhất cho dân tộc.


<i>Thời kỳ thứ nhất là thời kỳ du nhập và hình thành Phật giáo Việt Nam </i>
<i>(từ thế kỉ thứ II đến thế kỉ thứ V): Với sự nỗ lực truyền giáo của các tăng sĩ Ấn </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

11


Thạch Quang Phật và Phật Mẫu Man Nương - là một mơ hình Phật giáo Việt
Nam đầu tiên. Sang thế kỉ thứ III, có thêm ba nhà sư đến truyền giáo vào
nước ta tại Giao Châu là ngài Khương Tăng Hội, ngài Chi Cương Lương Tiếp
và ngài Ma Ha Kỳ Vực (người Ấn Độ). Sang thế kỷ thứ V, có 2 thiền sư xuất
hiện là: Đạt Ma Đề Bà người Ấn Độ đến Giao Châu vào giữa thế kỷ thứ V và
thiền sư Huệ Thắng là người địa phương.


<i>Thời kỳ thứ hai, Phật giáo Việt Nam thời kỳ phát triển ( từ thế kỷ VI đến </i>
<i>thế kỷ IX). Sang thời kỳ này, Phật tử Việt Nam lại tiếp nhận thêm những đồn </i>


truyền giáo từ Trung Quốc và có ba tơng phái chính được truyền vào nước ta


đó là Thiền Tơng, Tịnh Độ Tơng, Mật Tơng.


Thiền tơng có nghĩa là tập trung khả năng, trí tuệ để tìm ra chân lý và
được Phật Thích Ca tại Ấn Ðộ truyền xuống cho Tôn giả Ca Diếp, lần lượt
cho đến Tổ thứ 28 Ấn Ðộ là Bồ Ðề Ðạt Ma. Ðến năm 520 Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma,
là thái tử thứ ba của vua Kancipura, Nam Ấn, vâng theo lời thầy là Bát Nhã
Ða La, Bồ Ðề Ðạt Ma đến Trung Hoa để truyền bá Phật pháp. Tại nơi đây,
Thiền Tơng đã được hình thành và nhanh chóng hưng thịnh.


Tịnh Ðộ Tơng: chủ trương phải dựa vào sự giúp đỡ từ bên ngồi. Chính
Ðức Phật Thích Ca đã nhờ vào tự lực của mình để đến giác ngộ thì cần phải
giúp đỡ họ, sự trợ lực hay tha lực này rất quan trọng. Sự giúp đỡ đó cịn cho
thấy bản thân của người tín đồ là phải thường xuyên đi chùa dâng hương,
cúng dường, bố thí, làm những điều thiện, tránh các điều ác và thường xuyên
niệm danh hiệu Ðức Phật A Di Ðà, trong lúc niệm Phật phải hình dung, quán
tưởng về thế giới cực lạc để tâm mình hướng tới.


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

12


dấu hiệu phát triển rõ ràng ở Việt Nam, chỉ tuỳ thuộc vào sự thọ trì của từng
chùa và của mỗi cá nhân có cơ duyên đến với tông phái này.


Ở Việt Nam, khơng có tơng phái Phật giáo nào thuần khiết. Dịng Thiền
Tì-ni-đa-lưu-chi thì pha trộn với Mật tông, nhiều thiền sư phái này nhất là
những vị sống vào thời Lý như Vạn Hạnh, Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh
Không đều nổi tiếng là giỏi pháp thuật, có tài biến hóa thần thơng. Cùng với
đó, Phật giáo Việt Nam cũng tổng hợp các con đường giải thoát bằng tự lực
và tha lực, phối hợp Thiền tông với Tịnh Độ tông.


<i>Thời kỳ thứ ba, thời kỳ Phật giáo Việt Nam phát triển cực thịnh (từ thế </i>


<i>kỷ X đến thế kỷ XIII). Chính trong thời kỳ này, Phật giáo đã phát triển cực </i>


thịnh và có nhiều đống góp cho đất nước. Năm 971, vua Đinh Tiên Hoàng
định giai cấp cho các tăng sĩ và chính thức tiếp nhận Phật giáo làm nguyên tắc
chi đạo tâm linh cho chính sự. Các thiền sư như Pháp Thuận, Vạn Hạnh, Ngô
Chân Lưu,... đã được phong làm cố vấn chính sự. Chính vì thế, Phật giáo Việt
Nam thời Kỳ này đã Phát triển tới mức toàn vẹn và cực thịnh. Đặc biệt có thể
coi thời Trần là thời đại thống nhất của Phật giáo khi ba thiền phái Tỳ Ni Đa
Lưu Chi, Vô Ngôn Thông và Thảo Đường sát nhập thành một và đưa tới sự
phát triển của thiền phái Trúc Lâm là thiền phái duy nhất dưới thời Trần.


<i>Thời kỳ thứ tư, thời kỳ phục hưng của Phât giáo Việt Nam trong thế kỷ </i>
<i>XX. Dưới thời Lý – Trần Phật giáo Việt Nam đã phát triển cực thịnh, nhưng </i>


đến thời Hậu Lê dưới sự phát triển của Nho giáo thì Phật giáo đã phải nhường
<i>bước để Nho giáo chiếm vị trí độc tôn. </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

13


Vào khoảng những năm 1920 – 1930, cùng với phong trào chấn hưng
Phật giáo trên thế giới, các tăng sĩ và cư sĩ cũng đã phát động phong trào chấn
hưng Phật giáo tại Việt Nam và đã đưa đến sự thành lập Tổng hội Phật giáo
Việt Nam tại miền Bắc vào năm 1934 ở chùa Quán Sứ, ở miền Trung vào
năm 1934 ra mắt tại chùa Từ Đàm, tại miền Nam vào năm 1920 hội nghiên
cứu Phật học Nam Kỳ ra đời, đặt trụ sở tại chùa Linh Sơn,...


<i><b>1.1.2 . Giáo lý cơ bản của Phật giáo </b></i>


Nội dung giáo lý cơ bản của Phật giáo được tập chung hết trong kinh
sách Phật giáo. Sinh thời đức Phật không viết sách mà tất cả các kinh sách


này là do học trò của Người đã kế tục và phát triển, trải qua bốn lần kết tập
kinh điển để xây dựng thành một học thuyết tơn giáo hồn chỉnh. Kinh sách
của Phật giáo được chia làm ba bộ phận gọi là Tam tạng gồm Kinh, Luật,
Luận.


Kinh là những sách ghi lời giảng của Phật về giáo lý, gồm năm bộ.
Luật là sách ghi những giới luật do Phật chế định làm khuôn phép cho
những người đệ tử, những người xuất gia tu hành.


Luận là các tác phẩm luận bàn các chú giải các vấn đề Phật giáo của
các học giả cao tăng về sau.


Phật giáo phản ánh đối tượng về thế giới và con người, quan niệm này
có hệ thống chặt chẽ và mang tính triết học sâu sắc, trên cơ sở tiếp thu nhiều
yếu tố của đạo Bà la môn và các trào lưu triết học Ấn Độ cổ đại. Quan niệm
về thế giới, theo Phật giáo các sự vật hiện tượng trong vũ trụ không phải do
một đấng siêu nhiên nào tạo ra. Các sự vật, hiện tượng ấy không đứng in mà
luôn luôn chuyển động, biến đổi không ngừng, và các sự vật, hiện tượng ấy
đều do nhân duyên mà thành. Khi bàn về không gian và thời gian, Phật giáo
cho rằng thời gian là vô cùng, không gian là vô tận nhưng Phật giáo cũng thừa
nhận giới hạn của không gian và thời gian, tức là có khởi đầu và có kết thúc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

14


đường giải thốt nỗi khổ đó. Con người bao gồm phần sinh lý, phần tâm lý và
là sự kết hộ của "ngũ uẩn". Và con người mất đi chẳng qua chỉ là sự tan rã của
"ngũ uẩn" theo quy luật "sinh - trụ - dị - diệt" mà thơi. Bên cạnh đó thì Phật
giáo lại quan niệm con người sau khi chết đi có thể đầu thai ở một khiếp khác.
Q trình ấy như vịng ln hồi khơng dứt, "ln hồi nghiệp báo" đó là quy
luật nhân quả của con người tồn tại trong vũ trụ.



Như vậy, cuộc sống cũng như cái chết của con người luôn đi theo quy
luật ln hồi, khơng có bất cứ sự can thiệp nào của đấng thần linh. Từ đó,
Phật giáo đi tới phủ nhận linh hồn bất tử. Bản chất của con người ai cũng như
ai. Phật đã từng nói: "Khơng có đẳng cấp trong dịng máu cùng đỏ như nhau,
khơng có đẳng cấo trong giọi nước mắt cùng mặn. Mỗi người sinh ra không
phải mang sẵn trong bào thai dây chuyền hay dấu tin - ka giữa trán"[5;115].
Phật giáo chủ trương kêu gọi con người phải biết yêu thương, đùm bọc nhau
trên tinh thần "từ bi hỉ xả".


Giáo lý cơ bản của đạo Phật được tập trung trong "tứ diệu đế", nghĩa là
bốn chân lý tuyệt diệu. Chân lý đầu tiên là "khổ đế" gồm 8 nỗi khổ là sinh,
lão, bệnh, tử, ái biệt ly, oán tăng hội, sở cầu bất đắc, thủ ngũ uẩn. Nhìn chung
trong Phật giáo ngồi khổ đau thì khơng tồn tại điều gì khác.


Chân lý thứ hai là "tập đế" là chỉ ra nguyên nhân của mọi sự khổ đau
của con người. Có nhiều nguyên nhân dẫn con người tới khổ đau nhưng quy
lại thì có 3 nguyên nhân cơ bản của con người đó là: "tham, sân, si".


Chân lý thứ ba là "diệt đế". Phật giáo khẳng định nỗi khổ có thể tiêu
diệt được đó là tiêu diệt nguyên nhân gây ra sự khổ đau ấy. Tức là thốt khỏi
vơ minh, thốt khịi vịng ln hồi sinh tử của con người.


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

15


giáo đã ra đời để đáp ứng được nguyện vọng mong mỏi của quần chúng nhân
dân và được lan truyền rộng rãi khắp Ấn Độ và còn lan rộng đến nhiều nước
khác trên thế giới.


<i><b>1.1.3 Đặc trưng của Phật giáo Việt Nam </b></i>



Do vị trí địa lý của Việt Nam là nằm ở tận cùng phía đơng nam châu Á
nên nước ta thuộc loại hình văn hóa gốc nơng nghiệp, trồng trọt điển hình. Tất
cả những đặc trưng của loại hình văn hóa gốc nơng nghiệp, trông trọt đều
được thể hiện rất rõ trong đặc trưng văn hóa Việt Nam.


Vì nghề nông nhất là nghề nông nghiệp lúa nước phải phụ thuộc vào
nhiều yếu tố tự nhiên như: thời tiết, nước, khí hậu,… từ đó dân gian đã có
<i>câu: “Trơng trời, trông đất, trông mây, Trông mưa, trơng gió, trơng ngày, </i>


<i>trơng đêm,…”. Từ đó, bề mặt nhận thức của người Việt đã hình thành nên lối </i>


tư duy tổng hợp, nặng về kinh nghiệm chủ quan cảm tính. Người Việt đã tích
lũy được một kho kinh nghiệm hết sức phong phú: Quạ tắm thì ráo, sáo tắm
thì mưa; Chuồn chuồn bay thấp thì mưa, bay cao thì nắng, bay vừa thì râm…


Hơn nữa, bản tính của người Việt là cởi mở, bao dung chứ khơng hẹp
hịi kỳ thị, khép kín nên dù là tín ngưỡng nào, tơn giáo nào, đến từ đâu thì
cộng đồng người Việt cũng sẵn sang tiếp nhận - miễn là nó khơng vi phạm
đến lợi ích quốc gia và đi ngược lại với truyền thống văn hóa dân tộc. Khác
với một số nước phương Tây, ở Việt Nam không có một tơn giáo nào giữ vai
trị thống trị suốt chiều dài lịch sử dân tộc, mà vị trí, vai trị của từng tơn giáo
gắn liền với sự hung thịnh, suy tàn của các triều đại phong kiến trong tiến
trình phát triển của lịch sử dân tộc. Chính vì thế khi Phật giáo du nhập vào
Việt Nam với khế lý, khế cơ của mình, đã hịa nhập, thích nghi kết hợp với
đời sống tâm linh, văn hóa của người dân Việt Nam nên nó có những đặc
điểm riêng biệt làm cho Phật giáo Việt Nam trở nên linh hoạt và phong phú.


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

16



Khi mới vào Việt Nam, Phật giáo đã tiếp xúc ngay với các tín ngưỡng
truyền thống của dân tộc, và do vậy đã được tổng hợp chặt chẽ ngay với
chúng. Phật giáo thờ Phật trong chùa, tín ngưỡng truyền thống Việt Nam là
thờ thần trong miếu và thờ Mẫu trong phủ, bốn vị thần được thờ nhiều nhất là
Tứ pháp: Mây – Mưa - Sấm - Chớp. Tuy nhiên bốn vị thần này đã được "Phật
hóa". Các pho tượng này thường được gọi tượng Phật Pháp Vân, Phật Pháp
Vũ, Phật Pháp Lôi và Phật Pháp Điện, trên thực tế các tượng này hoàn toàn
điêu khắc theo tiêu chuẩn của một pho tượng Phật. Nghĩa là đầy đủ 32 tướng
tốt cùng 80 vẻ đẹp, mà một trong những nét tiêu biểu chính là tướng nhục kế,
những khế ấn, và khn mặt đầy lịng từ mẫn,... Các hệ thống thờ phụ này
tổng hợp với nhau tạo nên các ngôi chùa "tiền Phật, hậu Thần" hay "tiền Phật,
hậu Mẫu". Người Việt Nam đưa các vị Thần, Thánh, Mẫu, Thành hoàng thổ
địa, anh hùng dân tộc... vào thờ trong chùa. Đa số các chùa còn để cả bia hậu,
bát nhang cho các linh hồn đã khuất.


Các chùa phía Bắc là cả một Phật điện vô cùng phong phú với hàng
mấy chục pho tượng Phật, Bồ Tát, La hán của các tông phái khác nhau. Ở
phía Nam, Đại thừa và Tiểu thừa kết hợp mật thiết với nhau: nhiều chùa mang
hình thức tiểu thừa (thờ Phật Thích Ca, sư mặc áo vàng) nhưng lại theo giáo
lý Đại thừa, bên cạnh Phật Thích Ca lớn vẫn có nhiều tượng nhỏ, bên cạnh áo
vàng vẫn có đồ nâu lam.


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

17


Ngồi ra Phật giáo Việt Nam cịn được hịa trộn với tất cả các tơn giáo
khác để hình thành Đạo Cao Đài vào thập niên 1920 với quan điểm là "Thiên
nhân hợp nhất" và "Vạn giáo nhất lý".


<i>Thứ hai, Phật giáo có tính hài hịa âm dương </i>



Sau tính tổng hợp, hài hịa âm dương là một trong những đặc tính khác
của lối tư duy nơng nghiệp, nó ảnh hưởng rất lớn đến Phật giáo Việt Nam làm
cho Phật giáo Việt Nam có phần thiên về nữ tính.


Các vị Phật Ấn Độ xuất thân vốn là đàn ông, sang Việt Nam biến thành
Phật Ông – Phật Bà. Bồ tát Quán Thế Âm đã được biến thành Phật Bà Quan
Âm với nghìn mắt nghìn tay – vị thần hộ mệnh của cư dân khắp vùng sông
nước Đông Nam Á (nên còn gọi là Quan Âm Nam Hải). Ở một số vùng, ngay
cả Phật tổ Thích Ca cũng được coi là phụ nữ. Ngoài ra người Việt cịn có
những vị Phật riêng của mình như Man Nương Phật Mẫu (tên khác: Phật
Mẫu), Quan Âm Thị Kính (tên khác: Quan Âm Tống Tử), Quan Âm Diệu
Thiện (tên khác: Phật Bà Chùa Hương, Bà chúa Ba).


Dưới con mắt của một số tín đồ Phật giáo thì Phật Bà Quan Âm có khi
cịn gần gũi, thân thiết và quan trọng hơn cả Phật Thích Ca Mâu Ni. Nhiều nơi
như đền, miếu, phủ… trở thành là nơi hương hoa, oản quả nhằm thờ phụng
<i><b>những bậc thánh thần thuộc giới nữ. </b></i>


<i>Thứ ba, Phật giáo Việt Nam có tính linh hoạt </i>


Vào Việt Nam, Phật được đồng nhất với những vị thần trong tín
ngưỡng truyền thống có khả năng cứu giúp mọi người thoát khỏi mọi tai họa:


<i>“Nghiêng vai ngửa vái Phật, Trời </i>


<i>Đương cơn hoạn nạn độ người trầm luân” (Ca dao) </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

18


thừa); cứu độ cho người chết và giúp họ siêu thoát (tục mời nhà sư tới cầu


kinh và làm lễ tiễn đưa người chết).


Tượng Phật Việt Nam mang dáng dấp hiền hịa với những tên gọi rất
dân gian: ơng Nhịn ăn mà mặc (Tuyết Sơn gầy ốm), ông Nhịn mặc mà ăn
(Di-lặc to béo), ơng Bụt Ốc (Thích Ca tóc quăn)… Nhiều pho tượng được tạc theo
lối ngồi khơng phải trên tịa sen mà là chân co chân duỗi rất thoải mái, giản
dị. Trên đầu Phật Bà chùa Hương cịn lấp ló lọn tóc đi gà truyền thống của
phụ nữ Việt Nam.


<i><b>1.1.4 Vai trò của phật giáo trong đời sống xã hội Việt Nam </b></i>


Phật giáo là một hệ thống triết học uyên thâm, tư tưởng rộng lớn, lý
luận phong phú... với bao thế hệ tu sĩ hoằng pháp, hành đạo. Có thể thấy
rõ vai trị của của Phật giáo thể hiện trong xã hội qua những biểu hiện cơ
<b>bản sau: </b>


<i>Thứ nhất, tạo cho người Việt một đời sống tâm linh sâu sắc </i>


Nhà sư và ngơi chùa có vai trị quan trọng trong đời sống dân gian cổ
truyền. Ở Bắc Bộ trước đây hầu như làng nào cũng có chùa. Ngồi thờ Phật,
chùa cịn thêm tín ngưỡng dân gian thờ thần tiên, thờ các vị tướng có cơng với
nước. Ngơi chùa trở thành một trung tâm văn hố làng. Có thể nói Phật giáo
đã góp phần làm phong phú thêm nền văn hố dân tộc. Nho giáo về mặt nào
đó chỉ làm cho tư tưởng văn hố Việt Nam khơ cứng thì Phật giáo lại có phần
làm mềm hơn, phong phú và sinh động hơn. Hội chùa, hội làng là tiêu biểu
cho sự hồ hởi của công xã, là một dịp để con người được giải phóng tình cảm,
hồ cái ta của mình vào cái ta của làng xã, khơng bị giáo lý khn phép gị bó.


</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

19



Việc ăn chay hàng tháng trở thành thói quen khơng thể thiếu của người theo
Đạo Phật. Mặt khác, nhà chùa sẵn sàng thực hiện các yêu cầu của họ như cầu
siêu, giản oan,... Tất cả những điều này củng cố niềm tin vào giáo lý, vừa qui
định tư duy và hành động của họ, tạo cơ sở để hình thành những nhân cách
riêng biệt.


<i>Thứ hai, Phật giáo luôn đồng hành cùng dân tộc Việt Nam </i>


Phật giáo du nhập vào Việt Nam trở thành một tôn giáo gắn bó mật
thiết, thể hiện được tinh thần nhập thế. Phật giáo Việt Nam có truyền thống
yêu nước, gắn bó với dân tộc, đồng hành cùng dân tộc, góp phần đấu tranh
chống giặc ngoại xâm, bảo vệ Tổ quốc. Trong Phật giáo Việt Nam đã ghi
nhận hai trường hợp đặc biệt: Lý Công Uẩn – một vị sư xả pháp, xuất tu để ra
đời làm bậc quân vương khai mở triều đại nhà Lý, và Trần Nhân Tông – một
vị hoàng đế từ bỏ ngai vàng để vào núi ẩn tu trở thành một vị Tổ sư của Phật
giáo đời Trần. Trong thời kỳ hội nhập, Phật giáo ln chia sẻ những khó
khăn, hỗ trợ những người gặp hồn cảnh khốn khó, gặp thiên tai, địch họa để
chung tay cùng đất nước góp phần ổn định xã hội, xóa đói giảm nghèo và phát
triển kinh tế xã hội. Đồng hành cùng dân tộc Việt, Phật giáo có cơ hội phát
huy tư tưởng đoàn kết của mình, tạo ra một sợi dây liên kết để cả dân tộc
đồng lịng trong cơng cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước.


<i>Thứ ba, góp phần tạo nên sự phong phú, đa dạng cho kiến trúc và lễ </i>
<i>hội ở Việt Nam </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

20


Về điêu khắc : Ngày nay, những cốt tượng, phù điêu của Phật
giáo được trưng bày trong viện bảo tàng là một niềm tự hào của nền văn hóa
dân tộc Việt và cũng là dấu vết chứng minh sự ảnh hưởng của Phật giáo có


mặt trong lĩnh vực này. Tiêu biểu có các tác phẩm như tượng Quan Âm nghìn
mắt nghìn tay. Chùa Hạ (Vĩnh Phú cao 3,2m), 16 pho tượng tổ gỗ của
chùa Tây Phương (Hà Tây),tượng Tuyết Sơn chùa Trăm Gian (Hà Tây), Bộ
tượng Thập Bát La Hán chùa Phước Lâm (Hội An, Quảng Nam, Đà Nẵng),
Bộ tượng Thập Bát ở chùa Tràng (Mỹ Tho).


<i>Thứ tư, góp phần điều chỉnh hành vi xã hội theo chuẩn mực đạo đức </i>
<i>truyền thống </i>


Phật giáo Việt Nam đã xây dựng và giáo dục được nền đạo đức tốt
đẹp, duy trì bản sắc văn hóa dân tộc, góp phần giảm bớt tiêu cực và tệ
nạn xã hội, hướng dẫn tín đồ tu tâm dưỡng tính, làm những việc thiện, tránh
những việc ác. Biết thương yêu đùm bọc lẫn nhau, thể hiện đức tính tốt
đẹp của những người con Phật. Thơng qua đó, cịn giúp con người tránh vô
minh, chế ngự dục vọng, lòng tham lam để mang lại sự sáng suốt, an
lạc, hạnh phúc và sẵn sàng làm mọi việc vì nước, vì dân, vì cộng đồng, góp
phần ổn định xã hội. Đạo Phật là tơn giáo có tình thương bao la bát ngát nhất
trong các tôn giáo.


</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

21


<b>1.2 Khái quát về tín ngưỡng thờ Mẫu ở Đồng bằng Bắc bộ </b>


<i><b>1.2.1 Cơ sở hình thành tín ngưỡng thờ Mẫu ở Đồng bằng Bắc Bộ </b></i>
Tín ngưỡng thờ Mẫu là tín ngưỡng bản địa của người Việt, có từ lâu
đời. Về nguồn gốc của tín ngưỡng này trước tiên nó được bắt nguồn từ tín
ngưỡng thờ Mẹ sau đó cùng với truyền thống đề cao vai trị, vị trí của người
phụ nữ của dân gian và ảnh hưởng từ một số tôn giáo khác mà hình thành,
phát triển và hồn thiện như hiện nay.



Mẫu là một danh từ gốc Hán - Việt được hiểu là mẹ, mụ, mạ,... dùng để
chỉ người phụ nữ đã sinh ra ai đó, là cách xưng hô của người con với người đã
sinh thành ra mình. Bên cạnh đó “Mẫu” cũng có thể được hiểu theo nghĩa
rộng hơn đó là sự tơn vinh một nhân vật nữ nào đó có thể có thật hoặc khơng
như Mẫu Âu Cơ, Mẫu Liễu Hạnh,... dùng để chỉ những người phụ nữ có vị trí
cao (mẫu nghi thiên hạ). Tuy nhiên chúng ta cũng có thể hiểu “Mẫu” là một
từ dùng để chỉ sự sinh sôi, nảy nở của vạn vật để rồi xuất hiện những danh
xưng: mẹ đất, mẹ nước,... Hay còn có sự đồng nhất giữa Mẹ - Mẫu với tự
nhiên (bà Mây, bà Mưa, bà Sấm, bà Chớp – Vân, Vũ, Lôi, Điện), với bản thể
vũ trụ (bà Kim, bà Mộc, bà Thủy, bà Hỏa, bà Thổ). Nhưng suy cho cùng
trong tâm niệm của người Việt chúng ta Mẫu ở đây không phải người mang
tính sáng thế mà mang tính sinh sơi, tính đùm bọc, che chở.


</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

22


“Trên thực tế lịch sử văn hóa Việt cho thấy Việt Nam là một dân tộc
nông nghiệp với những hằng số nông dân – nông thông – nông nghiệp;
<i>phương châm “dĩ nông vi bản” có thể coi là phương châm chiến lược trong </i>
ứng xử truyền thống của người nông dân Việt. Sự hiện diện của thương
nghiệp nhưng bị đặt ở hàng thứ tư trong thang bậc xã hội, người làm thương
nghiệp cũng hầu hết là phụ nữ, đàn ông chỉ tập trung vào đi học, đi thi và đi
phu, đi lính, nếu có tham gia thì cũng chỉ hai lĩnh vực buôn trâu và bn
luồng; hình ảnh người phụ nữ thắt lưng buộc bỏ que, vắn váy quai cổng
“quanh năm buôn bán ở mom song” (Tú Xương) đã trở nên rất đỗi quen
thuộc”[40; tr.31]. Như vậy, có thể nói dù là làm nông nghiệp hay thương
nghiệp thì người phụ nữ trong xã hội cổ truyền đều có vai trị cực kỳ quan
trọng chính vì thế người dân Việt Nam thường chọn linh tượng là nữ thần
chứ không phải là nam thần. Điều đó chúng ta có thể thấy rất rõ trong lịch sử
dân tộc.



</div>
<span class='text_page_counter'>(28)</span><div class='page_container' data-page=28>

23


Cụ thể như đến nay vẫn cịn rất nhiều di tích, đền thờ các vị Nữ thần,
các vị danh nhân nữ, hay như theo quan niệm của người xưa trong số 27 vị
tiên có nguồn gốc thuần Việt thì có tới 14 vị là tiên nữ, đặc biệt trong cuốn
<i>“từ điển di tích văn hóa Việt Nam” mới xuất bản của viện Hán Nôm trong số </i>
1000 di tích văn hóa, thì đã có tới 250 di tích thờ cúng các vị thần hay danh
nhân là nữ…


Bên cạnh đó, qua sự quan sát của mình, người Việt đã sớm cho rằng
mọi hiện tượng tự nhiên hay rộng lớn hơn là sự phân chia về thế giới này có
thể quy vào miền: trời, đất, núi, sông. Và đứng đầu bốn miền này là bốn
người mẹ:


“Trời phải có Mẹ Trời
Đất phải có Mẹ Đất
Núi phải có Mẹ Núi
Sơng phải có Mẹ Sơng.”


Người Việt đã sớm hình thành ra bốn cõi giữa vũ trụ này và mỗi cõi
như thế đều có một mẹ để từ đó làm nên các mẹ lên làm các Mẫu: Mẫu Thiên
(mẹ Trời), Mẫu Đất (mẹ Đất), Mẫu Thượng Ngàn (mẹ Rừng núi), mẫu Thoải
(mẹ Nước).


</div>
<span class='text_page_counter'>(29)</span><div class='page_container' data-page=29>

24


tôn thờ những người cai quản những miền khác nhau trong vũ trụ, có thể chở
che và ban phát cho con người sức khỏe và tài lộc.


Tuy nhiên như chúng ta biết trong điện của tín ngưỡng thờ Mẫu Tam


phủ, Tứ phủ hiện nay các vị thần linh không chỉ thuần túy là Nữ thần mà cịn
có cả nam thần, và ngay cả trong nghi lễ lên đồng cũng được chia thành nghi
lễ của hai dòng thánh cha tức thờ Đức Thánh Trần và dòng đồng cốt là thờ
Đức Thánh Mẫu Liễu Hạnh . Trong quá trình phát triển của mình, để từ tơn
thờ Nữ thần phát triển thành tơn thờ Mẫu thần và phát triển hồn thiện thành
tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ thì những ảnh hưởng của Đạo giáo
Trung Quốc có vai trị quan trọng. Từ việc tơn thờ các vị thần là nữ sau này bị
ảnh hưởng khi Đạo giáo Trung Hoa du nhập vào nước ta từ thời Bắc thuộc tín
ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ và các tín ngưỡng dân gian khác tiếp thu
ảnh hưởng của nó trên nhiều phương diện. “Đó là các quan niệm về tự nhiên,
đồng nhất con người với tự nhiên về quan niệm Tam phủ, Tứ phủ, một số vị
Thánh của Đạo giáo bắt đầu thâm nhập vào điện thần Tứ phủ, như Ngọc
Hoàng, Thái Thượng Lão quân, Nam Tào, Bắc Đẩu…Đó là các truyện thần
tiên huyền ảo, các phép thuật mang tính phù thủy để trừ tà ma….”[41; tr.62].
Đặc biệt trong hệ thống thờ của tín ngưỡng thờ Mẫu còn thờ vua cha Đức
Thánh Trần như một đối trọng tạo nên sự hòa hợp âm dương với Thánh Mẫu
Liễu Hạnh bởi quan niệm vũ trụ luận phương Đông cổ đại nói chung và Việt
Nam nói riêng vẫn là âm dương tương khắc, tương sinh. Chính vì vậy, “các
thần linh tứ phủ còn được phân chia thành một bên là các nữ thần và bên kia
là nam thần, tuy thứ bậc chính của mỗi vị Thánh trong điện thần phụ thuộc
vào việc họ thuộc hàng nào từ trên xuống dưới, như Thánh Mẫu – Vua Cha,
các Quan, các Chầu, Ơng Hồng, các Cơ, Cậu…”[41; tr.94].


<i><b>1.2.2 . Đặc trưng của tín ngưỡng thờ Mẫu </b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(30)</span><div class='page_container' data-page=30>

25


Tín ngưỡng thờ Mẫu có lịch sử lâu đời ở Việt Nam, không hướng đến
cuộc sống sau khi chết mà hướng đến cuộc sống thực tại của con người với
ước vọng sức khỏe, tài lộc, may mắn, là một nhu cầu trong đời sống tâm linh


của người Việt, mang lại cho họ sức mạnh, niềm tin và có sức thu hút mọi
tầng lớp trong xã hội.


Tín ngưỡng thờ Mẫu ở Đồng Bằng Bắc Bộ mang tính tiểu nơng dân dã
và quần chúng, bắt nguồn từ dân cứ trồng lúa nước ở vùng nhiệt đới gió mùa
cho nên từ quan niệm đến lỗi sống của người Việt trong tiềm thức người ta
đều quan niệm tôn thời Thần Đất, Thần Lúa,… đều đồng nhất với âm và nhân
hóa thành nữ tính - Mẹ. Tín ngưỡng thờ Mẫu thu hút mọi người bằng nhiều
hình thái văn hóa dân gian như nhảy múa, bài trí điện thờ rực rỡ không theo
một quy luật nào. Những người đi lễ đến nơi thờ Mẫu họ đến để cầu xin làm
ăn bn bán có lãi, con cháu được bình an, tai qua nạn khỏi. Họ cho rằng Mẫu
có thể cứu hộ độ trì cho mn vàn chúng sinh không phân biệt sang hèn, giàu
nghèo… Đây là kết quả tất yếu của nền văn hóa nơng nghiệp ở trình độ thấp.


Tuy nhiên sinh hoạt tín ngưỡng thờ Mẫu vẫn là loại hình sinh hoạt động
văn hóa mang đậm tính dân dã bình dân, khơng phải học thuộc một điều răn
hay điều cấm kỵ nào, khơng lễ nghi cầu kỳ phức tạp, khơng có những giáo
lý,… nên nó dễ đi vào quần chúng dễ chấp nhận.


Giá trị cốt lõi của tín ngưỡng thờ Mẫu là chữ Tâm, hướng con người
sống thiện, có cái tâm trong sáng, biết đối nhân xử thế, thờ phụng ông bà tổ
tiên và biết ơn những người có cơng với dân, với nước.


<i>Thứ hai, nơi thờ Mẫu ở đồng bằng Bắc Bộ có tính hỗn dung với các </i>
<i>tính ngưỡng tơn giáo khác: Đây là tín ngưỡng thờ Đa Thần. Ở tất cả các làng </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(31)</span><div class='page_container' data-page=31>

26


<i>Thứ ba, tín ngưỡng thờ Mẫu mang tính phổ biến. Đây là loại hình Tín </i>



ngưỡng dân gian nên có vai trị vị trí khá quan trọng, đáp ứng nhu cầu trong
đời sống thường nhật của một bộ phận quần chúng nhân dân. Thờ Mẫu có mặt
ở khắp mọi nơi trên khắp nước ta, từ miền xuôi xuống miền ngược. Trong
<i>cuốn sách “Các Nữ Thần Việt Nam” bước đầu đã tập hợp được 75 vị nữ thần </i>
tiêu biểu ở nước ta, trong đó có nhiều vị được phong làm mẫu, thánh mẫu.
Hiện nay các Mẫu được thờ trong nhiều hình thức tơn giáo tín ngưỡng khác
nhau, đó là được thờ ở trong chùa, phủ, điện, miếu, đền...


<i>Thứ tư, niềm tin trong tín ngưỡng phải được vật chất hóa tức nó được </i>


gửi vào vật tin và nó là niềm tin cảm xúc nên chấp nhận những cái phi lý và
đây cũng là đặc điểm của văn hóa dân gian.


<i>Thứ năm, trong tín ngưỡng thờ mẫu, các mẫu ln có sự kết hợp đan </i>
<i>xen giữa tư duy mang tính vũ trụ luận, tư duy huyền thoại và tư duy lịch sử. </i>


Ngồi ra, các mẫu cịn được nhân dân tạo cho một lý lịch , một quyền năng
đối với con người. Thông thường các Mẫu được người dân gắn cho những đặc
tính siêu nhiên huyền bí như: Thánh Mẫu Liễu Hạnh bà có thể che chở, giúp
đỡ, trừng phạt,,,, đối với người khi tin và đi theo tín ngưỡng Mẫu này.


<i><b>1.2.3 . Nghi lễ, tổ chức, nơi thờ cúng của tín ngưỡng thờ Mẫu </b></i>


Trong tín ngưỡng thờ Mẫu hệ thống nghi lễ và lễ hội rất phong phú và
đa dạng mang nhiều sắc thái độc đáo, có thể phân biệt với tơn giáo khác. Tuy
nhiên tập trung và điển hình nhất vẫn là nghi lễ Đội bát nhang và lễ Hầu đồng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(32)</span><div class='page_container' data-page=32>

27


đồng người ta thường sử dụng kết hợp nhiều loại hình âm nhạc với múa hát,


diễn xướng. Nội dung của các bài hát, diễn xướng và âm nhạc trong nghi lễ
thường nói về thần tích, sự mầu nhiệm, tính cách và ca ngợi công đức của các
vị thánh đang giáng đồng.


Trên nền nhạc diễn xướng, người lên đồng thường múa quạt, múa chèo
đị,... để thể hiện tính cách, đặc điểm của các vị thánh. Chẳng hạnm với các vị
thánh hàng Quan thường có múa kiếm, long đao, xích,... với các vị tánh hàng
Chầu bà thường múa mồi, múa quạt theo điệu Xá thượng, Xá giây lệch,..với
các thánh hàng ơng Hồng thường múa cung, múa hèo theo nhịp lưu thủy, bát
bộ, với các thánh hàng Cơ thường múa mồi, múa quạt, múa chèo đị, múa thêu
hoa, dệt gấm, hái quả, hái hoa,... với các thánh hàng Cậu thường múa hèo,
múa lân theo điệu lưu thủy có đệm theo nhịp chống sư tử.


Khi diễn xướng bất cứ ai nếu có căn đồng (theo quan niệm) đều có thể
nhập đồng và biểu diễn các giá đồng, gồm 36 giá. Mỗi giá đồng thể hiện một
nhân vật cụ thể, với tên tuổi và tính cách khác nhau. Ví dụ: giá bà chúa Bắc
Lệ phải khác với Mười Đồng Mơ, giá các Đức Ơng thì phải oai phong, lẫm
liệt, múa kiếm, bắn cung; giá các Cô bé thì phải điệu đàng, duyên dáng; giá
các cậu thì nhí nhảnh, nghịch ngợm... Trong khi hầu đồng, người được nhập
đồng múa các điệu chầu văn, lời ca mô tả nhân vật của giá đồng, tả quang
cảnh nhân vật xuất hiện, kể sự tích và cơng đức của các Thánh. Nghi lễ hát
lên đồng được chia ra các phần: Mời Thánh nhập, kể sự tích, cơng đức; xin
Thánh phù hộ và đưa tiễn. Do đó, cuối mỗi giá đồng cung văn đều tấu câu
“Xe loan Thánh giá hồi cung”. Ban nhạc chầu văn thường có các nhạc cụ: đàn
nguyệt, trống ban (trống con), nhị sáo, phách, thanh la... Đặc biệt giai điệu và
tiếng hát chầu văn lảnh lót, mê đắm lịng người. Tồn bộ phần diễn xướng
khiến người xem như lạc vào thế giới siêu nhiên của các vị Thánh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(33)</span><div class='page_container' data-page=33>

28



Lễ tôn nhang: là lễ bốc và đặt bát nhang thờ những vị thần thánh là
quân gia thị thần của Mẫu cho những người được coi là: “Cao căn nặng số”.
Lễ được thực hiện tại điện Mẫu và người được bốc bát nhang được gọi là
“Con nhang”. Đối với các tín đồ của tín ngưỡng Mẫu thì những vị thần thánh
trên là những quân gia thị thần của Thánh Mẫu. Vì vậy, cần phải đến điện
Mẫu để cầu khấn mong được “giải hạn”. Trong trường hợp tín đồ đã cầu khấn
mà vẫn chưa tai qua, nạn khỏi, chưa thốt khỏi “hạn” thì tín đồ người có “căn
số nặng”, cần phải thực hiện nghi lễ “đội bát nhang” thì mới có thể hi vọng
giải hạn được.


Không gian thờ Mẫu rất đa dạng và phong phú nhưng luôn tuân theo
chuẩn tắc chung. Thờ Mẫu là sự phát triển của tục thờ Nữ Thần, Mẫu Thần,
đến Tam Phủ-Tứ Phủ. Thờ Tam Phủ, Tứ Phủ chính là mức phát triển cao về
nhiều mặt từ thờ Mẫu Thần. Ở tín ngường thờ Tam Phủ - Tứ Phủ đã có sự
chắt lọc từ tín ngưỡng đa nữ thần về một số vị thần nữ cơ bản gọi là Mẹ, Mẫu.
Bao gồm: Mẫu Cửu Thiên Huyền Nữ, Mẫu Thượng Ngàn, Mẫu Thoải, Mẫu
Địa. Bốn vị Mẫu trên đại diện cho bốn khơng gian địa lý khác nhau. Trong
đó, Mẫu Cửu Thiên Huyền Nữ cai quản vùng trời, Mẫu Thoải cai quản vùng
sông nước, Mẫu Địa cai quản vùng đất. Trong đông đảo các Nữ thần không
phải ai cũng được tơn xưng là Mẫu và càng ít Thánh Mẫu.


</div>
<span class='text_page_counter'>(34)</span><div class='page_container' data-page=34>

29


Các điện thờ Mẫu thường được xây dựng bên cách nguồn nước như
sơng, suối, hồ hoặc các cửa biển. Ví dụ: phủ Tây Hồ đặt cạnh Hồ Tây, đền
Bắc Lệ (Lạng Sơn) đặt cạnh suối,.. nếu như địa lý các điện Mẫu khơng có
nguồn nước thì người ta sẽ xây dựng những tụ thủy nhân tạo như hồ, ao,
giếng,.. trước cửa điện. Bên cạnh các điểm tụ thủy thì cịn có các hịn giả sơn
cũng được dựng lên. Vì trong tâm thức dân gian nước mang yếu tố âm, núi
mang yếu tố dương.



Điện Mẫu có kết cấu ba tầng: tầng trên khơng, tầng ngang trên ban thờ
và tầng dưới gầm ban thờ (ban hạ). Tầng trên có bày trí một đơi Mãng xà ,
một con màu trắng, một con màu xanh, ngang phía trước bên trên ban thờ. ở
tầng giữa là ban thờ chính điện. Hệ thống các thần được thờ trong Điện Mẫu
được xếp theo thứ tự:


Ngọc Hoàng
|


Phật Bà Quan Âm
|


Thánh Mẫu (Tam tòa Thánh Mẫu)
(Thiên, Địa, Thoải, Nhạc)


|


Quan (Ngũ vị quan lớn)
(từ 5 – 10 vị quan)


|


Chầu (Tứ vị Chầu bà)
(từ 4 – 6 – 12 chầu Bà)


|
Ơng Hồng
(từ 5 – 10 ơng Hồng)



</div>
<span class='text_page_counter'>(35)</span><div class='page_container' data-page=35>

30


(12 Cơ)
|


Cậu (Cậu quận)
(10 Cậu)


|
Ngũ Hổ


|


Ông Lốt (rắn) [39; tr.56].
<i><b>1.2.4 Vai trị của tín ngưỡng thờ Mẫu </b></i>


Tín ngưỡng thờ Mẫu xuất hiện từ rất sớm, nó đã tồn tại cùng chiều
dài lịch sử của dân tộc. Vì vậy, nó có ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời
sống xã hội:


<i> Một là, ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ Mẫu đối với đời sống văn hóa, </i>
<i>tâm linh của người Việt </i>


Việt Nam hiện nay tồn tại nhiều loại hình tín ngưỡng tơn giáo trong đó
tín ngưỡng thờ Mẫu thu hút rất nhiều người với các sinh hoạt tín ngưỡng diễn
ra cơng khai tới chính sách tự do tín ngưỡng và tơn giáo của nhà nước.


Sinh hoạt Tín ngưỡng thờ Mẫu được một số người coi là thứ trở lực xã
hội gây hao tổn thì giờ tiền bạc mà đi đến bài trừ cấm đốn tín ngưỡng dân
gian này, từ đó có thể dân đến vi phạm quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân.



Tín ngưỡng thờ Mẫu cịn có vai trị dung nạp các tin ngưỡng, tơn giáo
khác ở Việt Nam góp phần trong việc hịa đồng các tơn giáo tín ngưỡng để
phù hợp lộ trình cho con người. Tín ngưỡng thờ Mẫu cịn có vai trị liên kết
tinh thần giữa những người có cùng một niềm tin vào các Thần trong Tín
ngưỡng thờ Mẫu.


</div>
<span class='text_page_counter'>(36)</span><div class='page_container' data-page=36>

31


vượt qua khỏi tư tưởng định kiến tôn giáo hoặc sự cục bộ địa phương để cùng
hướng về một đối tượng linh thiêng, với một lễ hội thống nhất.


<i> Hai là, vai trị của Tín ngưỡng thờ Mẫu đối với đời sống tinh thần và </i>
<i>đạo đức truyền thống của người Việt Nam. Khi xã hội phát triển tồn diện thì </i>


đời sống của nhân dân cũng được cải thiện và nâng cao về mọi mặt từ đó tín
ngưỡng cũng trở nên quan trọng đối với một bộ phận dân cư có nhu cầu về
đời sống tâm linh của họ. Trong tín ngưỡng thờ Mẫu cái đẹp của lễ hội là đề
cao những phẩm chất tốt đẹp của cộng đồng, các hình tượng nhân vật trong
tín ngưỡng thờ Mẫu thực chất là tinh hoa và thể hiện khát vọng của cộng
đồng tích tụ lại trong đó.


<i>Ba là, tín ngưỡng thờ Mẫu góp phần làm nên bản sắc văn hóa Việt Nam </i>


Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt hình thành và
phát triển trên nền tảng của tín ngưỡng thờ nữ thần. Đây là một hình thức thờ
cúng người mẹ hóa thân ở các miền (trời, sông nước, rừng núi), sự hỗn dung
tôn giáo bản địa của người Việt và một số yếu tố của tôn giáo du nhập như
Đạo giáo, Phật giáo.



Từ thế kỷ 16, việc thực hành tín ngưỡng này trở thành một sinh hoạt
văn hóa có ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống xã hội và tâm thức người dân
Việt Nam.Trong quá trình phát triển, Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam
phủ của người Việt có những biến chuyển thích ứng với sự thay đổi của xã
hội. Tuy nhiên, dù ở giai đoạn nào, tín ngưỡng này vẫn ln hướng đến cuộc
sống thực tại của con người với ước vọng về sức khỏe, tài lộc, may mắn -
những ước muốn vĩnh hằng của con người.


“Chính điều này góp phần quan trọng tạo nên màu sắc văn hóa bản địa,
sự khác biệt của tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ so với những tín ngưỡng khác”
giáo sư Ngơ Đức Thịnh - Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Bảo tồn Văn
hóa Tín ngưỡng Việt Nam cho hay.


</div>
<span class='text_page_counter'>(37)</span><div class='page_container' data-page=37>

32


tiếp cận từ góc độ văn hóa) coi tự nhiên là một người Mẹ, tôn thờ với tư cách
là vị thần tối cao, có quyền năng sáng tạo, cai quản, phù trợ cho con người,
mang lại cho con người sức khỏe, tài lộc trong đời sống trần gian.


Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt phân bố ở
nhiều địa phương trong cả nước như: Tây Bắc, Đông Bắc, Bắc Bộ, Bắc Trung
Bộ và Thành phố Hồ Chí Minh; trong đó, Nam Định được coi là trung tâm
với gần 400 điểm thờ cúng Thánh Mẫu.


“Thông qua việc kết hợp một cách nghệ thuật các yếu tố văn hóa dân
gian (trang phục, âm nhạc, hát chầu văn, múa, diễn xướng dân gian trong lên
đồng và lễ hội), Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ như một “bảo tàng
sống” lưu giữ lịch sử, và bản sắc văn hóa của người Việt. Qua đó, người Việt
thể hiện quan niệm của mình về lịch sử, văn hóa, vai trị của giới và bản sắc
tộc người. Sức mạnh và ý nghĩa của Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ


chính là đáp ứng nhu cầu và khát vọng của đời sống thường nhật của con
người: cầu tài, cầu lộc, cầu sức khỏe,” đại diện Cục Di sản Văn hóa (Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch) cho biết.


Nhà nghiên cứu Ngô Đức Thịnh cho biết, trong điện thần Tam phủ,
Thánh Mẫu Liễu Hạnh luôn đồng nhất với Mẫu Thượng Thiên, ngồi chính
giữa và mặc trang phục màu đỏ, bên trái là Mẫu Thoải (trang phục màu trắng)
và bên phải là Mẫu Thượng Ngàn (trang phục màu xanh).


Về nguồn gốc, bà là tiên nữ giáng trần, sau đó quy y Phật giáo và được
tôn vinh là “Mẫu nghi thiên hạ,” một trong bốn vị thánh bất tử của người Việt.
Mẫu Liễu Hạnh và Đức Thánh Trần (Hưng Đạo Đại Vương - Trần Quốc
Tuấn) đã trở thành biểu tượng của sự kết hợp giữa thần linh và đời thường,
giữa nhu cầu tâm linh, khát vọng hướng về các giá trị chân - thiện - mỹ với
khát với việc chữa bệnh trừ tà, giúp đỡ con người trong những hoàn cảnh
khó khăn…


</div>
<span class='text_page_counter'>(38)</span><div class='page_container' data-page=38>

33


50 vị thần mà tín ngưỡng thờ Mẫu tơn thờ, có nhiều vị vốn là những nhân vật
lịch sử, được thần linh hóa như Trần Hưng Đạo, Phạm Ngũ Lão…


Điều đó cho thấy di sản Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của
người Việt thể hiện rất rõ truyền thống uống nước nhớ nguồn, chủ nghĩa yêu
nước được tâm linh hóa, ý thức về sự giao lưu văn hóa và mối quan hệ bình
đẳng, gắn bó giữa các dân tộc.


Việc UNESCO ghi danh di sản Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam
phủ của người Việt vào Danh sách Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của
nhân loại khẳng định những nỗ lực của các cấp, các ngành và cộng đồng trong


việc bảo tồn kho tàng di sản văn hóa phi vật thể của dân tộc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(39)</span><div class='page_container' data-page=39>

34
<b>CHƯƠNG II </b>


<b>MỘT SỐ BIỂU HIỆN CƠ BẢN CỦA MỐI QUAN HỆ GIỮA PHẬT </b>
<b>GIÁO VỚI TÍN NGƯỠNG THỜ MẪU CỦA NGƯỜI VIỆT Ở </b>


<b>ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ </b>


<b>2.1 Cơ sở cho mối quan hệ giữa Phật giáo với tín ngưỡng thờ Mẫu </b>
<b>của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ </b>


Trên thế giới, có nhiều loại hình tiếp xúc văn hóa với những dạng thức
khác nhau và đem lại những kết quả khác nhau. Trong đó có:


Tiếp biến văn hóa: là sự tiếp xúc giao lưu văn hóa về chủng tộc, địa lý
hoặc lịch sử và thường tồn tại nghiêng về phát triển lịch sử và khơng gian văn
hóa. Q trình tiếp biến sẽ diễn ra theo một dịng chảy có định hướng, được
diễn ra bằng hai hình thức cưỡng bức hoặc tự nguyện.


Đồng hóa văn hóa: là một hiện tượng tiếp biến văn hóa ở mức cực
đoan, tiêu cực khi phải chung sống lâu dài, trong đó, thực thể văn hóa đã bị
tiêu diệt bởi sức ép và sự xâm thực của nền văn hóa thống trị.


Hỗn dung hay lai tạo văn hóa là sự kết hợp, pha trộn với nhau giữa yếu
tố bản địa và yếu tố ngoại sinh, để từ đó tạo ra nhiều sắc thái và nguồn gốc,
nhưng vẫn của riêng mình.


Trong lịch sử nước ta, đã có nhiều q trình tiếp xúc văn hóa ngoại sinh


nhưng loại hình bền vững nhất vẫn là loại hình thứ ba hồn dung và lai tạo văn
hóa. Q trình hỗn dung và lai tạo văn hóa cũng chính là q trình tiếp xúc
giữa Phật giáo với tín ngưỡng thờ Mẫu để tạo ra một loại hình văn hóa mới.
Quá trình này cần những cơ sở và điều kiện nhất định như:


<i><b>2.1.1 Điều kiện tự nhiên, kinh tế và cơ sở tâm lý cho mối quan hệ </b></i>
<i><b>giữa Phật giáo và tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt </b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(40)</span><div class='page_container' data-page=40>

35


của các tuyến giao thương đường biển trong suốt thời kỳ lịch sử, vị trí rất
thuận lợi cho sự giao lưu với các nước lân cận. Từ vị trí thuận lợi này, đã
hình thành nên một lối sống cởi mở, khơng khép kín tạo điều kiện thuận
lợi cho các tôn giáo khác như: Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo du nhập vào
Việt Nam.


Việt Nam là một nước mà người dân phải chịu khí hậu nóng ẩm, mưa
nhiều, thường xảy ra lũ lụt, vỡ đê.. do vậy, tính cố kết cộng đồng, tính đồng
cam cộng khổ, đoàn kết của người Việt được hình thành từ rất sớm và rất
mạnh mẽ.


Điều kiện kinh tế: Việt Nam nằm trong khu vực nhiệt đới ẩm gió mùa,
nóng, nhiều ao hồ, đầm lầy nên rất thích hợp cho việc trồng trọt. Hoạt động
kinh tế của người Việt cổ chủ yếu dựa vào nông nghiệp lúa nước nên lao động
sản xuất phải phụ thuộc vào thiên nhiên, do đó, người Việt rất tơn trọng tự
nhiên, sống hịa hợp với thiên nhiên, hịa hợp với con người. Chính với cơ sở
kinh tế thuần nơng đó đã thấy được vai trò quan trọng của người phụ nữ trong
gia đình. Từ đó, hình thành tâm lý coi trọng Mẹ, sống thiên về Mẹ - Mẫu với
lối sống tình cả, mềm dẻo, khoan dung, độ lượng.



Cơ sở tâm lý xã hội: từ thời cổ đại, người Việt đã có một chuẩn hệ tư
duy và nhận thức mang tính nơng nghiệp. Đó là lối tư duy phồn thực, đề cao
yếu tối sinh, dưỡng, dục, là những yếu tố thuộc tính Mẫu. Tính Mẫu là cơ sở
tâm lý cho sự hình thành lối sống linh hoạt, du di, xuề xịa, tương đối, chính
bỏ làm mười của người Việt. Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa coi trọng
những giá trị tinh thần, tâm linh hơn giá trị vật chất, duy lý. Như vậy, người
Việt trong xã hội truyền thống thường đa tín, dị tín đền mức mê tín, nhưng
khơng bao giờ cuồng tín.


</div>
<span class='text_page_counter'>(41)</span><div class='page_container' data-page=41>

36


<i><b>2.1.2 Cơ sở triết lý của Phật giáo và tín ngưỡng thờ Mẫu </b></i>
<i><b>Cơ sở triết lý của Phật giáo </b></i>


Trên bước đường truyền bá và hội nhập, Phật giáo luôn luôn cố gắng
thực hiện hai điều đó là “khế lý”, “khế cơ” và “tùy duyên phương tiện”. Nếu
thiếu đi một trong số các yếu tố này thì Phật giáo sẽ chẳng cịn là Phật giáo
nữa. Duy trì và phát triển các yếu tố này nên Phật giáo đã được truyền vào
Việt Nam và các quốc gia khác.


“Khế lý” thì dù ở thời gian, khơng gian nào thì giáo lý Phật đà vẫn ln
kết hợp với chân lý, tư tưởng; vẫn luôn phong phú, sâu sắc mà vẫn giữ được
bản chất của mình và chỉ có một vị là vị giải thốt.


“Khế cơ” thì dù trong hoàn cảnh nào và ở quốc gia nào thì sự sinh hoạt,
truyền đạt cũng ln đa dạng. Tùy theo phong tục tập quán của mỗi quốc gia
mà truyền bá. Nhưng cũng không làm mất đi gốc Phật giáo nguyên thủy và
phai mờ tính bản địa của các tơn giáo, tín ngưỡng.


Bên cạnh đó, Phật giáo nguyên thủy có tư tưởng vơ thần, có yếu tố


duy vật và tư tưởng biện chứng của thế giới. Phật giáo khuyên con người
suy nghĩ và làm thiện nhằm góp phần hồn thiện đạo đức cá nhân nhân. Và
những tư tưởng xã hội Phật giáo đã phản ánh đúng thực trạng xã hội đẳng
cấp khắc nghiệt của xã hội Ấn Độ cổ- trung đại. Phật giáo cũng nói lên được
sự tự do, bình đẳng trong xã hội. Đây chính là cơ sở triết lý cho những tư
tưởng Phật giáo được phổ biến trong đời sống của đông đảo quần chúng
nhân dân người Việt.


<i><b>Cơ sở triết lý của tín ngưỡng thờ Mẫu </b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(42)</span><div class='page_container' data-page=42>

37


xướng trong văn hóa tâm linh. Như vật, ở đây, tín ngưỡng thờ Mẫu phản ánh
ý thức xã hội của người dân ở trình độ tâm lý xã hội.


Như vậy những tư tưởng từ bi, hỉ xả trong giáo lý nhà Phật khá gần gũi
với tinh thần vị tha đùm bọc, yêu thương lẫn nhau trong đạo lý, truyền thống
của người Việt cũng như các tín ngưỡng bản địa trong đó có tín ngưỡng thờ
Mẫu. Bên cạnh đó Phật giáo cùng với tín ngưỡng thờ Mẫu kết hợp với nhau
đã đáp ứng một cách trọn vẹn nhu cầu của người Việt. Tín ngưỡng thờ Mẫu
giúp thỏa mãn về thế giới hiện thực, Phật giáo thỏa mãn nhu cầu về cuộc sống
ở thế giới bên kia. Vì vậy Phật Giáo đã nhanh chóng hịa nhập với các tín
ngưỡng bản địa trong đó có tín ngưỡng thờ Mẫu mà khởi thủy là tục thờ Nữ
thần, Mẫu thần để trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống của
người dân Việt.


<b>2.2 Mối quan hệ giữa Phật giáo thời kỳ du nhập với tín ngưỡng thờ </b>
<b>Mẫu của người Việt ở đồng bằng Bắc bộ </b>


<i><b>2.2.1 Mối quan hệ giữa Phật giáo thời kỳ du nhập với tín ngưỡng thờ </b></i>


<i><b>Mẫu của người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ thông qua tục thờ Nữ thần </b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(43)</span><div class='page_container' data-page=43>

38


Ngay từ khi hội nhập vào đất Việt, Phật giáo đã chọn con đường kế
hợp, tơn trọng, hịa hợp với tín ngưỡng thờ Mẹ của người Việt Nam. Về mẹ
Sông Nước trong tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam, trong kinh sách Phật giáo
có nhắc đến Thủy Thiên. Theo từ điển Phật học: “Thủy Thiên là một trong 12
vị trời của Mật giáo, 1 trong 8 vị trời hộ chiếu thế gian ở tám phương là vị
thần thủ hộ phía Tây, là vua của dịng họ rồng. Thủy tiên gốc là vị thần Thiên
không của Bà La Môn giáo ở Ấn Độ thời cổ, đứng đầu các sơng ngịi, coi về
cúng tế, giữ gìn đạo đức, thưởng thiện phạt ác,...”. Từ đó, trong Phật giáo,
truyền thống nữ giới không thể thành Phật bị phá vỡ. Như vậy, tín ngưỡng thờ
Mẫu ở Việt Nam dễ chấp nhận Phật giáo để cùng hịa quyện, chuyển hóa
niềm tin dân gian đến với niềm tin Phật Đà.


<i>Sự tích Man Nương được ghi trong Cổ Châu Phật Bản Hạnh, một tác </i>
phẩm thơ Nôm được tìm thấy sớm nhất ở Đồng bằng Bắc Bộ đã phản ánh
sinh động sự gặp gỡ và gắn kết mật thiết giữa Phật giáo với tục thờ Nữ thần
của người Việt. Nguồn gốc của Tứ Pháp được nhiều người biết đến nhất được
ghi lại trong truyện Man Nương sách “Lĩnh Nam Chích Quái” và giữa thế kỉ
XVII mới được in thành sách riêng. Hiện bản “Cổ Châu Phật Bản Hạnh Ngữ
Lục” khắc gỗ tại chùa Dâu được khắc vào năm thứ 13 niên hiệu Cảnh Hưng
<i>(1752) còn lưu lại chuyện Tứ Pháp: “Ở bên kia sông Đuống, thuộc bờ Bắc, </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(44)</span><div class='page_container' data-page=44>

39


<i>bé đến một gốc cây cổ thụ ở ngã ba sông và lấy cây gậy chỉ vào thân cây làm </i>
<i>phép, tức thì thân cây tách làm đôi, nhà sư bỏ đứa trẻ vào đó và cây ghép trở </i>
<i>lại như cũ. Trước khi chia tay, Khâu Đà La trao cho Man Nương một chiếc </i>


<i>gậy và rặn rằng khi nào có hạn hán thì cắm chiếc gậy xuống đất, thì sẽ có </i>
<i>nước để cứu dân. Về sau, nhiều lần trời hạn hán, nhớ lời nhà sư, Man Nương </i>
<i>đem cây gậy ra dùng thì đều ứng nghiệm. Vào một bữa nọ, có một trận mưa </i>
<i>to, gió lớn, cây cổ thụ bị đổ và trơi theo dịng nước đến khúc sơng ở làng bà </i>
<i>Man Nương thì dừng lại. Trai làng túm vào kéo mà không tài nào di chuyển </i>
<i>được, bà Man Nương ra sông chỉ kéo nhẹ mà cây đã ngoan ngoãn theo vào </i>
<i>bờ. Thấy sự lạ, người làng cưa thân cây ra làm 4 đoạn và tạc thành 4 pho </i>
<i>tượng Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện và đưa vào thờ trong 4 ngôi </i>
<i>chùa. Khi đẽo tới giữa cây, người ta thấy có một phiến đá rất cứng, búa của </i>
<i>thợ đều bị sứt hết. Ném phiến đá xuống nước thì thấy phiến đá phát ra ánh </i>
<i>sáng. Dân làng bèn rước vào điện Phật mà thờ, đặt tên là Thành Quang </i>
<i>Phát”. Bà Man Nương sau khi chết được tôn thờ là Phật Mẫu và được thờ ở </i>


chùa Dâu, Thuận Thành, Bắc Ninh ngày nay.


</div>
<span class='text_page_counter'>(45)</span><div class='page_container' data-page=45>

40


huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh) có 5 ngơi chùa thờ 5 mẹ con bà Man
Nương: Bà Man Nương (Phật Mẫu) thờ ở chùa Mãn Xá, Bà Dâu (Pháp Vân)
thờ ở chùa Dâu (Khương Tự), Bà Đậu (Pháp Vũ) thờ ở chùa Đậu (Thành
Đạo), Bà Tướng (Pháp Lôi) thờ ở chùa Phi Tướng (Thanh Tương), Bà
Dàn(Pháp Điện ) thờ ở chùa Phương Quan (Phương Quan). Ngồi ra, tượng
Phật Tứ Pháp cịn được thờ ở nhiều ngôi chùa khác vùng đồng bằng Bắc Bộ
như: chùa Thanh Xá thờ Pháp Vũ (Mỹ Hào, Hưng Yên), chùa Đậu thờ Pháp
Vũ (Thường Tín, Hà Nội), chùa Ôn Xá thờ Phật Tứ Pháp (Văn Lâm, Hải
<b>Dương),... </b>


Nhưng cũng là chùa nhưng điện thần của các ngôi chùa thờ Tứ Pháp
không giống với những ngơi chùa thờ Phật bình tường. Tọa ở vị trí trung tâm
chính địa ở chùa thờ Tứ Pháp khơng phải các tượng Phật Thích Ca, La Hán,..


mà ở đây, các Bà giữ vai trò chủ điện, tượng Phật Thích Ca đáng nhẽ ra là
tượng chính trong thờ cúng Phật giáo thì ở chùa Tứ Pháp, Ngài cũng không
được xem trọng. Tượng các Bà Mây – Mưa – Sấm - Chớp là tượng chính,
được làm to hơn cả và được đặt ở chính điện, các tượng Phật Thích Ca, La
Hán, Bồ Tát có kích cỡ nhỏ hơn và chỉ được đặt ở phụ bên cạnh, phía bên
ngồi và trước mặt các tượng Tứ Pháp. Từ đó cho thấy sức sống và xu hướng
đề cao vai trò của Nữ thần, đề cao vai trò các Bà Mẹ - Mẫu của tín ngưỡng
bản địa của cư dân lúa nước trước sự xâm nhập của đạo Phật vào đất Việt.
Việc thờ phụng Phật ở đây đã mờ nhạt đi và bị đặt xuống hàng thứ yếu tuy
nhiên về thực chất đây vẫn là đền thờ thần linh bản địa. Trong điện thờ của
chùa Tứ Pháp cịn phối thờ với nhiều tượng của các tín ngưỡng khác như ở
chùa Dâu là các tượng Đức Thạch Quang Phật, Kim Đồng, Ngọc Nữ, Đức
Thánh Hiền, Đức Ông...


</div>
<span class='text_page_counter'>(46)</span><div class='page_container' data-page=46>

41


Việt Nam là quê hương của nền sản xuất nông nghiệp trồng lúa nước.
Theo các nhà khảo cổ học, người Việt chuyển từ nền kinh tế hái lượm sang
nền kinh tế trồng trọt cách ngày nay hàng vạn năm. Gia đình người nơng dân
(gia đình tiểu nơng) trở thành một đơn vị sản xuất. Công việc nhà nông bao
gồm nhiều khâu, nhiều việc nên cần một sự hợp tác, phân công chặt chẽ giữa
<i>đàn ông, đàn bà như ca dao đã phản ánh: “Trên đồng cạn, dưới đồng sâu, </i>


<i>chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa” (Ca dao). Đối với nền nơng nghiệp lúa </i>


nước mà từng hộ gia đình chỉ có một mảnh nhỏ, nằm rải rác, manh mún thì
khơng cần nhiều đến sức lao động của đàn ông mà cần chính là sức lao động
dẻo dai, sự chăm chỉ, khéo léo của người phụ nữ. Chính vì thế mà nơng
nghiệp chính nằm trong sự quản lý, chăm sóc của người phụ nữ. Không chỉ
làm chủ trong nông nghiệp mà người phụ nữ còn nắm giữ vai trò chủ yếu


trong nền tiểu thương của Việt Nam. Bên cạnh việc chăm sóc đồng áng,
người phụ nữ Việt cịn chăn ni thêm các loại gia súc, gia cầm,... nhằm tăng
thêm thu nhập, phục vụ cho cuộc sống của gia đình. Nào là tằm lấy tơ để dệt
quần áo, để bán, trâu bị làm sưc kéo, lợn và gà thì để bán hoặc thịt. Công việc
<i>vô cùng bận rộn “nuôi lợn ăn cơm nằm, nuôi tằm ăn cơm đứng”. </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(47)</span><div class='page_container' data-page=47>

42


Mẫu là nền tảng vững chắc cho sự phát triển văn hóa dân tộc sau này, khi tiếp
xúc giao lưu với tín ngưỡng, tơn giáo từ bên ngồi, trong đó sớm nhất phải kể
đến đạo Phật.


Như vậy, có thể thấy rằng tục thờ Nữ Thần và nguyên lý Mẹ là một nét
văn hóa độc đáo trong dịng chảy văn hóa xuyên suốt lịch sử văn hóa tín
ngưỡng Việt Nam. Việc Phật giáo đưa Man Nương lên làm Phật Mẫu đã
chứng tỏ mối tơ dun gắn bó giữa 2 loại hình tín ngưỡng tơn giáo này. Tuy
vậy, tín ngưỡng thờ Mẫu khơng vì thế mà bị đồng hóa bởi đạo Phật, nó vẫn
tồn tại song song và phát triển. Từ những điều đó trước sự du nhập của đạo
Phật, sức sống của tín ngưỡng Mẹ khơng những khơng bị mai một mà còn trở
nên mãnh liệt hơn. Tục thờ sinh thực khí và tín ngưỡng phồn thực, thờ Tứ
Pháp ở Bắc Bộ đã cho thấy trong thời kỳ đầu Phật giáo du nhập thì tục thờ Nữ
thần, nguyên lý Mẹ ở Bắc Bộ lúc bầy giờ rất phát triển.


Ở chùa Kiến Sơ, hương Phù Đổng có một ngơi miếu thờ thần Thổ Địa
bên cạnh chùa. Đến đời sư Đa Bảo, sư định triệt bỏ đi ngơi miếu vì cho rằng
đây là nơi thờ thần nhảm nhí thì Thần Thổ Địa ứng hiện bài thơ này:


“Phật Pháp ai hay hộ
Giữ đức tại Kỳ viên
Nếu không ta đây giống



Sớm theo xứ khác thiên...” [35, tr.28]
Dịch nghĩa:


</div>
<span class='text_page_counter'>(48)</span><div class='page_container' data-page=48>

43


Như vậy, theo bài thơ thì Thần Thổ Địa đã hiển linh đuổi Phật đi nơi
khác, bởi Thần là chủ Đất này. Qua bài thơ thì Thần Thổ Địa muốn nói với
nhà sư Đa Bảo rằng, ai muốn độ trì Phật Pháp thì hãy sang Ấn Độ mà thờ, cịn
nơi đây khơng phải là hạt giống của Thổ Địa thì xin mời đi nơi khác. Phải
chăng đây là một nét tính cách, một phản ứng tâm lý lớn của người Việt vùng
đồng bằng Bắc Bộ trước sự du nhập của Phật giáo thời kỳ đầu khi mà chưa có
sự kết hợp văn hóa với tín ngưỡng dân gian bản địa. Từ đó thấy được qua sự
du nhập của các tín ngưỡng ngoại lai thì tục thờ Mẹ Đất, tín ngưỡng thờ Nữ
thần vẫn phát triển thành tục thờ Thành hoàng làng và rất được coi trọng
khơng chỉ trong các làng bình thường mà cịn cả ở những ngơi chùa như chùa
Dâu, chùa Phù Đổng,...


Nhìn chung trong thời kỳ đầu du nhập, ở nhưng trung tâm Phật giáo tục
thờ Nữ thần, thờ nguyên lý Mẹ, các thiên thần đều khơng bị tan rã vì tục thờ
Mẹ đã có gốc rễ sâu xa trong tâm trí người dân Bắc Bộ. Mẫu khơng những đã
duy trì lịng tin tưởng cho nhân dân Đồng bằng Bắc Bộ mà còn chấp nhận
giáo lý của Phật giáo, nho giáo để hoàn chỉnh thêm niềm tin đó.


Như vậy, qua đó cho thấy, sự hội nhập của đạo Phật thời kì du nhập
với tục thờ Nữ thần, Mẫu thần của người Việt ở Đồng bằng Bắc Bộ cũng là
một trong những yếu tố tiên quyết góp phần hình thành và hồn thiện hệ
thống tín ngưỡng thờ Tam phủ, Tứ phủ như ngày nay.


<i><b>2.2.2. Mối quan hệ giữa Phật giáo với tín ngưỡng thờ Mẫu ở đồng </b></i>


<i><b>bằng Bắc bộ thể hiện thông qua việc thực hành tín ngưỡng Tam phủ. </b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(49)</span><div class='page_container' data-page=49>

44


giáo có nguồn gốc từ Ấn Độ, nhưng khi du nhập vào nước ta trải qua q
trình đồng hóa với tín ngưỡng dân gian bản địa, đặc biệt là tín ngưỡng thờ
Mẫu, đạo Phật đã mang tính dân tộc Việt Nam khá rõ nét. Đức Phật (Buddha)
trong tâm thức dân gian đã khơng cịn nguyên vẹn, tính chất của đấng giác
ngộ trong giáo lý Phật giáo mà trở thành Bụt - một vị thần cứu nhân độ thế,
một vị thần linh có đủ sức mạnh cao siêu để cứu khổ cứu nạn cho những ai tin
tưởng vào Ngài. Cùng với đó, trong tâm thức dân gian có khi cịn đồng nhất
ông Trời với Đức Phật nên người ta hay tụng niệm câu “lạy Trời, lạy Phật”,
“A Di Đà Phật”. Do vậy, Đạo Phật đã hiểu rõ nét tâm lý, lòng mong ước và
thế giới quan của cư dân nông nghiệp của Việt Nam là rất mộc mạc, chất
phác, đơn giản, dung dị mà dễ hiểu. “Điều đó chứng tỏ, Phật giáo khi du nhập
vào nước ta đã chủ động tự điều chỉnh và biến đổi ít nhiều so với đạo gốc
mang đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam và trở thành Phật giáo dân tộc” [27;
tr.71].


Tín ngưỡng thờ Mẫu được hình thành và hồn thiện bởi sự du nhập của
Đạo giáo vào nước ta. Theo các nguồn tài liệu, thì tín ngưỡng thờ Mẫu là kết
quả của mối giao duyên giữa Đạo giáo với tín ngưỡng dân gian bản địa, mà
Đạo giáo lại có nguồn gốc từ Trung Quốc du nhập vào đất Việt khoảng những
năm đầu công nguyên. Người Việt đã tiếp nhận Đạo giáo như tiếp nhận thêm
một niềm tin vào các vị thần linh mới, có uy lực siêu phàm đối với cuộc sống
và vận mệnh của họ, cũng như tiếp nhận thêm một phương thức giao cảm mới
với các đấng siêu nhiên đó. Như vậy, Đạo giáo khi du nhập vào Việt Nam
cungc đã tự điều chỉnh và biển đổi thông qua việc phong tục hóa và dân gian
hóa trở thành hai dịng tín ngưỡng mới của Đạo giáo trên mảnh đất Việt: Đạo
Thần Tiên và Đạo Phù Thủy[27; tr.52].



</div>
<span class='text_page_counter'>(50)</span><div class='page_container' data-page=50>

45


chúa. Sự linh thiêng của Mẫu Liễu Hạnh cùng với việc ảnh hưởng của tín
ngưỡng Tam phủ đã được dân gian bổ sung vào thần điện để tơn thờ thành tín
ngưỡng Tứ phủ. Mẫu Liễu Hạnh được dân gian tôn vinh là thánh Mẫu là vị
thần cai quản cõi nhân gian. Đạo Tứ Phủ được dân chúng gọi là tín ngưỡng
thờ Mẫu và nhanh chóng ăn sâu vào tâm thức dân gian của người Việt trên đất
Bắc Bộ, và hội nhập với tín ngưỡng tơn giáo khác, nhất là với Phật giáo.


Việc xuất hiện thánh Mẫu Liễu Hạnh gắn liền với các truyền tích và
gắn liền với những truyền tích và liên quan đến tín ngưỡng Phật giáo để rồi
hồn thiện hệ thống tín ngưỡng thờ Mẫu cho thấy phản ảnh của xã hội nông
nghiệp chưa nhất qn. Chính vì vậy, từ cuối thời Trần khi mà Phật giáo
đang trong giai đoạn phát triển cực thịnh, nhiều trí thức dân tộc đã muốn
phục hồi Nữ thần nguyên thủy. Điều này được thể hiện qua 2 bộ sưu tập:
Việt điện u linh đề cao hào khí anh linh và Lĩnh Nam chích Quái ca ngợi các
Nữ thần.


</div>
<span class='text_page_counter'>(51)</span><div class='page_container' data-page=51>

46


kẻ đó vừa rời khỏi qn hàng thì hoặc phát điên hoặc lăn ra chết. Hoàng tử
vua Lê nghe tiếng nàng, đã giấu vua và Hoàng hậu cải trang vào tìm người
đẹp. Liễu Hạnh đã biết trước liền dùng phép để cho hoàng tử một bài học. Từ
đó Hồng Tử trở thành điên dại, các thầy thuốc đành chịu bó tay. Vua phải
mời 8 vị đạo sĩ ( Bát Vị Kim Cương ) làm phép mới chữa khỏi bệnh cho con
trai được. Thấy Liễu Hạnh lộng hành như vậy, vua sai quan quân và cả bọn
pháp sư cùng mấy vị Kim Cương đến hỏi tội. Tám Vị Kim Cương đều thua
dưới tay Liễu Hạnh, thì họ đi nài nỉ Phật bà mượn được một cái túi, và trở lại
giao chiến. Lần này Liễu Hạnh bị thua rơi gọn vào túi Phật bà. Vua sai đưa


nàng về kinh tra xét. Nàng trả lời rất đường hoàng cứng cỏi. Nàng chỉ trừng
trị những kẻ nào xấu và luôn hàm ơn cho người chịu khổ chịu nạn thì làm gì
nên tội? Vua đuối lý phải tha. Cũng đúng lúc này, thời hạn dưới trần của nàng
đã hết. Nàng trở về trời, để lại một đứa con trai mỗi bàn tay có 6 ngón , gửi lại
cho nhà sư dưới chân núi Hồng Lĩnh (Nghệ An) nuôi hộ.


Ở trên Trời, nhưng lịng người chưa ngi. Liễu Hạnh lại xin Thượng
Đế cho xuống cõi nhân gian. Nàng về đến Ba Dội, vẫn hóa thành cơ gái lập
qn bán hàng giao du với các danh sĩ. Liễu Hạnh lại sinh đứa con thứ 2, gửi
nhờ ni cô chùa Bà Đỏ ni. Cịn mình vân du nơi này nơi khác. Nàng thường
giúp kẻ khó, nên được nhiều nơi thờ phụng, xem như một bà Thánh Mẫu.


</div>
<span class='text_page_counter'>(52)</span><div class='page_container' data-page=52>

47


Theo Thần tích, thánh Mẫu Liễu Hạnh trong lần giáng sinh thứ ba đã
quy y Tam bảo, sự kiện này được xem là điểm mốc mở đường cho sự hội
nhập giữa tín ngưỡng thờ Mẫu dân gian và Phật giáo.


Các điện mẫu nhờ thế đã đi vào chùa của Phật giáo và đồng thời Phật
giáo cũng đã thấm sâu vào trong các đình thờ Mẫu. Sự hội dung này tạo ra
một dạng phổ biến trong cách bố trí của gian thờ Tổ và thờ Mẫu Tam phủ
-Tứ phủ.


Trong các lễ hội thờ Mẫu Tam Phủ - Tứ Phủ nhất là lễ hội Phủ Dầy
(Nam Định) bên cạnh những nghi lễ thờ phụng với mẫu Liễu cịn có các cuộc
rước thỉnh kinh gắn với Phật giáo như mùng 5 tháng 3 âm lịch có lễ rước Mẫu
từ phủ Vân Cát sang chùa Dần, mùng 6 tháng 3 âm lịch có lễ rước từ Phủ
Tiên Hương đến chùa Gôi và ngược lại.


Trên thực tế tín ngưỡng thờ Mẫu mặc dù phát triển nhanh chóng, có khi


mang dáng vẻ chính thống. Nhưng thật ra, nó chỉ là kết quả lựa chọn vừa phải
của dân gian, dân gian tiếp thu Nho - Phật - Đạo nhưng lấy tín ngưỡng thờ
Mẫu, thờ Thành hồng làng làm gốc. Chính vì thế tín ngưỡng thờ Mẫu vừa dễ
đứng vững để rồi biến đổi hoàn thiện để dần phổ biến phù hợp với tâm thức
dân gian. Tín ngưỡng thờ Mẫu với nội dung cầu sinh lực vũ trụ, nảy nở và
sinh sôi người an vật thịnh và đưa thêm vào đó đạo Thánh hiền chọn lấy cái
trung dung của Khổng Tử để phát triển lý thuyết “giải thoát” của Phật Tổ Như
Lai cứu chúng sinh ra khỏi vòng nghiệp chướng. Dạy con người phải chăm
sóc, yêu thương san sẻ đùm bọc lẫn nhau, không tranh đua giành giật mà lo trị
bệnh cứu người. Người dân Đồng bằng Bắc Bộ coi đó là một đạo lý mới từ đó
hy vọng có thể xóa bỏ bệnh tật áp bức bất công giữa con người trong xã hội,
tất cả đề cao tình yêu thương như con một mẹ, đó là chân lý của dân tộc ta:
“Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(53)</span><div class='page_container' data-page=53>

48


truyền lại trong Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sỹ Liên, Việt Nam Thục
Lục… đã mô tả sự ra đời của các Hoàng đế của người Việt bắt nguồn từ mẹ
Âu Cơ, mẹ Mặt Trời qua đó cho thấy trong tâm thức người Việt dịng dõi tâm
linh ln là điểm đáng tự hào. Suốt hàng ngàn năm, các Mẹ giữ vai trò là sợi
dây liên kết tồn dân, làng xóm được gắn kết thắt chặt lại dưới uy lực của
Thành hoàng làng.


Ở dưới thời Lý - Trần, Phật giáo giữ vị trí chủ lực và phát triển thịnh
vượng trong đời sống xã hội, tín ngưỡng thờ Mẫu dường như chỉ phát triển
thầm lặng trong dân gian và cũng chưa trở thành hệ thống thì đến cuối thời
Trần vào đầu thời Lê khi Phật giáo bắt đầu nhường chỗ cho Nho giáo thì đồng
thời đó cũng là sự trỗi dậy của phong trào Tam giáo đồng nguyên. Lúc này,
đến thời Trần, Mẫu có khi bị gọi là tà thần, dâm thần. Sang đến thời Lê, thì
các Mẫu đã được phong thần, có nhiều Mẫu được phong Thượng đẳng thần,


kèm theo đó là các danh hiệu. Có nhiều triều đại đã sắc phong Mẫu Liễu
Hạnh thành Tứ Bất Tử trong đời sống tâm linh Việt Nam. Việc sắc phong này
là hoàn toàn đúng, bởi các Mẫu trong tâm thức dân gian đều là tự sinh, tự
dưỡng, vừa dương, vừa âm, vừa nam, vừa nữ vì các bà là Mẹ khởi thủy sinh
ra mn lồi.


Giáo lý Sắc - Khơng cũng chỉ ra rằng Sắc là danh từ chỉ sự vật hiện
tượng ở trạng thái có hình tướng trong khơng gian mà con người nhận biết
được vậy là có, Khơng là chỉ trạng thái sự vật ở hiện tương khơng có hình
tướng mà con người khơng nhận biết được. Như vậy, trong giáo lý của nhà
Phật cũng đồng nghĩa với quan điểm của tín ngưỡng thờ Mẫu trong vấn đề hài
hòa âm dương vũ trụ nghĩa là trong âm có dương và ngược lại, trong cái có có
cái không. Đây cũng là cơ sở cho việc hội nhập của đạo Phật trong tín ngưỡng
thờ Mẫu trong đời sống tâm linh của người Việt ở Đồng bằng Bắc Bộ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(54)</span><div class='page_container' data-page=54>

49


phức tạp lâu dài cóc khi trành giành ảnh hưởng lẫn nhau nhưng xu hướng
chung vẫn là sự dung hợp và hòa quyện để tồn tại lên sắc thái độc đáo cho
dân tộc Việt Nam.


<b>2.3 Mối quan hệ giữa tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt vùng </b>
<b>đồng bằng Bắc Bộ với quá trình phát triển của Phật giáo </b>


<i><b>2.3.1 Mối quan hệ giữa tín ngưỡng thờ Mẫu với quá trình phát triển </b></i>
<i><b>của Phật giáo Việt Nam thể hiện qua không gian thờ cúng. </b></i>


Hàng trăm năm nay, tục thờ Mẫu đã lan nhanh sắp vùng châu thổ Bắc
Bộ. Bên cạnh những đền thờ các Thánh Mẫu, Chầu Bà, Đức Ông, các Cô,
Cậu vẫn song song tồn tại trong không gian ngôi chùa, cùng với Tam Tòa


Tam bảo của điện thờ Phật. Như vậy ngôi chùa ở vùng Đồng bằng Bắc Bộ có
khơng gian theo kiểu “tiền Phật hậu Thánh”. Thờ Mẫu là một loại hình tín
ngưỡng dân gian phản ánh rõ nét tâm hồn người Việt ở Bắc Bộ và một sức
sống mãnh liệt, dẻo dai, uyển chuyển, phù hợp với hoàn cảnh lịch sử. Theo
quan niệm dân gian một Mẫu đầy sức mạnh siêu nhiên quyền năng vơ hạn đã
hóa thân phân thân thành các vị thần linh tối thượng tỏa khắp không gian ngôi
chùa như Phật Quan Âm Bồ tát với khuôn mặt của Nữ Thần. Đó là đức Phật
Bà Quan Âm “Thiên Thủ Thiên Nhãn” (nghìn tay, nghìn mắt) và một số vị
thần Nữ khác cũng tham gia vào việc cai quản các chùa được thờ phụng phổ
biến trong nhiều ngôi chùa ở Bắc bộ như chùa Bút Tháp (Bắc Ninh), chùa
Mía (Sơn Tây), chùa Nành (Hà Nội)…


</div>
<span class='text_page_counter'>(55)</span><div class='page_container' data-page=55>

50


Nam đã chuyển thành nữ thánh Phật Bà Quan Âm. Trong khơng gian bài trí
của các chùa ở Bắc Bộ, tay và mắt của Phật bà thường được biểu trưng bằng
những con số ước lệ, có thể là 8, 10, 12, 14...hoặc 36, 38, 40,... tay lớn và
nhiều tay nhỏ khác mọc cân xứng ra ở hai bên sườn.


Mối quan hệ giữa đạo Phật và tín ngưỡng thờ Mẫu cịn được xem xét
thờ Mẫu từ góc độ khơng gian bài trí trong việc thờ Phật và điện thờ Mẫu
sắp làng q Bắc Bộ. Ngồi khơng gian thờ cúng là chính điện thờ Phật thì
các ngồi chùa ở Đồng bằng Bắc Bộ cịn có điện thờ Mẫu và nhà thờ Tổ...
Trong điện thờ Phật có tịa Tam Bảo, Tam Tơn Di Lặc,.. thì ở điện Mẫu có
Tam Tịa Thánh Mẫu, Tam Phủ - Tứ Phủ, Tam vị Đức Vua Cha,... Theo
quan niệm dân gian con số 3 là con số vừa để biến đổi, vừa để cân bằng
thường được viện vào nhiều vấn đề cuộc sống, số 3 là số lẻ, vì lẻ thì chuyển
động và biến đổi không ngừng để phát triển. Vì vậy con số 3 được dùng
nhiều trong không gian bài trí, sắp đặt tượng thờ ở điện Phật và điện Mẫu.
Trong suốt quá trình đạo Phật dung hợp với tín ngưỡng thờ Mẫu đã có mỗi


quan hệ tương giao, dung hòa, nương tựa bổ sung cho nhau để cùng tồng tại
và phát triển trở thành phổ biến rộng khắp trong đời sống tâm linh của
người dân Đồng bằng Bắc Bộ.


Mối quan hệ giữa tín ngưỡng thờ Mẫu với Phật giáo được thể hiện
trong không gian ngôi chùa là rất đa dạng phong phú, đã có sự tích hợp lẫn
nhau để hình thành nên quần thể không gian thờ cúng đa màu sắc. Là nơi lưu
trữ sinh hoạt văn hóa của cả động đồng cư dân Đồng bằng Bắc Bộ. Điều này
được thể hiện ở quần thể di tích đền, chùa, phủ ở Phủ Dầy (Nam Định).


</div>
<span class='text_page_counter'>(56)</span><div class='page_container' data-page=56>

51


các làng của người Việt ở Đồng bằng Bắc Bộ và có nhưng hệ thống tín
ngưỡng riêng.


Hệ thống di tích thờ Mẫu trong khơng gian thờ cúng của Phủ Dầy
(Nam Định) có chùa thờ Phật cũng như mọi làng quê Việt Nam, các làng ở xã
Kim Thái đều có chùa. Trong đó, có thể kể đến 3 ngôi chùa gắn với ba làng:
Chùa Báng ở làng Báng, chùa Tiên Hương ở làng Tiên Hương, chùa Long
Vân ở làng Vân Cát. Chùa thờ Phật chùa nào cũng có ban thờ Tam Bảo,
tượng Phật Bà Quan Âm, tượng Đức Thánh Hiền, ban thờ Tổ... Trong cá ngôi
chùa này thì các chùa đều có ban thờ Mẫu, ban thờ Mẫu của chùa Bạc (làng
Bạc) nằm trong gian phía ngồi của chùa cùng với ban thờ Tổ và thờ Vong.
Ban thờ Mẫu của chùa Tiên Hương lại nằm ở vị trí sau nhất của chùa, phía
sau là tịa Tam Bảo. Ngồi ra, trong không gian thờ cúng của xã Kim Thái
cịn có cả đền thờ Vua Lý Nam Đế và đền thờ các vị thần tự nhiên.


Trung tâm của khơng gian thờ cúng Phủ Dầy là những di tích thờ Mẫu
Liễu Hạnh đó là phủ Tiên Hương, phủ Vân Các và Lăng Mẫu. Phủ Tiên
Hương (Phủ Chính) bao gồm các cung Đệ Tứ, cung Đệ Nhị, Đệ Tam và Đệ


Nhất. Các cung này tách biệt hẳn với bên ngoài bởi một hệ thống cửa ngăn
với cung Đệ Nhị tạo nên không gian linh thiêng. Cung là nơi thờ Tam Tòa
Thánh Mẫu và Tổ Phụ Tổ Mẫu. Năm pho tượng trong 5 án nhỏ đặt trong một
phản to. Mẫu đệ nhất đặt ở giữa mặc áo đỏ đồng nhất với Mẫu Liễu Hạnh.
Mẫu Đệ Nhị Thượng Ngàn áo xanh và mẫu Đệ Tam Thờ Phủ đặt ở hai bên.
Tiếp đến, Phủ Vân Cát và Lăng Mẫu Liễu Hạnh cũng là các di tích quan trong
trong tâm thức dân gian người Việt ở Đồng bằng Bắc Bộ. Sự hịa lẫn giữa
khơng gian thờ cúng của chùa với không gian thờ cúng của điện, Phủ Mẫu ở
Đồng bằng Bắc Bộ là một xu thế được chấp nhận không chỉ trong tâm thức
người dân Phủ Dầy mà ngay cả các phủ khác ở nhiều địa phương ở Đồng
bằng Bắc Bộ cũng chấp nhận điều này.


</div>
<span class='text_page_counter'>(57)</span><div class='page_container' data-page=57>

52


các vị chư linh của vũ trụ thì trong cung Đệ Tam cũng có cả ban thờ Phật và
ban thờ Tam Tịa Thánh Mẫu. Trong đó, ban thờ Phật được đặt trong cùng,
trên có hai pho tượng Phật Tổ Như Lai và Phật Bà Quan Âm.


Tóm lại, qua khơng gian thờ cúng của tín ngưỡng thờ Mẫu và Đạo Phật
phần nào chứng minh cho mối quan hệ giữa đạo Phật với tín ngưỡng thờ Mẫu
là một q trình phát triển lâu dài, có sự bổ sung cho nhau để cùng hướng tới
sự tồn tại và phát triển trong đời sống tâm linh của người dân Đồng bằng Bắc
Bộ. Không chỉ dừng lại trong khơng gian thờ cúng mà mối quan hệ đó còn
được bao trùm sang cả việc thực hành nghi lễ thờ cúng.


<i><b>2.3.2 Mối quan hệ giữa tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt ở đồng </b></i>
<i><b>bằng Bắc Bộ với quá trình phát triển của Phật giáo được thể hiện qua thực </b></i>
<i><b>hành nghi lễ thờ cúng </b></i>


Trong suốt quá trình hình thành và phát triển của mình ở Đồng bằng


Bắc Bộ đạo Phật và tín ngưỡng thờ Mẫu ln gắn bó và có mối quan hệ tương
tương giao lẫn nhau và cùng nương tựa lẫn nhau, dung hòa bổ sung cho nhau.
Do đạo Phật và tín ngưỡng thờ Mẫu đều được hình thành và phát triển ở vùng
đồng bằng Bắc Bộ dựa trên nền tảng của hệ tín ngưỡng nơng nghiệp nên đã
chứa đựng nhiều yếu tố văn hóa tương đồng.


Trong thực hành nghi lễ thờ cúng ở các lễ hội, ở các ngôi chùa ở Đồng
bằng Bắc Bộ nhất là ở Nam Định là một dẫn chứng tiêu biểu cho mối quan hệ
giữa Phật giáo với tín ngưỡng thờ Mẫu, điều này được thể hiện trong lễ hội
Phủ Dầy được tổ chức hàng năm vào tháng ba âm lịch. Trong việc thực hành
nghi lễ thờ cúng trong hội ở các chùa Thông, chùa Dần và chùa Vơi được đặt
trong quần thể tín ngưỡng và có mối quan hệ đặc biệt với Phủ Trình thờ Đức
Mẫu Liễu ở Tiên Hương (Phủ Dầy Nam Định).


</div>
<span class='text_page_counter'>(58)</span><div class='page_container' data-page=58>

53


thực hành nghi lễ thờ cúng tại chùa phủ. Hội được mở rất linh đình nhộn nhịp
thu hút một lượng lớn dân chúng. Sinh hoạt nghi lễ được tổ chức như sau:


Lễ tế theo nghi thức được tổ chức từ ngày mùng 1, mùng 2, mùng 3.
Mồng một làm lễ nhập hội ở Phủ chính (Tiên Hương) để mở các cửa phủ đền,
để mừng lễ tế, mừng hội. Sáng hôm sau khi chiêng trống nổi lên, các vị dự tế
mặc áo thụng quần ống sớ, đội khăn lượt, đi hài thêu, có mấy vị tiên nữ mặc
áo vàng, mũ giát bạc, quần lụa, tất trắng, mang tua vải màu cánh sen hoặc
xanh nõn chuối, tay cần quạt, dáng khoan thai cùng tiến vàoo nơi hành lễ. Sau
lễ tế là đến lễ tạ. Các giá đồng biểu diễn, các trò vui rộn ràng sân phủ, đường
đi chật ních khách thập phương hồ hởi sôi nổi tham dự.


Ngày mồng hai, làng Tiên Hương làm lễ mộc dục để lau chùi, rồi thay
khăn áo cho các tượng thánh. Lễ này cũng tương tự như lễ mộc dục trong


Phật giáo, có nhiều điểm tương đồng trong ngày Phật đản của Phật giáo. Lễ
mộc dục do bốn cô gái đồng trinh tiến vào nơi ngự của Thánh Mẫu, các cô lấy
khăn lụa đỏ nhúng vào nước giếng đựng trong một chiếc chậu thau đồng, lau
mình tượng. Sau đó, lau lại bằng một thứ nước được nấu sẵn bởi năm thứ lá:
trạch lan (đỏ tía), trầm hương (vàng), uất kim cương (xanh), an tức (đen) và
nhân long. Ở cung Đệ Nhị và trước cửa Đệ Tam, những người dự lễ chen
chúc nhau để chờ tranh được một mảnh khăn lụa đỏ hoặc một chén nước lau
mình thánh. Dải khăn này họ sẽ man trong mình để làm bùa hộ mệnh. Phải
chăng nghi thức này cũng giống nghi thức của đạo Phật khi du nhập vào,
trong lễ mộc dục, tắm Phật ngày mùng 8 tháng 4 người ta cũng tranh nhau vải
đỏ tắm Phật và mang bên người để tránh tà ma, xui xẻo.


Ngày mồng ba tháng ba – ngày giỗ Mẫu được tiến hành theo nghi thức
quốc lễ. Cuộc tế lễ được tiến hành theo nhiều nghi thức. Trước tiên chủ tế
khấn Phật rồi đọc văn tế thánh Mẫu Liễu Hạnh:


</div>
<span class='text_page_counter'>(59)</span><div class='page_container' data-page=59>

54


Các ngày tiếp theo, làm đám rước thỉnh kinh linh đình. Mồng bốn rước
từ Phủ Giáp Ba sang chùa Thông. Mồng năm từ Vân Cát sang chùa Dần.
Mồng sau từ Phủ chính Tiên Hương đến chùa Gơi và ngược lại. Lễ rước thỉnh
kinh ngày mùng 6 là đám rước thỉnh kinh lớn nhất trong ngày hội Phủ Dầy.
Đi đầu đám rước là các cô các bà mặc quần áo đẹp, tiếp đến là những người đi
cà kheo cao lênh khênh, rồi các phường múa rồng nổi tiếng của xã. Tất cả
những hành động nghi lễ đó vừa gây hưng phấn cho ngày hội vừa mục đích
mở đường rước Thánh. Tiếp dến là vị hịa thượng trụ trì chùa Tiên Hương
mặc lễ phục Phật giáo tay cầm tràng hạt, miệng tụng kinh niệm Phật. Sau đó
là 4 chiếc kiệu rước Thần Thánh, trên kiệu là những sắc phong và bát hương
thờ bà Chúa Liễu. Những âm thanh của các điệu hành văn, lưu thủy tăng thêm
khơng khí tưng bừng trên dọc đường. Từ đây đổ lại là đoàn người đi bộ. Đám


người xiên lình, đám các thanh đồng vừa đi vừa khấn vái, có người nhập đồng
nhảy múa, hò hét... Hai bên đường là các vãi già mặc áo nâu, miệng luôn
niệm “Nam mô A Di Đà Phật” và các con nhang đệ tử cùng nhân dân đi hành
hương, trẩy hội. Đám rước kéo dài hàng ngàn cây số từ sáng tới trưa. Lễ thỉnh
kinh do hịa thương chủ trì, hịa thượng đọc kinh, mọi người cùng tụng niệm,
sau khi thỉnh kinh đám rước lại được trả ngược về phủ chính để tham gia phần
hội với nhiều trị chơi dân gian phong phú.


</div>
<span class='text_page_counter'>(60)</span><div class='page_container' data-page=60>

55


đền Mẫu, Phủ... đặc biệt, trong văn khấn đôi khi là đồng nhất trong cách mở
đầu. Văn khấn ở những nơi này đều tụng niệm danh hiệu Di Đà: “Nam mô A
Di Đà Phật”.


Không chỉ riêng các chùa ở khu vực Nam Định mà nhiều chùa ở các
địa phương khác trong vùng đồng bằng Bắc Bộ, việc thực hành nghi lễ trong
chùa không thể tách rời giữa lễ Phật và Mẫu. Hiện nay, hầu hết các chùa đều
có nhà Mẫu, cùng nằm trong một hệ thống không gian thờ cúng, nghi lễ thờ
cúng vừa khác lại vừa giống nhau, thể hiện sự dung hợp rõ rệt. Chùa thờ Phật,
lại thờ cả Thánh và Mẫu.


Nghi lễ thờ cúng tại chùa khá đơn giản, thường người ta dâng lễ tại
chính điện trước, rồi đến ban Đức Ông, ban Thánh Hiền, nhà Tổ, rồi đến nhà
Mẫu. Nghĩa là lễ Phật, Bồ Tát, Ngọc Hoàng trước rồi mới đến các ban điện
khác. Nghi lễ trong điện thờ Phật hay Tổ, họ cũng đều vái 3 hay 5 vái. Có
người cịn đọc văn khấn xin sự phù hộ cho mình và gia đình. Hàng năm, nhân
dẫn lễ Phật theo các ngày mồng một, ngày rằm và các ngày lễ tết trong năm
và dường như theo một thông lệ đã lên chùa lễ Phật là mọi người đều qua nhà
Mẫu lễ Mẫu. Ở nhiều chùa, nhà Mẫu có khi sinh hoạt nghi lễ tấp nập. Nghi lễ
trình đồng, hầu đồng tại nhà Mẫu trong chùa cũng diễn ra rất quan trọng.


Trước khi diễn ra buổi hầu là công tác chuẩn bị rất kĩ càng, trong đó việc
quan trọng nhất đó là lễ thỉnh kinh Phật, sau lễ thỉnh kinh rồi mới đến lễ hầu
đồng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(61)</span><div class='page_container' data-page=61>

56


Mẫu khơng nhất thiết phải tồn là đồ mặn, mà có cả đồ chay. Thơng thường,
nghi lễ hầu đồng tổ chức trong điện Mẫu của chùa diễn ra rất tốn kém trong
việc sắm lễ, nặng nề về mã gồm voi, ngựa, quần, áo...


Thứ tự lễ ban được người dân đồng bằng Bắc Bộ thực hiện khá linh
hoạt. Thường làm lễ trình Phật, sau đó rồi đến thổ địa, rồi mới vào dâng lễ
Mẫu. Trong khi tiến hành dâng lễ Mẫu, thường kết hợp nhiều hình thức nghệ
thuật diễn xướng tâm linh: nhảy, múa, hát chầu văn ứng với mỗi giá đồng.
Nội dung các bài hát chầu văn ca ngợi cảnh quan thiên nhiên có cây, núi,
sông, tán dương công lao dẹp giặc, trừ ma quỷ, chừa bệnh cứu người của các
Mẫu, các Cơ, các Quan,... Nhìn chung, các hoạt động thực hành nghi lễ trong
chùa thể hiện rõ mối quan hệ giữa Phật giáo với tín ngưỡng thờ Mẫu của
người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ. Tuy hai hình thức tín ngưỡng, tơn giáo khác
nhau về hệ tư tưởng nhưng lại có nhiều điểm chung và hồn tồn có thể tích
hợp lại trong cùng một khơng gian thờ cúng, và có nhiều điểm tương đồng
trong nghi lễ thờ cúng. Mặt khác, thông qua nghi lễ thờ cúng cũng phần nào
thể hiện được những giá trị sinh hoạt văn hóa tâm linh truyền thống của người
dân Bắc Bộ.


<b>2.4 Giá trị của mối quan hệ giữa Phật giáo với tín ngưỡng thờ Mẫu </b>
<b>của người Việt ở đồng bằng Bắc Bộ </b>


<i>Thứ nhất, mối quan hệ giữa Phật giáo với tín ngưỡng thờ Mẫu của </i>
<i>người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ đã góp phần làm nên đặc thù của Phật </i>


<i>giáo Việt Nam. </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(62)</span><div class='page_container' data-page=62>

57


thể như trong các lĩnh vực: Nông nghiệp, y học, âm nhạc, hội họa, kiến trúc,
điêu khắc,...


Con người Việt Nam tìm đến Phật giáo không chỉ thấy ở đấy sự che
trở, an ủi, giúp đỡ, giải thoát... mà mỗi khi đặt chân tới chốn cửa chùa người
ta có cảm giác thanh thoát nhẹ nhàng như rũ bỏ được phần nào những bụi
bặm của cuộc sống trần tục, gần gũi với thế giới xa lạ, huyền hảo nhưng đầy
hấp dẫn. Trong điều kiện nước ta hiện nay khi mà hiện tượng tiêu cực trong
xã hội còn phát triển, tệ nạn xã hội chưa ngăn chặn được, nạn than nhũng
ngày một gia tăng... Ở một mức đơ nào đấy sinh hoạt tín ngưỡng Phật giáo
Việt Nam còn như một biểu hiện phản kháng lại tệ nạn xã hội đó và ít nhiều
ngăn chặn những tiêu cực xã hội đang nảy sinh.


Trải qua quá trình lịch sử, dựng nước và giữ nước, Phật giáo được nhân
dân ta đón nhận và tiếp thu phù hợp với tâm lý truyền thống của dân tộc và có
đặc điểm khơng tách rời tư tưởng “cứu quốc”. “Theo quan sát cuộc đấu tranh
của dân tộc từ trước đến nay không tư tưởng nào hơn Phật giáo, trừ chủ nghĩa
Cộng sản. Bình minh của lịch sử dân tộc đã gắn liền với Phật giáo”[11, tr.15].
Những chiến công oanh liệt, những thành tựu rực rỡ về chính trị văn hóa, xã
hội... Thời Lý - Trần tuy khơng thể hồn tồn ghi công của Phật giáo, xong
không thể phủ nhận vai trị và những đóng góp to lớn của Phật giáo đối với
lịch sử dân tộc thời kỳ này khi nó trở thành Quốc giáo. Đương thời nhiều
thiền sư có vai trị rất lớn trong việc tham gia tích cực vào đời sống chính trị -
xã hội... của đất nước, hoặc làm cố vấn cho nhà vua, hoặc giữ chức vụ quan
trọng trong triều đình như: Pháp Thuận, Khng Việt, Vạn Hạnh...



</div>
<span class='text_page_counter'>(63)</span><div class='page_container' data-page=63>

58


lối kiến trúc “Tiền Phật hậu Thánh” và đến thế kỷ XVI trở đi đã an vị các vị
thần của Đạo giáo (Ngọc Hoàng, Nam Tào, Bắc Đẩu,...) Phật Bà Quan Âm
tọa sơn, Quan Âm Thị Kính thờ trong chùa Việt ở miền Bắc và nó trở thành
một nét văn hóa Phật giáo đặc sắc của Việt Nam mà các nước theo Phật giáo
đều khơng có đặc điểm này.


Trước khi có sự du nhập của Phật giáo vào nước ta thì các vị nữ thần
được thờ ở các đền miếu dân gian và được tôn vinh là các vị thần nông nghiệp
trông coi về Nước là yếu tố quan trọng bậc nhất trong sản xuất nông nghiệp
lúa nước. Đến khi Phật giáo vào Việt Nam đã nhanh chóng dân gian hóa, thu
nhận tín ngưỡng thờ Tứ Pháo của người Việt cổ, dẫn đến các ngôi đền, miếu
chuyển hóa thành các chùa chiền[21]. Trong các lễ hội chùa thờ Tứ Pháp
người ta vẫn duy trì lễ tục Rước Nước(cầu Nước) của cư dân nơng nghiệp với
ý nghĩa “cầu mưa thuận gió hịa, mùa màng bội thu”. Có thể nói tục thờ Mẫu
và Tứ Pháp được đạo Phật dung nạp vào được thờ từ khá sớm, dưới dạng Phật
Mẫu và Phật Tứ Pháp, đây cũng là đặc điểm nổi bật của Phật giáo ngay từ ban
đầu du nhập vào văn hóa Việt Nam


Về lĩnh vực điêu khắc, khi tác tượng Phật Bà Quan Âm, các nghệ nhân
điêu khắc tượng trịn, tạc khn mặt của Phật Bà đã lột tả được nội tâm của
người phụ nữ Việt, với đặc điểm: Khn mặt trái xoan, mắt đen trịn, cổ cao
ba ngấn, mơi dày, tà áo bó sát người... Từ đó hình tượng Phật Bà Quan Âm
tọa sơn hay Quan Âm Thị Kính đã được phối thờ trong chùa tại gian nhà tiền
đường ở một số ngôi chùa. Theo sách của nhà Phật, ở Ấn Độ thì Phật Quan
Âm vốn là nam giới nhưng khi Phật giáo truyền vào Trung Quốc, Việt Nam
đã chuyển hóa thành nữ giới là do Phật giáo có mối quan hệ với tín ngưỡng
dân gian của cư dân nông nghiệp là luôn đề cao bà Mẹ Đất – Nước – Núi với
các yếu tố nữ tính của tín ngưỡng thờ Nữ Thần và thờ Mẫu[4].



</div>
<span class='text_page_counter'>(64)</span><div class='page_container' data-page=64>

59


Trong số những tín ngưỡng bản địa, tục thờ Mẫu Tam phủ - Tứ phủ
được cho là có sức sống dai dẳng và sức ảnh hưởng mạnh mẽ nhất tới đời
sống tinh thần của người Việt. Ngay cả vào thời kỳ Phật giáo, Nho giáo trở
nên cường thịnh, tín ngưỡng thờ Mẫu vẫn được đông đảo dân chúng thực
hành thường xuyên. Khơng chỉ góp phần “bản địa hóa” tơn giáo ngoại lai
(Phật giáo), tín ngưỡng thờ Mẫu cịn như một sự kháng cự “ngầm” với công
cụ cai trị của kẻ cầm quyền phong kiến phương Bắc (Nho giáo).


Điều này thể hiện rõ nhất qua sự xuất hiện của điện thờ Mẫu trong các
ngôi chùa ở Bắc Bộ. Từ vài trăm năm nay, tục thờ Mẫu không chỉ được thực
hành ở những đền (phủ hay điện) mà còn ở trong các khuôn viên chùa thờ
Phật. Hầu như các ngôi chùa ở khắp làng quê Việt Nam, do sự chi phối mạnh
mẽ của tín ngưỡng thờ Mẫu dân gian, thông qua mối quan hệ mật thiết với
đạo Phật mà thường có kiến trúc theo kiểu “Tiền Phật, hậu Mẫu”. Dường như
việc thờ Mẫu là một bảo đảm chắc chắn cho sự tồn tại của ngơi chùa, khiến
đạo Phật có chỗ dựa vững chắc trong đời sống tâm linh ở cộng đồng người
Việt.


Dưới sự đô hộ hàng ngàn năm của phong kiến Phương Bắc, Nho giáo
được xem như công cụ cai trị, đồng hóa của giới cầm quyền. Tuy nhiên, dưới
chế độ phong kiến Bắc thuộc hà khắc, sự phát triển mạnh mẽ khơng ngừng
của tín ngưỡng thờ Mẫu bản địa - nơi người phụ nữ được tôn thờ - như là một
thách thức với hệ tư tưởng “trọng nam, khinh nữ” của Nho giáo.


Tín ngưỡng thờ Mẫu là nơi mà ở đó người phụ nữ gửi gắm những ước
vọng giải thoát của mình khỏi những thành kiến, trói buộc của xã hội Nho
<i>giáo phong kiến. Dân gian có câu: “Thứ nhất ngồi đồng, thứ nhì lấy chồng </i>



<i>làm quan”. Trở thành bà lớn là ước muốn xa xỉ của người phụ nữ trong xã hội </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(65)</span><div class='page_container' data-page=65>

60


hội chịu sự chi phối của lời răn Khổng Mạnh, kìm kẹp nữ giới thì tính nữ
quyền trong tín ngưỡng thờ Mẫu chính là sự đối kháng rõ rệt nhất.


Với những giá trị nhân sinh tích cực, sự kết hợp của Phật giáo với tín
ngưỡng dân gian đã thẩm thấu vào đời sống đạo đức của người Việt thông
qua chức năng giáo dục, hướng con người tới các giá trị tốt đẹp, nhân văn.
Người Việt Nam đến với các ngôi chùa của đạo Phật là đến với cõi thanh
bình, an lạc. Ở đó, người ta khơng chỉ tìm được sự bình n của tâm thức mà
cịn bắt gặp sự gần gũi trong quan niệm tín ngưỡng của mình trong chùa Phật.


Để lấy lại cân bằng cũng như truyền trao dạy dỗ cho thế hệ trẻ về
truyền thống, về các giá trị tốt đẹp của văn hóa dân tộc, để trở thành một
người công dân tốt có ích cho xã hội thì các ngơi chùa, hay các tụ điểm sinh
hoạt tín ngưỡng của Phật giáo đang trở thành điểm thu hút và có tác động
khơng nhỏ góp phần củng cố và duy trì nền đạo đức truyền thống.


Sự hỗn dung giữa Phật giáo với tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt
góp phần làm cho văn hóa, tâm thức người Việt trở nên hoàn chỉnh hơn,
phong phú hơn và sâu sắc hơn. Không chỉ làm giàu thêm những giá trị văn
hóa tín ngưỡng bản địa, tạo diện mạo mới, sắc mới cho tín ngưỡng thờ Mẫu
hoàn chỉnh hơn mà những giáo lý, nghi lễ của đạo Phật trở thành chân giá trị,
định hướng đạo lý cho mỗi người Việt Nam, xây dựng nền văn hóa Việt Nam
nhân văn, mang đậm căn tính “từ, bi, hỉ, xả”, tinh thần u nước, chuộng hịa
bình của Phật giáo.



</div>
<span class='text_page_counter'>(66)</span><div class='page_container' data-page=66>

61


thực hành tín ngưỡng Tam Phủ - Tứ Phủ mà còn là một quần thể kiến trúc đa
dạng, đẹp và nên thơ. Đó là sự hịa quyện của sự un thâm của giáo lý Phật
giáo với những triết lý gần gũi, đời thường của người dân Việt, tạo thành
những giá trị văn hóa vật thể rất có giá trị.


</div>
<span class='text_page_counter'>(67)</span><div class='page_container' data-page=67>

62
<b>KẾT LUẬN </b>


Sự dung hợp giữa Phật giáo với tín ngưỡng thờ Mẫu đã đáp ứng nhu
cầu của quần chúng nhân dân ở Đồng bằng Bắc Bộ. Tin vào sự phù hộ độ trì
của Phật và cả Thánh Mẫu thể hiện niềm tin của nhân dân khi đến chùa. Đây
là một đức tin khơng chỉ bó hẹp ở nơng thơn mà còn phổ biến ở thành thị.


Nếu như người dân tinh tưởng vào sự thiêng liêng phù hộ độ trì của
Phật đó là cầu mong sự bình an may mắn, cầu mong sự tốt lành,đề cao chữ
“Tâm”. Thì, tin tưởng vào sự thiêng liêng, phù hộ độ trì của Mẫu đó là truyền
thống đạo lý uống nước nhớ nguồn, tôn vinh những người có cơng với nước.
Tín ngưỡng thờ Mẫu đề cao hình tượng Mẫu – người Mẹ nhằm tơn vinh thờ
phụng và tạo nên niềm tin giá trị nhân bản giá trị đạo đức và truyền thống
Việt Nam. Mẫu trong tín ngưỡng thờ Mẫu là hình tượng của người mẹ Việt
Nam, hình tượng của một đấng thần linh luôn luôn cứu độ chúng sinh thoát
khỏi mọi hiểm nguy trong cuộc sống. Nét đặc trưng trong tín ngưỡng thờ
Mẫu là nghi thức hầu đồng, với 36 giá đồng, Mẫu đã hóa thân vào tất thảy để
giúp cho nhân dân, cầu cho nhân dân vượt qua mọi khó khăn, xây dựng cuộc
sống ấm no, tốt đẹp hơn. Đặc biệt, tín ngưỡng thờ Mẫu ln ca ngợi, tơn vinh
cơng đức của những danh nhân, những người có công xây dựng và bảo vệ tổ
quốc, giúp đỡ nhân dân thoát khỏi những tai ương trong cuộc sống.



</div>
<span class='text_page_counter'>(68)</span><div class='page_container' data-page=68>

63


bắt nguồn từ dân gian, mang sắc thái dân gian độc đáo, không bị trộn lẫn với
bất kì hình thức diễn xướng nào.


</div>
<span class='text_page_counter'>(69)</span><div class='page_container' data-page=69>

64


<b>DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO </b>


<i>1. Phạm Ngọc Anh (2016): Sự dung hợp của Phật giáo với tín ngưỡng </i>


<i>thờ Mẫu của người Việt, Luận văn thạc sỹ, Đại học Quốc gia Hà Nội, </i>


Việt Nam


<i>2. Phan Kế Bính (1997): Việt Nam phong tục, Nxb Tp. Hồ Chí Minh. </i>
<i>3. Trần Lâm Biền (1996): Chùa Việt, Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội. </i>
<i>4. Trần Lâm Biền (1994): Cục di sản văn hóa Việt Nam, bài giảng cho sinh </i>


<i>viên khoa bảo tồn - bảo tàng, trường Đại học Văn hóa, Hà nội. </i>


<i>5. Bùi Hạnh Cẩn – Lê Chân ( 1993): Chợ Viềng và hội phủ, Nxb Giáo dục, </i>
Hà Nội.


<i>6. Võ Đình Cường (1986): Mấy suy nghĩ về tính chất nhân bản của Phật </i>


<i>giáo, mấy vấn đề Phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt Nam, Viện Triết </i>


học, Hà Nội.



<i>7. Nguyễn Mạnh Cường (2000): Chùa Dâu – Tứ pháp và hệ thống các </i>


<i>chùa Tứ pháp, Nxb Khoa học – Xã hội, Hà Nội. </i>


<i>8. Đặng Minh Châu (2015): Mối quan hệ giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân </i>


<i>gian Việt Nam (qua nghiên cứu một số ngôi chùa tiêu biểu của phật giáo </i>
<i>Bắc tông), luận án tiến sĩ Triết học, Hà Nội. </i>


<i>9. Nguyễn Đăng Duy (2001): Các hình thái tơn giáo tín ngưỡng ở Việt </i>


<i>Nam, Nxb Văn hoá – Thông tin, Hà Nội. </i>


<i>10. Nguyễn Đăng Duy (1996): Văn hóa tâm linh, Nxb Hà Nội. </i>


11. Phan Đại Doãn - Lê Văn Mỹ (1987): Phật giáo dân gian vùng Dâu (Hà
<i>Bắc), Tạp chí văn hóa dân gian, số 1. </i>


<i>12. Trần Văn Giàu (1986): Đạo Phật và một số vấn đề của lịch sử tư tưởng </i>


<i>Việt Nam, mấy vấn đề về Phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt Nam, Viện </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(70)</span><div class='page_container' data-page=70>

65


<i>13. Nguyễn Hùng Hậu (2002): Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam (tập </i>


<i>1), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. </i>


<i>14. Đỗ Thị Hảo, Mai Thị Ngọc Chúc (1984): Các Nữ thần Việt Nam, Nxb </i>
Phụ nữ, Hà Nội.



<i>15. Tạ Chí Hồng (2004): Ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo trong đời sống </i>


<i>đạo đức của xã hội Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sĩ triết học, Hà Nội. </i>


<i>16. Nguyễn Duy Hinh và cộng sự (2011): Phật giáo trong văn hóa Việt Nam, </i>


<i>Về hai đặc điểm Phật giáo Việt Nam </i>


<i>17. Đỗ Quang Hưng (2005): Về vấn đề tôn giáo trong cách mạng Việt Nam, </i>


<i>Lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. </i>


18. Đinh Gia Khánh (1992): Tục thờ Mẫu và những truyền thống văn hố
<i>dân gian ở Việt Nam, Tạp chí Văn hố, số 5, trang 7 – 13. </i>


<i>19. Vũ Ngọc Khánh (2005): Tục thờ đức thánh Mẫu và đức thánh Trần, Nxb </i>
Văn hóa - Thơng tin, Hà Nội.


<i>20. Vũ Ngọc Khánh (2002): Nữ Thần và Thánh Mẫu Việt Nam, Nxb Thanh </i>
niên, Hà Nội.


<i>21. Vũ Ngọc Khánh (2006): Đạo Thánh ở Việt Nam, Nxb Văn hóa – Thơng </i>
tin, Hà Nội.


<i>22. Vũ Ngọc Khánh, Ngô Đức Thịnh (1991): Tứ bất tử, Nxb Văn hóa dân </i>
tộc, Hà Nội.


<i>23. Đặng Văn Kim (2016): Tiếp biến và hội nhập văn hóa Việt Nam, Nxb </i>
Đại học Quốc gia, Hà Nội.



<i>24. Phan Thị Kim (2011): Tìm hiểu mối quan hệ giữa phật giáo với tín </i>


<i>ngưỡng thờ mẫu ở khu vực đồng bằng bắc bộ, Luận văn thạc sĩ, Hà Nội. </i>


<i>25. Nguyễn Lang (1992): Việt Nam Phật giáo sử luận, Nxb Văn học, </i>
Hà Nội.


<i>26. Vũ Tự Lập (Chủ biên – 1991): Văn hóa và cư dân đồng bằng Sông </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(71)</span><div class='page_container' data-page=71>

66


27. Nguyễn Quang Lê (1994): Thử tìm hiểu mối quan hệ giữa lễ hội với các
<i>tín ngưỡng dân gian, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 1,4. </i>


<i>28. Đặng Văn Lung (1991): Tam tịa Thánh Mẫu, Nxb Văn hóa dân tộc. </i>
<i>29. Đặng Văn Lung (2004): Văn hóa Thánh Mẫu, Nxb Văn hóa -Thơng tin, </i>


Hà Nội.


30. Nguyễn Đức Lữ (1994): Vị trí người phụ nữ trong tơn giáo tín ngưỡng ở
<i>Việt Nam, Tạp chí khoa học về phụ nữ, số 4, tr. 1-3. </i>


<i>31. Nguyễn Ngọc Mai (2011): Hiện tượng lên đồng trong bối cảnh mới, luận </i>
án tiến sĩ hóa học.


<i>32. Phan Ngọc (2002): Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn học. </i>


<i>33. Nguyễn Quốc Phẩm (1998): Góp bàn về tín ngưỡng dân gian và mê tín </i>
<i>dị đoan, Tạp chí Văn hố nơng thơn, số 11, trang 11 – 13. </i>



<i>34. Lê Mạnh Thát (1999): Lịch sử Phật giáo Việt Nam (3 tập), Nxb Thuận </i>
Hoá, Huế.


<i>35. Lê Mạnh Thát (1999): Thiền Uyển Tập Anh, Nxb Đại học Vạn Hạnh, </i>
Sài Gòn.


36. Vũ Hồng Thuật (1999): Đôi điều về nghi lễ thờ Mẫu của người Việt ở
<i>đồng bằng Bắc Bộ, Tạp chí dân tộc học, số 2, tr. 39-46. </i>


37. Thơ văn Lý – Trần (1977), tập 1, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.


<i>38. Ngô Đức Thịnh (2002): Đạo Mẫu ở Việt Nam (2 tập), Nxb Văn hóa dân </i>
gian, Hà Nội.


<i>39. Ngô Đức Thịnh (2009): Đạo Mẫu Việt Nam (tập 1), Nxb Tôn giáo, </i>
Hà Nội.


<i>40. Ngô Đức Thịnh (2004): Đạo Mẫu và các hình thức Shaman trong các tộc </i>


<i>người ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. </i>


<i>41. Ngơ Đức Thịnh (2008): Lên đồng hành trình của thần linh và thân phận, </i>
Nxb Thế Giới, Hà Nội.


<i>42. Đức Thiện (2002): Tín ngưỡng thờ tứ pháp - hiện tượng tiếp biến văn </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(72)</span><div class='page_container' data-page=72>

67


43. Nguyễn Hữu Thụ (2009): Đôi điều về sự tiếp xúc giữa Phật giáo và tín


ngưỡng thờ mẫu qua truyền thuyết Phật mẫu Man Nương và Thánh mẫu
<i>Liễu Hạnh, Tạp chí nghiên cứu Tôn giáo, số 4. </i>


<i>44. Nguyễn Tài Thư (1993): Lịch sử Phật Giáo Việt Nam, Nxb Chính trị </i>
Quốc gia, Hà Nội.


45. Nguyễn Hữu Toàn (2004): Một số sinh hoạt văn hoá - tín ngưỡng ở
<i>vùng Dâu, Tạp chí Di sản văn hố, số 17. </i>


<i>46. Nguyễn Huyền Trang (2013): Sự dung thông giữa Phật giáo với tín </i>


<i><b>ngưỡng dân gian Việt Nam thời kì đầu du nhập, Hà Nội. </b></i>


<i>47. Lê Hữu Tuấn (1999): Ảnh hưởng của những tư tưởng triết học Phật giáo </i>


<i>trong đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc Việt Nam, Luận án tiến sĩ </i>


Triết học, Hà Nội.


<i>48. Đặng Nghiêm Vạn (chủ biên) (1996): Về tơn giáo tín ngưỡng Việt Nam </i>


<i>hiện nay, Nxb khoa học xã hội, Hà Nội. </i>


<i>49. Thanh Long, Tín ngưỡng thờ Mẫu trong mối quan hệ với tín ngưỡng tơn </i>


<i>giáo khác. Truy cập trên: </i>


/>u_trong_moi_quan_he_voi_tin_nguong_ton_giao_khac


50.



51.


</div>
<span class='text_page_counter'>(73)</span><div class='page_container' data-page=73>

68


</div>
<span class='text_page_counter'>(74)</span><div class='page_container' data-page=74>

69


Tượng Tứ Pháp: Pháp Vân-Pháp Vũ-Pháp Lơi-Pháp Điện


</div>
<span class='text_page_counter'>(75)</span><div class='page_container' data-page=75>

70


<i>Phủ chính Tiên Hương rực sáng với màn pháo bông trong đêm rước lửa. </i>
Nơi đây là trung tâm các hoạt động của Lễ hội Phủ Dầy


</div>
<span class='text_page_counter'>(76)</span><div class='page_container' data-page=76>

71


Rước kiệu của các xã trong hội Phủ Dầy


</div>
<span class='text_page_counter'>(77)</span><div class='page_container' data-page=77>

72


Đoàn rước Mẫu Đệ Nhất được phủ khăn màu đỏ với những phu kiệu mặc
<i>trang phục cùng màu tạo nên vẻ trang nghiêm, kính cẩn </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(78)</span><div class='page_container' data-page=78>

73


Kiệu Mẫu Đệ Tam (Mẫu Thoải)


</div>
<span class='text_page_counter'>(79)</span><div class='page_container' data-page=79>

74


</div>
<span class='text_page_counter'>(80)</span><div class='page_container' data-page=80>

75



Lễ khai hội tại Phủ Tây Hồ - Hà Nội


</div>
<span class='text_page_counter'>(81)</span><div class='page_container' data-page=81>

76


Ban thờ Đức Thánh Hiền


</div>

<!--links-->
Mối liên hệ giữa Phật giáo và tín ngưỡng bản địa Việt Nam và ảnh hưởng của nó trong đời sống văn hoá Việt Nam
  • 20
  • 2
  • 15
  • ×