Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KIỂM TOÁN BÁO CÁO QUYẾT TOÁN VỐN ĐẦU TƯ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.02 KB, 34 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KIỂM TOÁN BÁO CÁO QUYẾT TOÁN VỐN ĐẦU
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KIỂM TOÁN BÁO CÁO QUYẾT TOÁN VỐN ĐẦU




I.Đặc điểm của XDCB và quản lý đầu tư XDCB
1.Đặc điểm của XDCB và quản lý đầu tư XDCB
Đầu tư là việc bỏ vốn để thu được lợi ích kinh tế trong tương lai. Đầu
tư xây dựng cơ bản (XDCB) là việc bỏ vốn trong lĩnh vực XDCB nhằm tạo
ra sản phẩm là những công trình, hạng mục công trình. XDCB là một ngành
sản xuất vật chất đặc biệt, tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho xã hội, nó quyết
định đến sự phát triển của đất nước và quy mô sản xuất của các ngành có
liên quan.
Đặc điểm của XDCB được thể hiện thông qua đặc điểm của ngành, của
sản phẩm XDCB và đặc điểm của quá trình đầu tư XDCB. Chính những đặc
điểm này quyết định đến đặc điểm quá trình quản lý đầu tư XDCB. XDCB là
một ngành sản xuất vật chất chịu tác động của điều kiện tự nhiên. Sản phẩm
của ngành XDCB là những công trình, hạng mục công trình được tạo nên có
liên quan đến nhiều ngành nghề trong nền kinh tế quốc dân. Sản phẩm
XDCB quyết định đến quy mô của các ngành sản xuất khác. Đồng thời nó
cũng phản ánh trình độ phát triển kinh tế xã hội và năng lực sản xuất của
một đất nước. Sản phẩm XDCB là những công trình, hạng mục công trình
được tạo nên từ vật liệu xây dựng, thiết bị, lao động gắn liền với đất, khoảng
không, mặt nước, mặt biển và thềm lục địa. Các công trình, hạng mục công
trình cũng là sản phẩm của công nghệ xây lắp nó được tạo ra nhằm để sản
xuất những sản phẩm cụ thể đã nêu trong dự án. Như vậy, công trình XDCB
là sản phẩm tất yếu của giai đoạn thứ hai (Giai đoạn thực hiện đầu tư dự án)
và thông qua đó nhằm đạt được mục tiêu cuối cùng đã nêu trong dự án đó là
sự tăng trưởng về số lượng, hoặc duy trì, cải tiến, nâng cao chất lượng của
sản phẩm, dịch vụ nào đó trong một khoảng thời gian xác định. Các công


trình XDCB thường có giá trị lớn, thời gian thi công lâu, địa điểm thi công
cố định, có dự toán, thiết kế và phương pháp thi công riêng. Công trình
XDCB có nhiều loại, muốn quản lý tốt thì phải biết được các loại công trình
này.
Phân loại công trình:
Theo tính chất công trình và qui mô đầu tư, công trình chia ra thành ba
loại:
•Công trình là sản phẩm của dự án nhóm A: Đây là nhóm các công
trình, dự án có vốn đầu tư rất lớn hoặc có tính chất quan trọng của quốc gia
không kể mức vốn đầu tư.
•Công trình là sản phẩm của dự án nhóm B: Đây là nhóm các công trình
được tạo ra từ những dự án có vốn đầu tư nhỏ hơn nhóm A được qui định cụ
thể thông qua mức vốn đầu tư.
•Công trình là sản phẩm của dự án nhóm C: Đây chính là công trình là
sản phẩm của những dự án có vốn đầu tư nhỏ hơn nhóm B và nó được qui
định một cách cụ thể thông qua mức vốn đầu tư.
Theo nguồn vốn chia ra, công trình được phân thành:
•Công trình được đầu tư bằng nguồn vốn ngân sách Nhà nước cấp.
•Công trình được đầu tư bằng nguồn vốn tín dụng do Nhà nước bảo
lãnh.
•Công trình được đầu tư bằng nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của
Nhà nước.
•Công trình được đầu tư bằng nguồn vốn tự có của doanh nghiệp Nhà
nước.
Theo đặc điểm kỹ thuật chia ra, công trình được phân thành:
•Công trình xây dựng dân dụng và công trình xây dựng công nghiệp.
•Công trình cầu, đường, sân bay, hầm lò.
•Công trình bến cảng, đê điều, kè, nhà máy thuỷ điện, các dàn khoan
dầu khí, nạo vét lòng sông…
•Công trình cấp thoát nước, cải tạo môi trường, trồng cây gây rừng.

•Công trình cơ khí, chế tạo máy, điều khiển tự động.
Theo tính chất kinh tế chia ra, công trình được phân thành:
•Công trình sản xuất kinh doanh.
•Công trình phi sản xuất kinh doanh.
Theo yêu cầu phạm vi quản lý chia ra, công trình được phân thành:
•Công trình do trung ương quản lý.
•Công trình do địa phương quản lý.
Ngành XDCB tạo ra sản phẩm là những công trình, các công trình này
chứa đựng rất đa dạng các hoạt động và ý tưởng của con người như công
trình trường học phải chứa đựng tư tưởng giáo dục, công trình khách sạn
phải chứa đựng những tư tưởng du lịch… Thực tế thật khó khăn khi phân
loại một cách ngắn gọn và đầy đủ hình ảnh rộng lớn của các công trình
XDCB. Các công trình trên đây khi tiến hành đầu tư người ta cũng nhìn
nhận đánh giá khác nhau, song thường có cách nhìn để đánh giá cho hai loại
công trình đó là:
•Công trình có tính chất sản xuất kinh doanh: Loại này khi phân tích,
đánh giá để đầu tư, thường người ta quan tâm đến lợi ích kinh tế do công
trình sinh ra, như doanh thu hàng năm, giá thành sản xuất, kết quả, khả năng
thanh toán trả nợ về vốn vay đầu tư. Đồng thời, người ta cũng cân nhắc và
phân tích kỹ về tổng số vốn đầu tư và nguồn đầu tư có kết hợp một số yếu tố
khác như môi trường sinh thái, quy hoạch, xã hội…
•Đối với công trình phi sản xuất kinh doanh: Loại công trình này khi đầu
tư, vốn thường được lấy từ ngân sách Nhà nước hoặc vay từ các tổ chức quốc
tế hoặc quốc gia khác. Khi đầu tư, người ta chỉ xem xét về lợi ích kinh tế, lợi
ích xã hội, môi trường sinh thái, khả năng trả vốn từ lĩnh vực khác, nguồn
khác. Nói tóm lại, các công trình này chủ yếu đánh giá trên cơ sở lợi ích công
cộng và xã hội, đó là lợi ích gián tiếp.
2.Nội dung và đặc điểm của báo cáo quyết toán vốn đầu tư công
trình xây dựng cơ bản hoàn thành (BCQTVĐTCTXDCBHT)
BCQTVĐTCTXDCBHT với tư cách là một bảng khai tài chính

được quy định cụ thể dựa trên những đặc trưng riêng có của lĩnh vực
đầu tư XDCB. Mỗi lĩnh vực có một đặc thù riêng. Vì vậy, các bản khai
tài chính được quy định nhằm mục đích cung cấp đầy đủ các thông tin
cần thiết phục vụ việc nhận biết và quản lý điều hành ở lĩnh vực đó.
XDCB là một lĩnh vực phức tạp, sản phẩm XDCB được tạo nên bởi
nhiều bên có liên quan đến việc quản lý và thi công xây dựng công
trình, các khoản chi tiêu đều được định mức, dự toán hoá cao. Vì vậy,
tính tuân thủ là đặc trưng nổi bật của quá trình quản lý đầu tư và thi
công xây dựng công trình. Do đó, BCQTVĐTCTXDCBHT phải thể
hiện được tính tuân thủ này. Đồng thời, BCQTVĐTCTXDCBHT phải
thể hiện được tính đơn chiếc, sự không lặp lại của chu kỳ sản xuất
kinh doanh cũng như quá trình bàn giao sản phẩm XDCB đưa vào sử
dụng. Mặt khác, một công trình có thể được đầu tư bằng nhiều nguồn
vốn và chịu sự quản lý theo đúng qui trình cấp phát, thanh toán, cho
vay, đồng thời hệ thống báo cáo quyết toán này phải phản ánh đầy đủ
thông tin về quá trình đầu tư XDCB nhằm đáp ứng yêu cầu cho chủ sở
hữu vốn và người nhận công trình đưa vào khai thác sử dụng. Chính vì
vậy, hệ thống BCQTCTXDCBHT hiện nay được quy định cụ thể như
sau (theo Thông tư số 70/2000/TT-BTC ngày 17/7/2000):
•Các văn bản pháp lý (mẫu số 01/QTĐT).
•Báo cáo tổng hợp quyết toán vốn đầu tư hoàn thành (mẫu số
02/QTĐT).
•Báo cáo tình hình thực hiện đầu tư qua các năm (mẫu số
04/QTĐT).
•Số lượng và giá trị tài sản cố định mới tăng (mẫu số 05/QTĐT).
•Số lượng và giá trị tài sản lưu động bàn giao (mẫu số 06/QTĐT).
•Tình hình công nợ (mẫu số 07/QTĐT).
•Bảng đối chiếu số liệu thanh toán vốn đầu tư và nhận xét, đánh
giá, kiến nghị trong quá trình cấp, cho vay, thanh toán (mẫu số
08/QTĐT).

•Thuyết minh báo cáo quyết toán vốn đầu tư (mẫu số 09/QTĐT).
•Báo cáo quyết toán vốn đầu tư hoàn thành (mẫu số 10/QTĐT).
II.Nội dụng kiểm toán báo cáo quyết toán vốn đầu tư công
trình XDCB hoàn thành
1.Mục đích kiểm toán báo cáo quyết toán vốn đầu tư công trình
XDCB hoàn thành
Kiểm toán BCQTVĐTCTXDCBHT là một đặc trưng riêng biệt của
kiểm toán báo cáo tài chính. Kiểm toán BCQTVĐTCTXDCBHT là sự kết
hợp chặt chẽ giữa kiểm toán báo cáo tài chính , kiểm toán tuân thủ và kiểm
toán hoạt động trong cùng một cuộc kiểm toán, trong đó đặc biệt là mối
quan hệ giữa kiểm toán tài chính và kiểm toán tuân thủ. Do đó, mục đích
kiểm toán BCQTVĐTCTXDCBHT được thể hiện trên các khía cạnh sau
đây:
•Xem xét báo cáo quyết toán có phản ánh trung thực hợp lý trên các
khía cạnh trọng yếu hay không. Tính trung thực hợp lý được thể hiện trên
các mặt như tình hình đầu tư, khối lượng, chất lượng của công trình và thời
giá được qui định theo khu vực thi công.
•Xem xét báo cáo quyết toán lập ra có đúng mẫu biểu, đúng qui định
của riêng lĩnh vực XDCB và đúng các nguyên tắc, chuẩn mực kế toán được
chấp nhận rộng rãi hay không.
•Xem xét việc thực hiện quản lý đầu tư và thi công xây dựng có đúng
trình tự và đúng qui định hay không. Đồng thời, xem xét về toàn bộ số vốn
đầu tư hợp lý tính vào công trình, số vốn đầu tư duyệt bỏ, và số vốn đầu tư
tài sản lưu động như thế nào…Để đạt được mục đích trên, ta phải đi sâu vào
từng mục đích cụ thể như sau:
Thứ nhất: Xem xét tính tuân thủ về qui chế quản lý đầu tư xây dựng,
các thủ tục và trình tự thi công công trình, từ khi thi công đến khi hoàn
thành.
Thứ hai: Xem xét sự tuân thủ và tính hợp lý, hợp pháp của các định
mức, dự toán, thiết kế, quá trình cung ứng vật tư, thiết bị…

Thứ ba: Xem xét việc cấp phát vốn và thanh toán vốn có đúng tốc độ,
tiến độ thi công, đúng khối lượng thực tế của công trình theo qui định hay
không.
Thứ tư: Xem xét tính hợp lý của số vốn đầu tư đã cấp, đã sử dụng, đã
thanh toán có phù hợp với tình hình thực tế hay không.
Thứ năm: Xác định giá trì tài sản cố định hình thành qua đầu tư một
cách đúng đắn hợp lý.
Thứ sáu: Xem xét và xác định giá trị tài sản lưu động, chi phí được
duyệt bỏ đúng quy định.
Thông qua các mục đích cụ thể này sẽ đạt được mục đích chung hay độ
tin cậy của báo cáo quyết toán vốn đầu tư khi công trình hoàn thành. Việc
kiểm toán BCQTVĐTCTXDCBHT luôn nổi bật đó là kiểm toán tuân thủ, vì
tất cả quá trình thực hiện đầu tư, quản lý, đều phải tuân theo qui định về
quản lý đầu tư xây dựng cơ bản và các chi phí lại luôn được quản lý chặt chẽ
theo định mức, dự toán hay việc chi tiêu đã được định mức, dự toán hoá ở
mức độ cao. Ngoài các mục đích kiểm toán như trên, riêng đối với kiểm toán
Nhà nước mục đích kiểm toán xuất phát từ các chức năng nhiệm vụ mà nó
còn phải đạt được các mục đích sau đây:
• Phát hiện các hiện tượng gian lận, vi phạm chính sách chế độ, các
hiện tượng tiêu cực để qua đó uốn nắn sai lệch. Kiến nghị với các cơ quan
chức năng để xử lý vi phạm, thu hồi số mất mát về cho Nhà nước.
• Thông qua kiểm toán nhằm đánh giá về trách nhiệm, sự chấp hành và
chất lượng quá trình quản lý thực hiện đầu tư của các bên có liên quan đến
công trình. Qua đó, kiến nghị với các cấp, các ngành, các cơ quan chức năng
để xử lý hạn chế và kiến nghị đề xuất các biện pháp nhằm hoàn thiện về cơ
chế quản lý.
2.Những đặc trưng cơ bản của kiểm toán báo cáo quyết toán vốn đầu
tư công trình xây dựng cơ bản hoàn thành.
Kiểm toán BCQTVĐTCTXDCBHT là một trường hợp kiểm toán báo
cáo tài chính, song nó lại có nhiều điểm khác biệt so với kiểm toán báo cáo

tài chính. Sự khác biệt đó thể hiện trên các điểm như sau:
Một là, kiểm toán BCQTVĐTCTXDCBHT là một trường hợp đặc thù
của kiểm toán báo cáo tài chính.
Đầu tư XDCB là một lĩnh vực có tính đặc thù riêng có, do đặc điểm
của ngành, của sản phẩm, của quá trình đầu tư, quá trình quản lý tạo nên. Do
vậy, hệ thống báo cáo tài chính quy định cho lĩnh vực này cũng có sự khác
biệt với các lĩnh vực khác. Nước ta, hệ thống báo cáo tài chính quy định cho
lĩnh vực đầu tư XDCB bao gồm hệ thống báo cáo vốn đầu tư hàng năm và
hệ thống BCQTVĐTCTXDCBHT. Nội dung và kết cấu của từng báo cáo
trong từng hệ thống báo cáo này có những đặc thù riêng có. Vì vậy, kiểm
toán BCQTVĐTCTXDCBHT là một trường hợp đặc thù của kiểm toán báo
cáo tài chính. Điều này đòi hỏi kiểm toán viên khi thực hiện kiểm toán phải
nắm được hệ thống BCQTVĐTCTXDCBHT mới đạt kết quả.
Hai là, kiểm toán BCQTVĐTCTXDCBHT là một sự kết hợp chặt chẽ
giữa ba loại kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm toán tuân thủ và kiểm toán
hoạt động trong cùng một cuộc kiểm toán.
Trong XDCB, do đặc điểm riêng của lĩnh vực này nên được quy định
một cách chặt chẽ hơn, ngoài những quy định chung, trong lĩnh vực XDCB
còn quy định nghiêm ngặt hơn về trình tự đầu tư XDCB, về quản lý, cấp
phát, thanh quyết toán, chấp hành định mức, dự toán, khối lượng, thiết kế,…
Đặc biệt lại có sự quy định về tiêu chuẩn chất lượng kỹ thuật như vật tư,
thiết bị, lao động, thời gian. Vì vậy, kiểm toán BCQTVĐTCTXDCBHT là
một sự kết hợp chặt chẽ giữa các loại kiểm toán trên.
Ba là, kiểm toán BCQTVĐTCTXDCBT là một trường hợp đặc thù của
kiểm toán báo cáo tài chính song nổi bật lại là kiểm toán tuân thủ.
Trong XDCB khác với các lĩnh vực khác, để tạo ra sản phẩm XDCB
phải qua rất nhiều khâu, nhiều giai đoạn được quy định một cách chặt chẽ:
từ khảo sát, thiết kế, lập luận chứng thi công, cấp phát,…Tất cả mọi khoản
chi tiêu phải đúng định mức, dự toán, đúng mục đích và trình tự cấp phát
thanh toán cũng như đúng khối lượng thực tế. Trong XDCB đặc điểm nổi bật

là mọi khoản chi tiêu đều được định mức, dự toán hoá đến mức cao. Do vậy,
tính tuân thủ trong XDCB là một đặc điểm nổi bật nhằm đảm bảo chất lượng
công trình và tiết kiệm vốn đầu tư. Chính từ đặc điểm này mà Báo cáo 01
trong hệ thống BCQTVĐTCTXDCBHT là “Các văn bản pháp lý liên quan
đến công trình” (Mẫu số 01/QTĐT) còn báo cáo 01 trong hệ thống báo cáo
tài chính doanh nghiệp là “Bảng cân đối kế toán”. Do vậy, khi kiểm toán,
kiểm toán viên phải nắm được những quy định riêng có của lĩnh vực XDCB
và của riêng từng công trình, hạng mục công trình.
Bốn là, kiểm toán BCQTVĐTCTXDCBHT có một đặc trưng riêng là
không có khái niệm “Kiểm toán năm sau”.
Trong XDCB, mỗi sản phẩm có đặc điểm riêng, chúng đều có thiết kế,
phương pháp thi công riêng, vị trí thi công hoàn toàn khác nhau. Chính điều
này không cho phép chu kỳ sản xuất kinh doanh lặp đi lặp lại như hoạt động
sản xuất kinh doanh. Do vậy, kiểm toán đầu tư XDCB luôn là những vấn đề
mới đầy khó khăn và phức tạp, điều này đã đặt ra yêu cầu cho kiểm toán
viên phải luôn vận động, nắm bắt những cái mới và đi sâu nghiên cứu nắm
vững đặc điểm của từng công trình, hạng mục công trình. Mỗi một cuộc
kiểm toán là một hệ thống các vấn đề mới nảy sinh đặt ra đòi hỏi kiểm toán
viên phải đủ khả năng để giải quyết. Kể cả kiểm toán báo cáo kế toán vốn
đầu tư hàng năm nhưng cũng là phần thi công tiếp theo chứ không phải là sự
lặp lại của chu kỳ sản xuất kinh doanh.
Năm là, hiểu về hệ thống kiểm soát nội bộ và quá trình nghiên cứu hệ
thống kiểm soát nội bộ trong kiểm toán BCQTVĐTCTXDCBHT cũng khác
với kiểm toán báo cáo tài chính nói chung.
Sản phẩm đầu tư XDCB được tạo bởi quá trình thi công và sự kiểm soát
nhiều bên có liên quan đến công trình, như cơ quan chủ quản đầu tư, cơ
quan thiết kế, cấp phát, chủ đầu tư,…Vì vậy, hệ thống kiểm soát nội bộ đối
với BCQTVĐTCTXDCBHT bao gồm 2 nội dung:
•Hệ thống kiểm soát nội bộ của bản thân chủ đầu tư.
•Hệ thống kiểm soát nội bộ đối với công trình có liên quan đến nhiều

bên tham gia quản lý thi công công trình như kiểm soát của chủ quản đầu
tư, thiết kế, cấp phát, cho vay…Đây là vấn đề khác biệt của KSNB đối với
BCQTVĐTCTXDCBHT. Còn KSNB đối với báo cáo tài chính chỉ đơn thuần
là kiểm soát của bản thân doanh nghiệp, đơn vị được kiểm toán. Từ đặc
điểm này, yêu cầu kiểm toán viên khi kiểm toán không những phải biết được
hệ thống kiểm soát nội bộ của chính chủ đầu tư mà còn phải biết được quá
trình kiểm soát của nhiều bên liên quan đến công trình mới đáp ứng được
yêu cầu kiểm toán trong lĩnh vực XDCB.
Sáu là, nội dung kiểm toán BCQTVĐTCTXDCBHT cũng khác với nội
dung kiểm toán báo cáo tài chính.
Nội dung kiểm toán báo cáo tài chính chỉ là những nội dung cấu thành
báo cáo tài chính được quy định trong hệ thống báo cáo tài chính, còn nội
dung kiểm toán BCQTVĐTCTXDCBHT ngoài những nội dung kiểm toán
được quy định trong hệ thống BCQTVĐTCTXDCBHT có khác với nội dung
kiểm toán báo cáo tài chính, song một điểm khác biệt cơ bản đầu tiên đó là
kiểm toán việc tuân thủ về quy chế quản lý đầu tư và xây dựng mà trong
kiểm toán báo cáo tài chính không có được. Đồng thời các nội dung kiểm
toán trong kiểm toán báo cáo tài chính có thể phân loại theo hai cách là theo
chu trình và theo khoản mục, nhưng nội dung kiểm toán
BCQTVĐTCTXDCBHT chỉ có một cách phân loại duy nhất là phân loại
theo khoản mục vì chu kỳ sản xuất kinh doanh của XDCB không lặp lại.
Bảy là, việc đánh giá tính trọng yếu trong kiểm toán
BCQTVĐTCTXDCBHT cũng khác với kiểm toán báo cáo tài chính.
XDCB là một lĩnh vực luôn chứa đựng nhiều rủi ro tiềm tàng ở mức độ
cao. Do vậy, việc đánh giá tính trọng yếu cũng thận trọng hơn kiểm toán báo
cáo tài chính. Mặt khác, do đặc thù của XDCB và sản phẩm XDCB, mỗi
công trình, hạng mục công trình luôn có đặc điểm riêng, thi công ở những
lĩnh vực khác nhau. Do vậy, việc đánh giá tính trọng yếu cho từng hạng mục
công trình cũng có sự khác nhau. Như vậy, việc đánh giá tính trọng yếu
trong kiểm toán BCQTVĐTCTXDCBHT không những khác với kiểm toán

báo cáo tài chính mà ngay trong bản thân một công trình, việc đánh giá tính
trọng yếu giữa các hạng mục công trình cũng có sự khác nhau.
Tám là, bằng chứng kiểm toán trong kiểm toán
BCQTVĐTCTXDCBHT cũng có điểm khác biệt so với kiểm toán báo cáo
tài chính.
Trong kiểm toán báo cáo tài chính đặc trưng nổi bật của bằng chứng
kiểm toán là sức thuyết phục. Vì vậy, nhiều khi kiểm toán viên thường dựa
vào các bằng chứng có sức thuyết phục để kết luận nhiều hơn là dựa vào các
bằng chứng có giá trị pháp lý thuần tuý. Nhưng ngược lại, trong kiểm toán
BCQTVĐTCTXDCBHT, một đặc điểm nổi bật của việc chi tiêu là định mức,
dự toán hoá ở mức độ cao và được kiểm soát chặt chẽ bởi nhiều bên có liên
quan đến công trình. Chính những đặc điểm này chi phối đến việc thu thập
bằng chứng trong kiểm toán BCQTVĐTCTXDCBHT của kiểm toán viên đó
là: Càng những bằng chứng đảm bảo sự kiểm soát chặt chẽ của nhiều bên
tham gia quản lý công trình và đúng thiết kế, định mức, dự toán thì sẽ có sức
thuyết phục và độ tin cậy cao hơn.
Chín là, chu kỳ sản xuất kinh doanh trong XDCB không lặp lại. Do
vậy, trong kiểm toán BCQTĐTCTXDCBHT không đề cập đến khái niệm
doanh nghiệp hoạt động liên tục.
3.Nội dung kiểm toán báo cáo quyết toán vốn đầu tư công trình XDCB
hoàn thành
3.1.Kiểm toán báo cáo quyết toán vốn đầu tư công trình
Kiểm toán báo cáo quyết toán vốn đầu tư công trình đây là một loại đặc
thù của kiểm toán báo cáo tài chính. Nếu không tính đến sự lặp đi lặp lại của
chu kỳ thì việc kiểm toán báo cáo quyết toán vốn đầu tư vào công trình
giống như kiểm toán báo cáo tài chính doanh nghiệp. Mặt khác, kiểm toán
báo cáo quyết toán vốn đầu tư vào công trình còn khác ở việc chấp hành và
tuân thủ về định mức, dự toán và khối lượng trong thiết kế kỹ thuật và quá
trình kiểm soát bởi nhiều tổ chức có liên quan. Các điểm giống nhau cơ bản
giữa kiểm toán báo cáo tài chính và kiểm toán báo cáo quyết toán vốn đầu tư

vào công trình là:
Kiểm tra tính trung thực, hợp lý của các khoản chi phí được hạch toán
vào chi phí đầu tư và giá trị công trình hay nói cách khác xác định báo cáo
quyết toán vốn đầu tư được lập ra có phù hợp và phản ánh hợp lý về tình
hình đầu tư, chất lượng, khối lượng công trình và tình hình thời giá được qui
định theo đơn giá khu vực hay không.
•Kiểm tra, xác định báo cáo quyết toán có được lập ra theo đúng các
nguyên tắc, chuẩn mực kế toán quốc tế hoặc quốc gia hay không.
•Kiểm tra, xem xét về tổng số vốn đầu tư đã đầu tư cho công trình, tổng
số vốn đầu tư đã cấp phát, tổng số vốn đầu tư đã thực hiện, tổng số vốn đầu
tư được tính vào giá trị công trình, số vốn đầu tư không tính vào giá trị công
trình mà được tính vào giá trị tài sản lưu động hay được duyệt bỏ. Đồng
thời, việc kiểm tra xác định số vốn đầu tư phải tiến hành theo từng công
trình, từng nguồn vốn, từng hạng mục công trình và từng đối tượng tài sản
cố định kể cả những tài sản cố định bàn giao cho ngành khác sử dụng.
Để đạt được mục tiêu trên của báo cáo quyết toán vốn đầu tư khi công
trình XDCB hoàn thành thì nội dung kiểm toán cụ thể của báo cáo quyết
toán bao gồm:
Thứ nhất: Kiểm toán về nguồn vốn đầu tư
Trong XDCB mỗi công trình có thể được đầu tư bằng nhiều nguồn vốn
khác nhau. Đồng thời mỗi nguồn vốn đầu tư lại có sự khác nhau về yêu cầu
quản lý, vì vậy, kiểm toán nguồn vốn đầu tư phải được tiến hành theo từng

×