Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

Bài giảng Nghệ thuật tạo hình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (31.07 MB, 114 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>GIÁO TRÌNH</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<b>Chương 1. KHÁI QUÁT VỀ NGHỆ THUẬT TẠO HÌNH</b>


<b>1.1.Một số khái niệm cơ bản</b>



<b>1.1.1. Nghệ thuật</b>


Từ điển tiếng Việt(TĐTV) cho rằng “Nghệ thuật là danh từ, có hai nghĩa: “1.
Hình thái ý thức xã hội đặc biệt, dùng hình tượng sinh động, cụ thể và gợi cảm để
<i>phản ánh hiện thực và truyền đạt tư tưởng, tình cảm. Nghệ thuật tạo hình. Xây dựng</i>
<i>hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm văn học. 2 Phương pháp, phương thức giàu</i>
<i>tính sáng tạo. Nghệ thuật lãnh đạo”(84, tr. 654)</i>


Với nghĩa 1, “Nghệ thuật” là thuật ngữ chỉ chung cho các loại hình nghệ
thuật, thuộc hình thái ý thức xã hội (thuộc lĩnh vực tinh thần, thượng tầng kiến trúc,
phân biệt với hình thái vật chất, hạ tầng cơ sở xã hội.). Nghệ thuật “đặc biệt” ở chỗ
“dùng hình tượng sinh động, cụ thể và gợi cảm để phản ánh hiện thực và truyền đạt
tư tưởng, tình cảm”. Đây là đặc trưng của nghệ thuật, phân biệt với các hình thái ý
thức xã hội khác cũng “ phản ánh hiện thực và truyền đạt tư tưởng, tình cảm” nhưng
bằng công thức, triết lý, khẩu hiệu, mệnh lệnh... lạnh lùng, khô khan. Kiến trúc,
Điêu khắc, Hội hoạ, Văn học, Nhiếp ảnh, Sân khấu, Điện ảnh, Âm nhạc, Múa v.v...
đều thuộc về lĩnh vực nghệ thuật, bởi chúng giống nhau ở chỗ “dùng hình tượng
sinh động, cụ thể và gợi cảm để phản ánh hiện thực và truyền đạt tư tưởng, tình
cảm”. Tuy nhiên Kiến trúc, Điêu khắc, Hội hoạ... phản ánh hiện thực và truyền đạt
tư tưởng, tình cảm sinh động, cụ thể và gợi cảm khác nhau, đó chính là đặc trưng
ngơn ngữ của các loại hình nghệ thuật.


<b>1.1.2. Tạo hình</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

khơng phải là sản phẩm tạo hình, bởi lẽ, vật chất ln ln tồn tại ở dạng hình khối
và màu sắc. Tuy nhiên, vật chất là chung cả của thế giới tự nhiên và xã hội, cho cả


loài người và loài vật. Vậy, hoạt động và sản phẩm tạo hình nào thuộc về nghệ thuật
?


<b>1.1.3.Nghệ thuật tạo hình(NTTH)</b>


NTTH là nghệ thuật sáng tạo hình tượng cụ thể, sinh động, gợi cảm bằng
đường nét, màu sắc, hình khối.


Với cách hiểu này, ta phân biệt NTTH với những nghệ thuật khơng phải “tạo
hình” như Âm nhạc, văn, thơ…(khác nhau ngôn ngữ biểu hiện). Đồng thời ta cũng
phân biệt dược những hoạt động tạo hình nhưng khơng thuộc về lĩnh vực nghệ
thuật(chung ngôn ngữ biểu đạt nhưng khác về chủ thể, đối tượng, mục đích, hiệu
quả, bản chất thẩm mỹ…). Ví dụ: động Phong Nha, động Thiên Đường trong quần
thể khu bảo tồn thiên nhiên Phong Nha – Kẻ Bàng, tỉnh Quảng Bình là kỳ quan
thiên nhiên thế giới nhìn từ góc độ cái đep tạo hình: hình thù kỳ thú, sắc màu huyền
ảo, nhưng là của thiên nhiên, chủ thể sáng tạo ra nó là “tạo hóa”… Đèn xanh đèn đỏ


- tín hiệu giao thơng – có chung ngơn ngữ tạo hình, do con người làm ra, nhưng


không xếp vào tác phẩm nghệ thuật tạo hình…


<b>1.1.4. Mỹ thuật (MT)</b>


MT và NTTH là hai tên gọi khác nhau của một ngành, một lĩnh vực nghệ
thuật: nghệ thuật sáng tạo cái đẹp bằng điểm. nét, hình, mảng, khối, màu sắc. Có
nhiều cách định nghĩa khác nhau về MT. Sau đây là một số cách hiểu chúng tôi nêu
ra để cùng tham khảo :


+ <i>TĐTV cho rằng, MT có hai nghĩa: 1.(danh từ) “ Ngành nghệ thuật nghiên cứu</i>



quy luật và phương pháp sáng tạo cái đẹp bằng đường nét, màu sắc, hình khối”. 2.
(tính từ) “ Đẹp, khéo, hợp với thẩm mỹ” (84,tr.609).


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

nét, màu sắc, hình khối. Đường nét, màu sắc, hình khối là ngơn ngữ đặc thù của MT.


+ <i>Giáo trình Mỹ thuật, Dùng cho ngành Giáo dục tiểu học Hệ đào tạo Tại</i>


chức và Từ xa của Nguyễn Quốc Toản cũng cho rằng “có nhiều cách hiểu về mĩ
thuật, mỗi cách diễn giải theo lối riêng” và đã “giới thiệu tóm lược” bốn cách hiểu –
bốn cách diễn giải “để tham khảo”:


1. Diễn giải theo cách diễn tả


Mĩ thuật là một loại hình nghệ thuật tạo nên các tác phẩm trên mặt phẳng (tranh...)
bằng đường nét, hình mảng, màu sắc, đậm nhạt; trong khơng gian (tượng...) bằng
hình khối, sáng tối, đậm nhạt. Mĩ thuật sử dụng nhiều chất liệu khác nhau như: giấy,
chì, các loại màu, vải, sợi (hội hoạ, trang trí); đất, thạch cao, đá, gang, đồng, xi
măng...(điêu khắc), cao su, đồng, nhơm...(tranh khắc, tranh gị). Có thể nói vắn tắt:
Mĩ thuật là nghệ thuật của mặt phẳng, của không gian.


2. Diễn giải theo cấu trúc nội dung


Mĩ thuật là một loại hình nghệ thuật gồm có các ngành cơ bản như: hội hoạ,
điêu khắc, kiến trúc, mĩ thuật ứng dụng.


3. Diễn giải theo chức năng, tác dụng, đặc điểm


Mĩ thuật là nghệ thuật của con mắt – nghệ thuật của thị giác (nhìn, nhận ra cái
đẹp bằng con mắt). Cũng như nói âm nhạc là nghệ thuật của tai – nghệ thuật của
thính giác (nghe thấy cái hay, cái đẹp bằng tai).



4. Diễn giải theo ngữ nghĩa


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

+ <i>Mĩ thuật và phương pháp dạy học, tập một, Giáo trình đào tạo giáo viên tiểu</i>


học CĐSP và SP12+2 của Trịnh Thiệp và Ưng Thị Châu cho rằng: “ Mĩ thuật là một
nghệ thuật tạo ra cái đẹp nhằm phục vụ nhu cầu vật chất và tinh thần của con người
(mĩ là đẹp, thuật là cách thức, phương pháp). Những gì trong giới tự nhiên và trong
đời sống xã hội đem lại sự thích thú, sự khối cảm đều được coi là cái đẹp như :
cảnh đẹp chùa Tây Phương, chùa Hương Tích, một cơng trình kiến trúc đẹp, một tác
phẩm hội hoạ, điêu khắc đẹp v.v...”(52,tr.5)


Cách nêu khái niệm MT trên đây, phán đoán đầu (“Mĩ thuật là một nghệ thuật tạo ra
cái đẹp nhằm phục vụ nhu cầu vật chất và tinh thần của con người”) là đúng nhưng
chưa đủ, bởi vì nó chung cho mọi nghệ thuật. Còn “(mĩ là đẹp, thuật là cách thức,
phương pháp)”, và “Những gì trong giới tự nhiên và trong đời sống xã hội đem lại
sự thích thú, sự khối cảm đều được coi là cái đẹp như : cảnh đẹp chùa Tây Phương,
chùa Hương Tích, một cơng trình kiến trúc đẹp, một tác phẩm hội hoạ, điêu khắc
đẹp v.v” với hàm ý giải thích trực tiếp, khẳng định tính xác thực của phán đoán trên
thiết nghĩ cũng chưa thuyết phục. Bởi lẽ, “mỹ là đẹp”- mà “đẹp” còn đồng nghĩa với
“tốt”-“thiện” là cũng rất chung; còn như “trong giới tự nhiên và trong đời sống xã
hội” thì lại có vơ số điều “ đem lại sự thích thú, sự khối cảm” cho chúng ta chứ đâu
chỉ dừng ở “cảnh đẹp chùa Tây Phương, chùa Hương Tích, một cơng trình kiến trúc
đẹp, một tác phẩm hội hoạ, điêu khắc đẹp v.v”, ví dụ : một câu thơ hay, một giọng
hị dịu ngọt, một điệu múa cổ, một vở kịch hiện đại v.v... Nếu như vậy, tất cả đều là
MT thì khơng cịn ranh giới giữa các loại hình nghệ thuật hay sao ?


Dẫu biết rằng, mọi định nghĩa, mọi sự khái quát, mọi cách diễn giải chỉ mang
tính tương đối trong thao tác của tư duy logic. Mỗi người hiểu khái niệm mỹ thuật
theo cách riêng, trên cơ sở vốn sống, vốn hiểu biết của mình. Nhưng dù diễn đạt thế


nào thì cũng cần phải đưa ra được hai ý :1.MT mang đặc điểm của nghệ thuật nói
chung, 2. MT có đặc trưng của mình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<i>- MT là nghệ thuật phản ánh hiện thực cuộc sống bằng hình tượng sinh động,</i>
<i>cụ thể, gợi cảm, thơng qua điểm, nét, hình, mảng, khối, màu sắc.</i>


<i>- MT là nghệ thuật sáng tạo cái đẹp bằng điểm, nét, hình, mảng, khối và màu </i>
<i>sắc.</i>


- <i>MT là Nghệ thuật tạo hình</i>


<b>1.1.5. Loại hình NTTH</b>


- <i>TĐTV định nghĩa loại hình là “Tập hợp sự vật, hiện tượng cùng có chung </i>


những đặc trưng cơ bản nào đó” (84, tr 553).


<i>Từ định nghĩa này, có thể suy ra: loại hình NTTH là tập hợp các loại NTTH cùng có</i>
chung những đặc trưng cơ bản nào đó.


Lâu nay NTTH được phân thành các loại hình (đồng nghĩa với các ngành) sau: a.
Điêu khắc: “Loại hình nghệ thuật gợi tả hoặc thể hiện sự vật trong không
gian bằng cách sử dụng các chất liệu như : đất, đá, gỗ, kim loại, v.v., tạo thành
những hình nhất định” (84, tr310)


b. Kiến trúc: “Nghệ thuật thiết kế, trang trí nhà cửa” (84, tr 505).


c. Hội hoạ: “Nghệ thuật dùng đường nét, màu sắc để phản ánh thế giối hình
thể lên mặt phẳng” (84, tr 444).



d. Đồ hoạ: “Nghệ thuật tạo hình nên những tác phẩm có thể làm nhiều phiên
bản” (84, tr 322).


<b>1.2.Ngơn ngữ tạo hình</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

nói cơng cụ, phương tiện truyền tải nội dung tư tưởng, tình cảm, cảm xúc của người
nghệ sĩ trong các lĩnh vực văn học nghệ thuật ấy.


<i>Ngôn ngữ tạo hình là cơng cụ, phương tiện xây dựng hình tượng thẩm mỹ thị</i>
<i>giác, phản ánh cuộc sống, truyền tải tư tưởng, tình cảm, cảm xúc của người sáng</i>
<i><b>tác. Cơng cụ, phương tiện đó là: điểm, nét, hình, mảng, khối, màu sắc, bố cục.</b></i>


Cũng như ngơn ngữ âm thanh của lồi người, ngơn ngữ tạo hình gồm một hệ
thống các đơn vị, từ đơn vị bậc thấp đến bậc cao. Các đơn vị này vừa cụ thể vừa
khái quát, vừa có giá trị tự thân vừa có giá trị trong hệ thống, và chủ yếu là giá trị
trong hệ thống (giá trị kết cấu, cấu trúc, bố cục)... Có thể biểu diễn cấp độ, quan hệ
giữa các đơn vị đó như sau:


Điểm Nét Hình Mảng Khối
Màu


Bố cục


<b>1.2.1. Điểm</b>


Điểm là đơn vị nhỏ nhất trong hệ thống các đơn vị ngôn ngữ tạo hình. Điểm
đồng nghĩa với "chấm". Điểm có vai trị tạo nét, tạo hình, mảng, khối. Điểm có giá
trị tạo hình. Ý nghĩa phản ánh, tạo hình của điểm chỉ nảy sinh trong cấu trúc, bố cục
hình tượng thẩm mỹ, cũng có nghĩa là giá trị của điểm nảy sinh trong quan hệ giữa
điểm với điểm (to/nhỏ, đậm/nhạt, dày/thưa...) và điểm với nét, hình, khối và màu


sắc.


<b>1.2.2. Nét</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

nhau. Dựa vào cấu tạo, có hai loại nét cơ bản là nét thẳng và nét cong (nét không
thẳng).


- Nét thẳng:


Nét thẳng là nét mà các điểm cấu thành nó trong q trình tịnh tiến, từ khởi điểm
(A) đến chung điểm (B) ln nằm trên một đường thẳng.


Có thể phân nét thẳng làm nhiều nhóm loại, tùy theo tiêu chí khác nhau:


- Nét thẳng đứng, nét thẳng xiên, nét thẳng ngang


- Nét thẳng thanh, nét thẳng đậm, nét thẳng nhạt...


- Nét thẳng đen, nét thẳng đỏ, nét thẳng lam, nét thẳng lục...
- Nét thẳng ngắn, nét thẳng dài...


A


Nét thẳng tự nó thẳng, cứng, gợi cảm giác thẳng thắn, cứng rắn, dứt khốt,
rạch rịi...


- Nét cong:


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

- Nét cong đứng, nét cong xiên, nét cong ngang



- Nét cong thanh, nét cong đậm, nét cong nhạt...


- Nét cong đen, nét cong đỏ, nét cong lam, nét cong lục...
- Nét cong ngắn, nét cong dài...


- Nét cong cứng, nét cong mềm.


Nét khơng thẳng tự nó cong, gảy khúc..., gợi cảm giác hoặc mềm mại, uyển
chuyển nhẹ nhàng, hoặc gập ghềnh, khúc khuỷu...


<b>1.2.3. Hình</b>


Hình là là kết quả sự khép kín của nét, khi điểm đầu và điểm cuối của nét gặp
nhau. Đó là chu vi, đường viền bao quanh vật thể.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

Hình vng gợi cảm giác vững chải, chắc chắn trên mặt bằng, hình trịn gợi cảm
giác động, dịch chuyển nhưng ổn định bởi sự hướng tâm...


Các biến thể của vng trịn là hình chữ nhật, hình tam giác, hình tứ giác, hình
bầu dục...Hình của sự vật, đối tượng trong thực tế vô cùng phong phú, đa dạng
nhưng chung quy lại đều tồn tại ở dạng các hình cơ bản này.


<b>1.2.4. Mảng</b>


Mảng là diện tích, bề mặt vật thể. Mảng cũng là kết quả cấu thành của các điểm
trên bề mặt vật thể.


Tơ màu lên hình ta có mảng màu. Khơng mảng màu nào mà khơng có hình. Có
nghĩa là mọi mảng màu đều có diện tích, đều có chu vi.



</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

<b>1.2.5. Khối: . Khối trước tiên là nói về vật thể chiếm chỗ trong không gian ba</b>


chiều. Mọi sự vật tồn tại trong tự nhiên và xã hội đều tồn tại ở dạng khối.


Mỗi một sự vật, ta vừa nhận biết khối tổng thể, vừa nhận biết khối của từng bộ
phận. Sông núi, mây trời, hoa lá, cỏ cây, nhà cửa, đồ đạc,...tất cả đều tồn tại ở dạng
khối, và ta có thể quy chúng về khối cơ bản.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

Khối lập phương gợi cảm giác vững chải khi một mặt tiếp đất, khối cầu gợi
cảm giác động nhưng ổn định. Các khối hình học khác cũng đều gợi những cảm giác
nhất định trên cơ sở thế dáng, chiều hướng, điểm, diện tiếp xúc, trong trường liên
tưởng, kinh nghiệm nào đó.


<b>1.2.5. Màu</b>


Cùng với đường nét, hình khối là màu của sự vật.


Màu là: “Thuộc tính vật thể hiện ra nhờ tác động của ánh sáng và nhận biết
<i>được bằng mắt, cùng với hình dáng giúp phân biệt vật này với vật khác.” (84,</i>
tr.592). Mọi sự vật tồn tại đều ở dạng khối và có màu. Trong thực tế, chúng ta nhận
biết, phân biệt được mọi sự vật là nhờ xúc giác, thị giác. Thị giác (mắt nhìn) bình
thường, phân biệt màu của sự vật phải kèm theo điều kiện có ánh sáng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

Màu khi là yếu tố (đơn vị, bộ phận) trong hệ thống các yếu tố ngơn ngữ tạo
hình là màu chất liệu. Màu chất liệu là khoáng chất tự nhiên có thuộc tính lý hóa về
màu, được chế tác để sử dụng trong cuộc sống và sáng tác mỹ thuật.


Sau đây là một số yêu cầu kiến thức và kỹ năng cơ bản về màu chát liệu.
- Màu gốc:



Màu gốc là màu khoáng chất tự nhiên đầu tiên, từ đó ta có thể điều chế thành
các màu khác.


Màu gốc gồm: Đỏ - Vàng – Lam


Theo cách pha trộn từng cặp màu gốc với tỉ lệ 1/1, ta được 3 màu mới :
- Đỏ + Vàng = Cam


- Đỏ + lam = Tím
- Vàng + Lam = Lục


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

có Cam đỏ, Đỏ cam; màu Cam trộn thêm màu Vàng, tùy tỉ lệ mà ta có Cam vàng,
Vàng cam... Như vậy, từ hai màu gốc, ta có thể tạo ra nhiều màu mới cùng thuộc
tính gần gũi.


- Màu bổ túc:


Màu bổ túc là màu tăng cường độ cho nhau. Một màu gốc và một màu mới
không cùng thuộc tính được xem là một cặp màu bổ túc. Có 3 cặp màu bổ túc:


- Đỏ - Lục
- Vàng - Tím
- Lam - Cam


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

Cịn khi trộn lẫn các màu bổ túc với nhau thì chúng phá nhau, tạo thành hợp
chất màu nâu, xám.


- Màu trung tính:


Màu trung tính là màu có tính chất trung hịa.



Hai màu Đen và Trằng được xem là màu trung tính. Đen và Trắng pha trộn
được với tất cả các màu, làm thay đổi sắc độ (đen đậm thêm hoặc trắng nhạt đi) chứ
khơng thay đổi thuộc tính bản chất ban đầu của các màu được trộn.


- Màu nóng/ lạnh:


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16></div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

<b>1.3. Một số họa sĩ tiêu biểu của Việt nam</b>



<b>1.3.1. Họa sĩ Trần Văn Cẩn (1910 – 1994)</b>



Trần Văn Cẩn sinh ngày 13/8/1910 tại Kiến An, Hải Phịng, mất năm 1994 tại
Hà Nội. Ơng học khóa VI (1931-1936)Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương.
<i>Trần Văn Cẩn là một trong “bộ tứ” danh họa hàng đầu của nền mỹ thuật hiện đại</i>
<i>Việt Nam: “Nhất Trí, nhì Vân, tam Lân, tứ Cẩn” (Nguyễn Gia Trí, Tơ Ngọc Vân,</i>
Nguyễn Tường Lân, Trần Văn Cẩn).


Cách mạng tháng Tám thành công, Trần Văn Cẩn cùng nhiều họa sĩ khác
<i>dựng hàng chục tranh cổ động quanh hồ Hoàn Kiếm. Bức "Nước Việt Nam của</i>
<i>người Việt Nam" của Trần Văn Cẩn đã được căng trên toà nhà Địa ốc ngân hàng</i>
(nay là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam).


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

<i>Hội Văn hóa Cứu quốc mua, cùng với bức "Bác Hồ làm việc ở Bắc bộ phủ" của Tô</i>
<i>Ngọc Vân và "Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh" của Nguyễn Đỗ Cung.</i>


Tháng 7/1948, tại Đại hội Văn nghệ toàn quốc, Trần Văn Cẩn được bầu vào
Ban thường vụ Hội Văn nghệ Việt Nam.


Tháng 6/1954, Trần Văn Cẩn đảm nhiệm Hiệu trưởng trường Mỹ thuật Việt
Nam ( thay hoạ sĩ Tô Ngọc Vân đã mất 1954), và giữ cương vị này trong 15 năm


(1954 -1969). Với những đóng góp to lớn, Trần Văn Cẩn đã được trao nhiều huân
chương cao quý, trong đó có Hn chương Lao động hạng nhất. Ơng được truy tặng
Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I về văn học nghệ thuật (1996).


Năm 2010, một con phố thuộc khu đơ thị Mỹ Đình, huyện Từ Liêm, Hà Nội
được đặt tên Trần Văn Cẩn


.


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19></div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

Nguyễn Phan Chánh sinh ngày 21 tháng 7 năm 1892 tại thôn Tiền Bạt, xã
Trung Tiết, huyện Thạch Hà nay là phường Tân Giang, TP Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh.
Năm 1922 ông tốt nghiệp Trường Cao đẳng Sư phạm Đông Ba ở lại Huế dạy học.
Nguyễn Phan Chánh là sinh viên khóa đầu tiên của Trường Cao đẳng Mỹ thuật
Đơng Dương (1925-1930). Năm 1928, ông bắt đầu sáng tác các tranh sơn dầu: "Mẹ
bầy cho con đan len", "Hai vợ chồng người nông dân trục lúa",và cũng năm nay ông
bắt đầu học vẽ trên lụa Vân Nam và đã thành công.


Năm 1931, Nguyễn Phan Chánh sáng tác tranh lụa "Chơi ô ăn quan" cùng
một số họa phẩm khác như "Cô gái rửa rau", "Em bé cho chim ăn", "Lên đồng".
Cũng năm này tại triển lãm Paris, Pháp một số tranh lụa của Nguyễn Phan Chánh đã
được Giám đốc Victor Tardieu mang về Pháp giới thiệu. Lần đầu tiên công chúng
Pháp biết tranh lụa Việt Nam qua bút pháp Nguyễn Phan Chánh. Họa báo
L'Illustration xuất bản ở Paris số Noel 1932 đã giới thiệu 4 bức tranh này của hoạ sĩ.
Một số tranh lụa của Nguyễn Phan Chánh đã được trưng bày ở Milan (Ý) năm 1934,
ở San Francisco (Mỹ) năm 1937, ở Tokyo (Nhật Bản) năm 1940. Sau cuộc triển lãm


ở Paris, hoạ sĩ Nguyễn Phan Chánh được coi là người đặt nền tảng cho tranh lụa


hiện đại Việt Nam.



</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

Sau Cách mạng tháng 8, Nguyễn Phan Chánh là Ủy viên Thường vụ Hội Văn
hóa Cứu quốc của tỉnh. Trong thời gian này ông đã vẽ nhiều chân dung lãnh tụ và
chiến sĩ cộng sản như: Nguyễn Ái Quốc, Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai,
Trần Phú. Trong chín năm tham gia kháng chiến, họa sĩ đã vẽ tranh tuyên truyền cổ
động: "Em bé tẩm dầu", (1946), "Phá kho bom giặc" (1947), "Lội suối", (1949).


Năm 1955, Nguyễn Phan Chánh trở về Hà Nội, làm giảng viên hội họa
Trường Đại học Mỹ thuật trong vài năm. Năm 1957, ông được bầu vào Ban Chấp
hành Hội Mỹ thuật Việt Nam khoá I. Năm 1962, ông là Đại biểu Đại hội liên hoan A
nh hùng và Chiến sĩ thi đua toàn quốc lần thứ III.


Nguyễn Phan Chánh sáng tác tác phẩm đầu tiên về đề tài kháng chiến chống Mỹ,
"Sau giờ trực chiến" (1967), tiếp đó là "Trăng tỏ" (lụa, 1968), "Chiều về tắm cho
con" (1969), "Trăng lu" (lụa, 1970). Trong những ngày máy bay Mỹ ném bom Hà
Nội, phòng tranh mừng hoạ sĩ 80 tuổi vẫn được mở tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt
Nam, sau đó bày tại 10 Nguyễn Cảnh Chân, Hà Nội. Năm 1973, Nguyễn Phan
Chánh sáng tác những tác phẩm cuối cùng về đề tài tắm: "Tiên Dung tắm", "Tiên
Dung và Chử Đồng Tử", "Lội suối" và bức sau cùng là "Kiều tắm". Năm 1974, ông
dự triển lãm tranh tượng về đề tài lực lượng vũ trang với tác phẩm "Sau giờ trực
chiến" (lụa).


Tháng 8 và tháng 9 năm 1982, mừng thọ hoạ sĩ 90 tuổi, Bộ Văn hoá Việt
Nam cùng Bộ Văn hoá Tiệp Khắc, Bộ Văn hoá Hungary tổ chức triển lãm 47 tác
phẩm của các thời kỳ sáng tác của Nguyễn Phan Chánh tại Praha, Bratislava,
Budapest, Bucharest. Tháng 7 năm 1983, phòng tranh Nguyễn Phan Chánh được
trưng bày tại Viện Bảo tàng Phương Đông ở Moskva.


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

Với những thành tựu trong sự nghiệp sáng tác, Nguyễn Phan Chánh được mời
tham gia giảng dạy Mỹ thuật tại một số trường học, trong đó có Trường Bưởi và
Trường Đại học Mỹ thuật Hà Nội (1955). Ơng đã góp phần đào tạo nhiều thế hệ họa


sĩ Việt Nam sau này.


Suốt cuộc đời làm nghệ thuật, Nguyễn Phan Chánh đã để lại một sự nghiệp
đồ sộ với số lượng ước khoảng trên 170 tác phẩm. Ông là người đang giữ kỷ lục về
số tác phẩm được trưng bày tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam.


Ông được Nhà nước Việt Nam trao tặng Huân chương Lao động hạng 3,
Huân chương Lao động hạng nhất, Huân chương Độc lập hạng nhất. Ông được truy
tặng giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I năm 1996.


Một số tranh lụa của Nguyễn Phan Chánh:


</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

<i>Bữa cơm vụ mùa thắng lợi</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

<i>Rửa rau cầu ao, 1931.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

<b>1.3.3. Họa sĩ Nguyễn Tư Nghiêm (1922)</b>



Nguyễn Tư Nghiêm sinh năm 1922 tại xã Nam Trung, huyện Nam Đàn, tỉnh
Nghệ An. Cha ơng là cụ Phó bảng Nguyễn Tư Tái, đỗ cùng khoa thi với cụ Nguyễn
Sinh Sắc. Ông học khóa XV Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đơng Dương (1941
-1946). Lúc đang học năm thứ 3, ông đã gây chú ý của giới hội hoạ với bức tranh
<i>sơn dầu Người gác Văn Miếu giành được giải nhất tại Salon Unique năm 1944. Ông</i>
là một họa sĩ vẽ tranh sơn mài, sơn dầu và bột màu nổi tiếng. Ông cũng được xếp
<i>vào một trong bộ tứ “Phái - Sáng - Liên -- Nghiêm”(Bùi Xuân Phái, Nguyễn Sáng,</i>
<i>Dương Bích Liên, Nguyễn Tư Nghiêm).</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

Ông được Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I về văn học nghệ thuật. (1996)
Một số tác phẩm tiêu biểu:



- Người gác Văn Miếu (giải nhất Salon Unique năm 1944).
<i>- Cổng làng Mộng Phụ.</i>


<i>- Đánh cờ dưới bóng tre.</i>
<i>- Trạm gác (1948).</i>


<i>- Con nghé (1957)</i>


<i>- Giao thừa bên Hồ Gươm (1957)</i>


<i>- Nông dân đấu tranh chống thuế (1960).</i>
<i>- Giao thừa bên Hồ Gươm.</i>


<i>- Điệu múa cổ</i>
<i>- Thánh Gióng</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

<i>Thánh Gióng (sơn mài, 100x120cm)</i>


<i>Con nghé quả thực - Sơn mài</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(28)</span><div class='page_container' data-page=28>

<i>Điệu múa cổ, 1959, sơn dầu 62cm x 83cm</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(29)</span><div class='page_container' data-page=29>

<i>Giao thừa bên Hồ Gươm 1957</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(30)</span><div class='page_container' data-page=30></div>
<span class='text_page_counter'>(31)</span><div class='page_container' data-page=31>

<b>1.3.4. Họa sĩ Bùi Xuân Phái (1920 – 1988)</b>



Bùi Xuân Phái sinh năm 1920, mất năm 1988 tại Hà Nội. Ông tốt nghiệp
khoa Hội họa trường Cao đẳng Mỹ thuật Đơng Dương khố 1941 – 1946, tham gia
kháng chiến, đồng thời tham dự nhiều triển lãm chung với các họa sĩ khác. Năm
1952 ông về Hà nội, sống và sáng tác tại nhà (số 87 Phố Thuốc Bắc) cho đến khi


mất. Từ năm 1956 đến năm 1957, Bùi Xuân Phái giảng dạy tại Trường Mỹ thuật Hà
Nội, khi xảy ra phong trào Nhân văn Giai phẩm, họa sĩ phải đi lao động, học tập
trong một xưởng mộc tại Nam Định và ban giám hiệu nhà trường đã đề nghị ông
viết đơn xin ngưng giảng dậy tại trường Mỹ thuật.


</div>
<span class='text_page_counter'>(32)</span><div class='page_container' data-page=32>

…Ngồi phố cổ, ơng cịn vẽ các mảng đề tài khác, như: chèo, chân dung,
nông thôn, khỏa thân, tĩnh vật... rất thành công. Nhiều tranh của Bùi Xuân Phái đã
được giải thưởng trong các cuộc triển lãm toàn quốc và thủ đơ. Ơng vẽ trên vải,
giấy, bảng gỗ, thậm chí cả trên giấy báo khi khơng có đủ ngun liệu. Ông dùng
nhiều phương tiện hội họa khác nhau như sơn dầu, màu nước, phấn mầu, chì than,
bút chì... Các tác phẩm của ông biểu hiện sâu xa linh hồn người Việt, tính cách nhân
bản và lịng u chuộng tự do, óc hài hước, đậm nét bi ai và khốn khổ. Ơng đă góp
phần rất lớn vào lĩnh vực minh họa báo chí và trình bày bìa sách, được trao tặng giải
thưởng quốc tế (Lép-dích) về trình bày cuốn sách “Hề chèo” (1982).


Ông giành được Giải thưởng mỹ thuật tại các triển lãm:


- Giải thưởng triển lãm Mỹ thuật toàn quốc năm 1946


- Giải thưởng triển lãm Mỹ thuật toàn quốc năm 1980
- Giải thưởng đồ họa Leipzig (Đức)


- Giải thưởng Mỹ thuật Thủ đô các năm 1969, 1981, 1983, 1984
Năm 1996, ơng được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh.


Năm 1997, ơng được tặng Huy chương Vì sự nghiệp Mỹ thuật Việt Nam
Một số tác phẩm chính c ủa ông:


- <i>Phố cổ Hà Nội - Sơn dầu 1972</i>
- <i>Hà Nội khán chiến - Sơn dầu 1966</i>


- <i>Xe bò trong phố cổ - Sơn dầu 1972</i>
- <i>Phố vắng - Sơn dầu 1981</i>


- <i>Hóa trang sân khấu chèo - Sơn dầu 1968</i>
- <i>Sân khấu chèo - Sơn dầu 1968</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(33)</span><div class='page_container' data-page=33></div>
<span class='text_page_counter'>(34)</span><div class='page_container' data-page=34>

Tranh màu bột


</div>
<span class='text_page_counter'>(35)</span><div class='page_container' data-page=35>

<b>1.3.5. Họa sĩ Nguyễn Sáng (1923 – 1988)</b>



Nguyễn Sáng Sinh năm 1923 tại Làng Điều Hoà, tỉnh Mỹ Tho (nay thuộc TP
Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang). Năm 1938, ông thi đỗ vào trường Cao đẳng Mỹ thuật
Đông Dương.


Tháng 8-1945, ông tham gia cách mạng ở Hà Nội. Cuối tháng 12-1946, ông
lên chiến khu Việt Bắc, dùng nét vẽ của mình, phục vụ cuộc kháng chiến của dân
tộc. Tranh của ông gồm nhiều thể loại, ở thể loại nào ông cũng đều thành cơng. Về
<i>thể loại chiến tranh, ơng có các tác phẩm Giặc đốt làng tôi, Kết nạp đảng ở Điện</i>
<i>Biên Phủ, Hành quân đêm mưa, Bộ đội nghĩ trưa trên đồi, Thành đồng Tổ quốc. Về</i>
<i>thể loại tranh chân dung, ông có hai tác phẩm nổi tiếng là Tự hoạ và Khơng gian.</i>
Ơng là bậc thầy về mơ tả, làm nổi bật cả tính cách lẫn đặc điểm của nhân vật.


</div>
<span class='text_page_counter'>(36)</span><div class='page_container' data-page=36>

<i>minh), cảnh núi rừng thâm u mà hùng vĩ (Pắc Bó), cảnh nơng thơn bình dị, hiền hồ</i>
<i>(Thiếu nữ trong vườn chuối), cảnh những trò chơi dân gian (Chọi trâu, Đấu vật)</i>
v.v…


Về mặt nghệ thuật, ông đã làm cuộc cánh tân đáng kể trong lĩnh vực sơn dầu
và nhất sơn mài. Đồng thời, ông cũng khai thác thành công phong cách nghệ thuật
hội hoạ hiện đại Châu Âu, nhưng vẫn không xa rời nghệ thuật dân gian và cổ truyền
Việt Nam. Nghệt thuật của ông là sự kết hợp hài hồ giữa tính hiện đại và tinh hoa


của dân tộc. Cùng với Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Tư Nghiêm, ông là cây đại thụ của
sơn mài Việt Nam. Nếu như Nguyễn Gia Trí đưa sơn mài đến đỉnh cao của những
cảnh thần tiên, thì Nguyễn Sáng đẩy sơn mài đến đỉnh cao với tầng lớp đời thường,
chiến tranh, cách mạng, những xung đột của cuộc sống hiện tại. Ông bổ sung vào
sơn mài bảng màu vàng, xanh, diệp lục với cách diễn tả phong phú dường như vô
tận. Những tác phẩm thành công nhất của Nguyễn Sáng nằm ở sơn mài và đấy là
đóng góp lớn nhất của Nguyễn Sáng cho hội hoạ cả về chất liệu và danh tiếng. Các
tác phẩm của Nguyễn Sáng có tầm cỡ về kỹ năng, mang rõ những thông điệp lớn về
thân phận con người và tiềm ẩn một tài năng lớn của sáng tạo hiện đại cho nền mỹ
thuật Việt Nam. Giai đoạn sung sức nhất trong sự nghiệp sáng tạo nghệ thuật của
Nguyễn Sáng vào thập niên 70.


</div>
<span class='text_page_counter'>(37)</span><div class='page_container' data-page=37>

Một số tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Sáng:


<i>Giặc đốt làng tôi</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(38)</span><div class='page_container' data-page=38>

<i>Cô gái và hoa sen</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(39)</span><div class='page_container' data-page=39>

<b>1.3.6. Họa sĩ Nguyễn Gia Trí (1908 - 1993)</b>



Nguyễn Gia Trí q ở huyện Chương Mỹ, Hà Nội. Ơng là hoạ sĩ, nhà đồ hoạ,
biếm hoạ Việt Nam, một trong những hoạ sĩ hàng đầu có những đóng góp cho
những bước khởi nguyên và sự phát triển của nền mỹ thuật hiện đại Việt Nam thế kỉ


20. Ông cùng với Tô Ngọc Vân, Nguyễn Tường Lân, Trần Văn Cẩn là bốn cây đại


</div>
<span class='text_page_counter'>(40)</span><div class='page_container' data-page=40>

tính chất dân tộc. Những tác phẩm của ơng có thể tìm thấy trong viện Bảo tàng Mỹ
thuật Việt Nam tại Hà Nội và viện Bảo tàng Mỹ thuật tại Sài Gòn.


Những bức tranh đầu tiên mang nhiều dấu ấn của chủ nghĩa hiện thực và ấn


<i>tượng Châu Âu (Hồng hơn trên sơng, Phong cảnh Móng Cái…).</i>


Vào thập niên 40 thế kỉ 20, khi chuyển sang sáng tác chuyên về chất liệu sơn
mài, đã tạo ra được một phong cách riêng. Chủ đề quen thuộc là những thiếu nữ
duyên dáng, nhàn tản trong khung cảnh thiên nhiên thơ mộng. Với chất son, sơn
than, vàng, bạc, vỏ trứng, sơn cánh gián, Nguyễn Gia Trí đã tạo cho tranh sơn mài
một vẻ đẹp lộng lẫy, một chiều sâu bí ẩn, đưa kĩ thuật sơn mài lên đỉnh cao, khẳng
<i>định tầm quan trọng của chất liệu hội hoạ này trong nền mĩ thuật Việt Nam: Đình</i>
<i>làng vào đám (1939), Thiếu nữ bên cây phù dung (1944).</i>


Những năm 1960 - 1970, nghệ thuật của ơng có xu hướng thiên sang trừu
tượng. Tuy vậy, cuối đời ông lại trở về với thế giới lãng mạn đầy mộng mơ của
<i>những năm 40: bức tranh Bắc, Trung, Nam.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(41)</span><div class='page_container' data-page=41>

Nguyễn Gia Trí cịn là một nhà biếm hoạ sắc sảo, bút danh Raitơ (Right) với những
tranh châm biếm chính quyền thực dân Pháp và đám quan lại phong kiến tay sai trên
<i>báo Phong hố, báo Ngày nay. Ơng là nhà đồ hoạ nổi tiếng với những tranh khắc gỗ</i>
<i>màu mang đậm màu sắc dân gian: Ai mua rươi ra mua, Kẻ khó khơng lo ba ngày</i>
<i>Tết …và những minh hoạ sách báo phóng khống đầy chất hiện thực.</i>


…Các tác phẩm của họa sĩ Nguyễn Gia Trí đã được chỉ định là Bảo vật Quốc
Gia. Vì thế, những tác phẩm của ông đã không được phép rời khỏi Việt Nam.


Nguyễn Gia Trí từ trần lúc 22 giờ 30 phút ngày 20/6/1993 tại Sài Gòn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(42)</span><div class='page_container' data-page=42></div>
<span class='text_page_counter'>(43)</span><div class='page_container' data-page=43>

<b>1.3.7. Họa sĩ Tô Ngọc Vân (1906-1954)</b>



Tô Ngọc Vân sinh ngày 15 tháng 12 - 1906 tại làng Xuân Cầu, huyện Văn
Giang, Hưng Yên, nhưng lớn lên tại Hà Nội.



Ông tốt nghiệp trường Cao đẳng Mỹ thuật Đơng Dương (khóa 2 năm 1926
- 1931). Sau khi ra trường, Tô Ngọc Vân đã có tác phẩm xuất sắc, được giải thưởng
cao ở Pháp. Ông đi vẽ nhiều nơi ở Phnom Penh, Băng Cốc, Huế... Ơng hợp tác với
<i>các báo Phong Hóa và Ngày Nay của Nhất Linh, báo Thanh Nghị... Từ 1935 đến</i>
1939 ông dạy học ở trường trung học Phnom Penh, sau đó ơng về dạy ở Cao đẳng
Mỹ thuật Đơng Dương tới 1945. Thời gian đó ơng vừa giảng dạy vừa sáng tác.


Sau cách mạng Tháng Tám, Tô Ngọc Vân tham gia kháng chiến chống
Pháp. Năm 1950 ông phụ trách Trường Mỹ thuật Việt Bắc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(44)</span><div class='page_container' data-page=44>

Tô Ngọc Vân cũng là một trong số rất ít hoạ sĩ Việt Nam đã sớm vẽ tem ngay
<i>từ thời Pháp thuộc (Postes Indochine). Mẫu tem Apsara được ông thiết kế từ nguồn</i>
tư liệu của những chuyến đi vẽ, sáng tác ở khu đền Angkor Wat, Angkor Thom của
Campuchia. Hình tượng chính của con tem là nữ thần Apsara, một trong hàng ngàn
tượng vũ nữ điêu khắc nổi trên những vách đền đài của nền văn hố cổ Khmer. Tem
<i>Apsara của hoạ sĩ Tơ Ngọc Vân là mẫu tem thứ 23 của Bưu điện Đông Dương kể từ</i>
khi Pháp phát hành tem thư ở Việt Nam. Và cũng là tem duy nhất ơng góp vào nền
nghệ thuật tem thư ở Việt Nam


Ông mất ngày 17 tháng 6 năm 1954 ở Đa Khê, vùng gần sát chiến trường Điện
Biên Phủ. Họa sĩ Tô Ngọc Vân được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt I về
văn học nghệ thuật (1996)


Tên ông được đặt cho nhiều con đường tại Việt Nam.
Một số tác phẩm tiêu biểu


<b>Trước 1945</b>


<i>Thiếu nữ bên hoa sen (1944)</i>
<i>Thiếu nữ bên hoa huệ (1943)</i>


<i>Hai thiếu nữ và em bé (1944)</i>
<i>Thiếu phụ ngồi bên tranh tam đa </i>
<i>(1942) Buổi trưa (1936)</i>


<i>Bên hoa (1942)</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(45)</span><div class='page_container' data-page=45>

<b>Sau 1945</b>


<i>Hồ Chủ tịch làm việc tại Bắc Bộ phủ (1946-sơn </i>
<i>dầu) Nghỉ đêm bên đường (sơn mài - 1948)</i>
<i>Con trâu quả thực (ký hoạ màu nước - </i>
<i>1954) Hai chiến sĩ (màu nước - 1949)</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(46)</span><div class='page_container' data-page=46></div>
<span class='text_page_counter'>(47)</span><div class='page_container' data-page=47>

<b>1.4. Một số họa sĩ tiêu biểu của thế giới</b>



<b>1.4.1. Leonardo da Vinci (1452–1519)</b>



<b>Leonardo di ser Piero da Vinci (thường được phiên âm theo tiếng Pháp là</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(48)</span><div class='page_container' data-page=48>

thăng, xe tăng, dù nhảy, sự sử dụng hội tụ năng lượng mặt trời, máy tính, sơ thảo lý
<i>thuyết kiến tạo địa hình, tàu đáy kép (double hull), cùng nhiều sáng chế khác, khó</i>
có thể liệt kê hết ở đây. Một vài thiết kế của ông đã được thực hiện và khả thi trong
lúc ơng cịn sống. Ứng dụng khoa học trong chế biến kim loại và trong kỹ thuật ở
thời đại Phục Hưng còn đang ở trong thời kỳ trứng nước. Thêm vào đó, ơng có đóng
góp rất lớn vào kiến thức và sự hiểu biết trong giải phẫu học, thiên văn học, xây
<i>dựng dân dụng (civil engineering), quang học và nghiên cứu về thủy lực. Những sản</i>
phẩm lưu lại trong cuộc đời ơng chỉ cịn lại vài bức hoạ, cùng với một vài quyển sổ
nháp tay (rơi vãi trong nhiều bộ sưu tập khác nhau các sáng tác của ông), bên trong
chứa đựng các ký hoạ, minh hoạ về khoa học, và bút ký.



</div>
<span class='text_page_counter'>(49)</span><div class='page_container' data-page=49></div>
<span class='text_page_counter'>(50)</span><div class='page_container' data-page=50></div>
<span class='text_page_counter'>(51)</span><div class='page_container' data-page=51>

<b>1.4.2. Raffaello (1483–1520)</b>



Raffaello sinh năm 1483 m ất 6 tháng 4 năm 1520 tại miền đông Italia. Cha
ông là một họa sĩ nổi tiếng, từ nhỏ đã cho Raffaello theo học những thầy giáo giỏi
và ông học rất xuất sắc.


Khi được 21 tuổi, ông đến Firenze và nghiên cứu tỉ mỉ các tác phẩm của những
bậc thầy trước đó.


Từ năm 1508, ơng nhận lời mời của Giáo Hồng, đã vẽ một chùm bích hoạ
trong thánh thất Vatican trong vòng 5 năm. Cho đến tận ngày nay ta cũng có thể
chiêm ngưỡng tác phẩm đó ở 4 bức bích hoạ trên 4 bức tường trong thánh thất
Vatican.


</div>
<span class='text_page_counter'>(52)</span><div class='page_container' data-page=52>

phía trước là Platon và Aristotle, phía sau là những nhà triết học, khoa học cổ Hi
Lạp. Raffaello muốn thể hiện cho những người kế tục tư tưởng văn hoá cổ Hy Lạp
đã vượt lên trên thế hệ trước của mình. Nói tóm lại, Raffaello đã từ bỏ lối vẽ cứng
nhắc khi bàn về vấn đề Tôn giáo mà thay vào đó là những nội dung tư tưởng phục
hưng văn hố cổ Hi Lạp, hình thành nên những cấu tứ độc đáo, mới lạ.


Ngồi chun mơn hoạ sĩ, Raffaello còn là một kiến trúc sư lỗi lạc. Bằng chứng
là việc thiết kế nhà thờ Thánh Pie tại Vatican ở Roma. Ơng cũng đã có những đóng
góp quan trọng trong quy hoạch tổng thể Nhà thờ lớn và đồng thời cịn là người phụ
trách cơng việc thi cơng cơng trình này.


</div>
<span class='text_page_counter'>(53)</span><div class='page_container' data-page=53>

<b>1.4.3. Michelangelo Buonarroti (1475–1564)</b>



Chân dung Michelangelo vẽ bằng phấn của Daniele da Volterra


<b>Michelangelo di Lodovico Buonarroti Simoni (6 tháng 3 năm 1475 – 18</b>



<b>tháng 2 năm 1564), thường được gọi là Michelangelo, là một hoạ sĩ nhà điêu khắc,</b>
kiến trúc sư, nhà thơ và kỹ sư thời kỳ Phục hưng Italia. Dù ít có những đột phá bên
ngoài nghệ thuật, sự uyên bác của ông trong các lĩnh vực đạt tới tầm mức khiến ông
được coi là một người xứng đáng với danh hiệu nhân vật thời Phục hưng, cùng với
đối thủ và là người bạn Leonardo da Vinci.


</div>
<span class='text_page_counter'>(54)</span><div class='page_container' data-page=54>

trong lịch sử Nghệ thuật phương Tây: các cảnh Chúa sáng tạo ra thế giới trên trần
<i>và Sự phán xét cuối cùng trên bức tường bệ án thờ Nhà nguyện Sistine ở Rome.</i>


Một ví dụ về vị trí độc nhất của Michelangelo, ơng là nghệ sĩ phương Tây đầu
tiên có tiểu sử được xuất bản khi đang còn sống. Hai cuốn tiểu sử đã được xuất bản
trong khi ông đang sống; một trong số đó, bởi Giorgio Vasari, cho rằng ơng là động
cơ của mọi thành tựu nghệ thuật từ khi bắt đầu thời kỳ Phục hưng, một quan điểm
vẫn tiếp tục được ủng hộ trong lịch sử nghệ thuật trong nhiều thế kỷ. Trong đời
<i>mình, ơng cũng thường được gọi là Il Divino ("người siêu phàm"). Một trong những</i>
<i>phẩm chất của ông được những người đương thời ngưỡng mộ nhất là terribilità, một</i>
cảm giác kính sợ trước sự vĩ đại, và các nỗ lực của những nghệ sĩ thời sau học theo
phong cách say mê và rất cá nhân của ông đã dẫn tới Mannerism, phong trào lớn
tiếp sau trong nghệ thuật phương Tây sau thời Đỉnh cao Phục hưng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(55)</span><div class='page_container' data-page=55>

<i>Tượng David của Michelangelo (1504)</i>


<i>Sự phán xét cuối cùng (Trích đoạn).</i>
<i>Nhà thờ Sistine. Nề họa của Michelangelo</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(56)</span><div class='page_container' data-page=56>

<b>1.4.4. Vincent van Gogh (1853 – 1890)</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(57)</span><div class='page_container' data-page=57>

Van Gogh có ảnh hưởng lớn trong văn hóa đương đại. Đã có những cuốn tiểu
thuyết, bộ phim, bài hát… ra đời phản ánh cuộc đời v à sự nghiệp của ông.



Sau khi Van Gogh mất, tranh của ông rất được các bảo tàng nghệ thuật và nhà
sưu tầm cá nhân ưa thích, đặc biệt là trong thập niên 1980 và 1990. Khi đó nhiều tác
<i>phẩm của ơng liên tục phá kỉ lục thế giới về giá bán, trong số đó có bức Chân dung</i>
<i>Bác sĩ Gachet, từng được bán với giá 82,5 triệu USD.</i>


Một số tác phẩm của Van Gốc:


</div>
<span class='text_page_counter'>(58)</span><div class='page_container' data-page=58>

<i>Đêm đầy sao (1889)</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(59)</span><div class='page_container' data-page=59>

<b>1.4.5. Paul Gauguin (1848 - 1903)</b>



Paul Gauguin (thường được đọc là Gô ganh) có ên đầy đủ là Eugène Henri
Paul Gauguin


Ơng sinh ngày 7 tháng 6 năm 1848 tại Paris – Mất 8 tháng 5 năm 1903) là họa
sĩ hàng đầu của trào lưu hậu ấn tượng. Lúc 17 tuổi, ông làm thủy thủ trên tàu
Luzitano và có các chuyến đi từ Le Havre, Pháp tới Rio de Janeiro. Ơng đã đi vịng
quanh thế giới trong 13 tháng với tư cách thuyền phó. Năm 1871, ông từ bỏ hải
quân về làm việc trong một văn phịng của Bertins ở Paris. Ơng lấy vợ người Đan
Mạch, và có 4 người con.


</div>
<span class='text_page_counter'>(60)</span><div class='page_container' data-page=60>

thuật của ông là: không nên vẽ giống hệt, nghệ thuật là phải trừu tượng hóa, từ hình
mẫu bên ngồi phải sáng tạo một cái gì đó mới lạ…Năm 1889, ơng tuyên bố với
bạn bè là nên vễ như những nét vẽ của trẻ thơ, chỉ chú trọng đến đường nét cơ bản
của vật thể, cái tinh túy của người và vật. Quan điểm độc đáo của ông đã mở ra lý
thuyết ban sơ của chủ nghĩa tượng trưng trong trào lưu hội họa hiện đại.


Ông chu du nhiều nơi, đến tận Tahiti, vẽ rất nhiều tác phẩm giá trị. Về cuối đời
ông sống trong nghèo túng cơ cực, nợ nần chồng chất, sức khỏe giảm sút… Ơng


mất trong nỗi cơ đơn trong một túp lều ở Hivahoa.


Paul Gauguin đã để lại những tác phẩm nghệ thuật bất hủ sống mã trong lịch
sử nghệ thuật tạo hình thế giới.


</div>
<span class='text_page_counter'>(61)</span><div class='page_container' data-page=61></div>
<span class='text_page_counter'>(62)</span><div class='page_container' data-page=62>

<b>1.4.6.Pablo Picasso (1881-1973)</b>



<b>Pablo Picasso sinh ngày 25 tháng 10 năm 1881, tại Málaga, miền nam Tây</b>


Ban Nha; mất ngày 8 tháng 4 năm 1973, tại Mougins, Pháp. Ông được coi là một
trong những nghệ sĩ nổi bật nhất của thế kỉ 20, ông cùng với Georges Braque là hai
người sáng lập trường phái lập thể trong hội họa và điêu khắc.


Ngay từ khi còn nhỏ, Picasso đã bộc lộ sự say mê và năng khiếu trong lĩnh
vực hội họa, theo mẹ ơng kể lại thì từ đầu tiên mà cậu bé Pablo nói được chính là
<i>"piz", cách nói tắt của từ "lápiz", trong tiếng Tây Ban Nha có nghĩa là bút chì. Cha</i>
của Picasso,ơng José, là một họa sĩ chuyên vẽ chim theo trường phái hiện thực, ơng
José cịn là một giảng viên nghệ thuật và phụ trách bảo tàng địa phương, trường Mỹ
thuật công nghệ tạo hình của Barcelona. Vì vậy, Picasso có được những bài học đầu
tiên về nghệ thuật chính từ cha mình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(63)</span><div class='page_container' data-page=63>

sĩ nổi tiếng, và bắt đầu chuỗi ngày hoạt động nghệ thuật lắm gian truân nhưng cũng
đầy hào quang: ông đã để lại một tài sản khổng lồ cho nhân loại (1800 bức tranh sơn
dầu, 3 vạn bản tranh, 7000 bức ký họa phác thảo…)


<i>Tự họa với bảng màu, (phấn màu, 1906)- Gia đình xiếc,(sơn dầu, 1905)</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(64)</span><div class='page_container' data-page=64></div>
<span class='text_page_counter'>(65)</span><div class='page_container' data-page=65>

<b>1.5. Tranh dân gian Việt Nam</b>



<b>1.5.1.Tranh Đông Hồ</b>




<i><b>Tranh Đông Hồ, hay tên đầy đủ là tranh khắc gỗ dân gian Đơng Hồ, là một</b></i>


dịng tranh dân gian Việt Nam với xuất xứ từ làng Đông Hồ (xã Song Hồ, huyện
Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh). Trước kia tranh được bán ra chủ yếu phục vụ cho dịp
Tết Nguyên Đán, người dân nông thôn mua tranh về dán trên tường, hết năm lại lột
bỏ, dùng tranh mới. Thơ Tú Xương về tranh Đơng Hồ ngày Tết có câu:


<i>Đì đoẹt ngồi sân tràng pháo chuột</i>
<i>Loẹt lịe trên vách bức tranh gà</i>


<i>Tranh Lợn đàn ở nhà nghệ nhân Nguyễn Hữu Sam.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(66)</span><div class='page_container' data-page=66>

Theo đánh giá của một số họa sĩ, tranh Đông Hồ in ở thời điểm hiện tại thường
khơng có màu sắc thắm như tranh cổ, ngun nhân là người ta trộn màu trắng vào
điệp quét giấy để bớt lượng điệp khiến giấy mất độ óng ánh và trở nên "thường",
màu sắc sử dụng cũng chuyển sang loại màu cơng nghiệp, các bản khắc mới có bản
khơng được tinh tế như bản cổ. Một điểm đáng lưu ý khác nữa là một số bản khắc
đã đục bỏ phần chữ Hán (hoặc chữ Nơm) bên cạnh phần hình của tranh khiến tranh
ít nhiều bị què cụt về mặt ý nghĩa.


Về nội dung tranh, lưu ý rằng có sự gần gũi nhất định giữa nội dung tranh khắc
gỗ màu của Việt Nam với của Trung Quốc, có những tranh mà cả hai nước đều có,
song tranh Đơng Hồ phát triển thành một hướng riêng tồn tại nhiều thế kỷ và được
thừa nhận như dòng tranh dân gian được biết đến nhiều nhất ở Việt Nam.


</div>
<span class='text_page_counter'>(67)</span><div class='page_container' data-page=67>

<i><b>Ván khắc tranh Chăn trâu thổi sáo ở nhà nghệ nhân Nguyễn Hữu Sam</b></i>
<i>làng tranh Đông Hồ</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(68)</span><div class='page_container' data-page=68>

Làng tranh Đông Hồ cách Hà Nội chừng trên 35 km. Làng Đông Hồ (đôi khi


dân địa phương chỉ gọi là làng Hồ) nằm trên bờ nam sơng Đuống, cạnh bến đị Hồ,
nay là cầu Hồ.


Quanh năm rất nhiều khách du lịch trong ngoài nước đến làng tranh Đông Hồ
thăm và mua tranh Đông Hồ làm kỷ niệm. Một số khách sạn, nhà hàng từ Hà Nội,
Thành phố Hồ Chí Minh cũng về đây đặt những bức tranh khổ lớn để trang trí cho
cách phòng khách, hoặc phòng ăn lớn. Từ Hà Nội muốn đi Đông Hồ đường gần
nhất du khách thường đi là xuôi theo đường Quốc lộ số 5 (đường đi Hải Phòng) đến
ga Phú Thụy, cách Hà Nội chừng 15 km thì rẽ trái, đi chừng 18 km nữa, qua các địa
danh khá nổi tiếng của huyện Gia Lâm (Hà Nội) như phố Sủi, chợ Keo, chợ Dâu
(Thuận Thành-Bắc Ninh) là đến phố Hồ-huyện lỵ Thuận Thành. Rẽ trái thêm 2 km
là đến làng Hồ. Cũng có thể đi hết phố Hồ, lên đê rẽ trái, gặp điếm canh đê thứ hai
sẽ có biển chỉ đường xuống làng Đơng Hồ.


Làng Đơng Hồ xưa còn gọi là làng Mái. Các cụ làng Đông Hồ vẫn truyền lại
mấy câu ca rằng:


<i>Hỡi cô thắt lưng bao xanh</i>
<i>Có về làng Mái với anh thì về</i>


<i>Làng Mái có lịch có lề</i>


<i>Có sơng tắm mát có nghề làm tranh.</i>


Làng Đông Hồ nằm ngay sát bờ sông Đuống, ngày xưa chỉ cách sơng một con
đê, đó là ý trong câu "Có sơng tắm mát có nghề làm tranh". Ngày nay, do sự bồi lấp
của dịng sơng nên từ đê ra đến mép nước giờ khá xa.


</div>
<span class='text_page_counter'>(69)</span><div class='page_container' data-page=69>

nói rất lịch lãm, trên dưới thưa gửi rất rõ ràng. Người làng kể rằng kể cả từ xưa, rất
hiếm khi trong làng có tiếng người mắng chửi nhau.



Do cơng nghệ phát triển, tranh dân gian làng Hồ bây giờ không tiêu thụ nhiều
như trước. Qua nhiều thế kỷ, 17 dòng họ đã quy tụ về làng, vốn xưa tất cả đều làm
tranh. Nhưng đến nay, dân làng Hồ hiện chủ yếu sống bằng nghề làm vàng mã. Hiện
nay chỉ cịn hai gia đình nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế và Nguyễn Hữu Sam cùng
con cháu là theo nghề tranh, gìn giữ di sản tranh Đơng Hồ.


Hàng năm làng Hồ có hội làng vào rằm tháng 3 âm lịch. Trong hội làng có
những nghi thức truyền thống như tế thần, thi mã, thi tranh rất vui vẻ. Làng cịn có
các làn điệu dân ca như:


<i>Hỡi anh đi đường cái quan</i>
<i>Dừng chân ngắm cảnh mà tan nỗi sầu</i>


<i>Mua tờ tranh điệp tươi màu</i>
<i>Mua đàn gà lợn thi nhau đẻ nhiều.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(70)</span><div class='page_container' data-page=70>

<i>Đấu vật(Tranh Đông Hồ)</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(71)</span><div class='page_container' data-page=71></div>
<span class='text_page_counter'>(72)</span><div class='page_container' data-page=72>

<b>1.5.2.Tranh Hàng Trống</b>



<b>Tranh Hàng Trống là một trong những dòng tranh dân gian Việt Nam được</b>


làm chủ yếu tại phố Hàng Nón, Hàng Trống của Hà Nội xưa. Hàng Trống xưa kia
thuộc đất cũ của thôn Tự Tháp, tổng Tiền Túc (sau đổi thành Thuận Mỹ), huyện Thọ
Xương, nay thuộc quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Phố Hàng Trống nằm kề các phố Hàng
Nón, Hàng Hịm, Hàng Quạt... là nơi chun sản xuất cả đồ thủ công mỹ nghệ nhất
là đồ thờ như : tranh thờ, trống, quạt, lọng, cờ... Dòng tranh này hiện nay gần như
đã bị mai một hết, chỉ cịn lưu giữ trong các viện bảo tàng. Chính vì vậy, những
nghệ nhân vẽ tranh Hàng Trống giảm hẳn. Hiện, chỉ cịn duy nhất nghệ nhân Lê


Đình Nghiên cịn gắn bó với nghệ thuật tranh Hàng Trống và những nét tinh hoa của
dòng tranh này.


Dòng tranh này cũng như các dịng tranh phổ biến khác đều có hai dịng tranh
chính là tranh thờ và tranh Tết. Nhưng chủ yếu là tranh thờ dùng trong sinh hoạt tín
ngưỡng phục vụ đền phủ của Đạo giáo nhất là tranh thờ của Đạo Mẫu (Mẫu Liễu
<i>Hạnh ở Phủ Giầy, Nam Đình), như tranh Tứ Phủ cộng đồng, Bà chúa thượng ngày,</i>
<i>Mẫu Thoải, Ngũ Hổ, Ơng Hồng cưỡi cá, cưỡi ngựa, cưỡi rắn, Ơng Hoàng Mười,</i>
<i>Bà Chúa Ba, Đức Thánh Trần... rất cầu kỳ. Loại tranh này thường được các cụ</i>
chạm bằng vàng hay bạc thật dát mỏng. Tranh Tết thì Chúc phúc, Tứ q, ...


Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng có lẽ dịng tranh Hàng Trống xuất hiện từ
khoảng 400 năm trước đây. Và chịu ảnh hưởng rõ rệt của các luồng tư tưởng, văn
hố, tơn giáo, của vùng miền, các dân. Là kết quả của sự giao thoa tinh hoa giữa
Phật giáo, Nho giáo; giữa loại hình tượng thờ, điêu khắc ở đình, chùa với những nét
đẹp trong sinh hoạt văn hố hằng ngày.


</div>
<span class='text_page_counter'>(73)</span><div class='page_container' data-page=73>

những dụng cụ làm tranh như ván, bản khắc, một phần do thú chơi tranh của người
Hà Nội đã đổi khác, một phần do việc làm tranh khơng có thu nhập cao nên nhiều
người đã chuyển nghề.


<b>Cách in ấn và vẽ</b>


Tranh Hàng Trống sử dụng kỹ thuật nửa in nửa vẽ, tranh chỉ in ván nét lấy hình,
cịn màu là thuốc nước, tơ bằng bút lơng mềm rộng bản, một nửa ngọn bút chấm
<i>màu, cỡn nửa ngọn bút kia chấm nước lã, tô tranh theo kỹ thuật vờn màu.</i>


Tranh chỉ có một bản đen đầu tiên, sau khi in thì tranh được tơ màu lại bằng tay.
Từ các bản khắc gốc, những bức tranh đã được in ra, bằng mực Tàu mài nguyên
chất. Sau đó là công đoạn bồi giấy. Tùy thuộc từng tranh cụ thể mà có tranh chỉ bồi


một lớp, có tranh lại phải bồi đến 2 hay 3 lớp giấy. Khi hồ đã khơ thì mới có thể vẽ
mầu lại. Có khi phải mất đến 3, 4 ngày mới hoàn thành một bức tranh.


Tranh được in trên giấy dó bồi dầy hay giấy báo khổ rộng. Có những tranh bộ
khổ to và dài, thường bồi dầy, hai đầu trên dưới lồng suốt trục để tiện treo, phù hợp
với kiểu kiến trúc nhà cao, cửa rộng nơi thành thị.


Ván khắc được làm bằng gỗ lồng mực hoặc gỗ thị. Mực in truyền thống dùng
bằng những chất liệu dân dã nhưng cầu kỳ và tinh xảo trong chế tác.


<b>Màu sắc và cách tạo màu</b>


Tranh dùng các gam màu chủ yếu là lam, hồng đôi khi có thêm lục, đỏ, da cam,
vàng... Tỷ lệ được tạo không hề đúng với công thức chuẩn mà chỉ để cho thật thuận
mắt và ưa nhìn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(74)</span><div class='page_container' data-page=74>

<b>Đề tài nội dung và thể thức tranh</b>


Đề tài của tranh rất phong phú nhưng chủ yếu là tranh thờ như: Hương chủ,
Ngũ hổ, Độc hổ, Sơn trang, Ơng Hồng Ba, Ơng Hồng Bẩy... Ngồi ra cũng có
những bức tranh chơi như các bộ Tứ Bình (4 bức) hoặc Nhị bình (2 bức). Tứ bình
thì có thể là tranh Tố nữ, Tứ dân (ngư, tiều, canh, mục) hoặc Tứ quý (Bốn mùa). Tứ
<i>bình cịn có thể trình bày theo thể liên hồn rút từ các truyện tích như Nhị độ mai,</i>
<i>Thạch Sanh, Truyện Kiều. Nhị bình thì vẽ những đề tài như "Lý ngư vọng nguyệt"</i>
(Cá chép trông trăng) hoặc "Chim công múa" có tính cách cầu phúc, thái bình.
Những bức về đề tài dân dã như cảnh "Chợ quê" hay "Canh nông chi đồ" cũng
thuộc loại tranh Hàng Trống.


</div>
<span class='text_page_counter'>(75)</span><div class='page_container' data-page=75></div>
<span class='text_page_counter'>(76)</span><div class='page_container' data-page=76>

<b>1.5.3. Tranh làng Sình</b>




Làng Sình là một làng nằm ven sông Hương được thành lập vào khoảng thế kỷ
15, đối diện bên kia sông là Thanh Hà, một cảng sông nổi tiếng thời các chúa ở
Đàng Trong, cịn có tên là Phố Lở, sau này lại có phố Bao Vinh, một trung tâm buôn
bán sầm uất nằm cận kề thành phố Huế. Đây còn là một trung tâm văn hóa của vùng
cố đơ, có chùa Sùng Hố trong làng đã từng là một trong những chùa lớn nhất vùng
Hóa Châu xưa.


<b>Tranh làng Sình là một dịng tranh dân gian Việt Nam. Đây là dòng tranh mộc</b>


bản được sử dụng phổ biến ở cố đô Huế với mục đích cúng lễ. Nghề làm tranh ra
đời tại làng khơng biết từ bao giờ, và tranh làm ra chủ yếu là để phục vụ cho việc
thờ cúng của người dân khắp vùng. Ngày nay, tranh làng Sình đang mất dần đi yếu
tố truyền thống xưa. Các bản khắc cũ còn lại với số lượng rất ít, các bản khắc mới
đã xa rời với yếu tố gốc và người làm nghề cũng đã dùng chất liệu sơn công nghiệp
thay cho các chất liệu màu truyền thống.


</div>
<span class='text_page_counter'>(77)</span><div class='page_container' data-page=77>

Tranh làng Sình khác với tranh Đông Hồ (Bắc Ninh), tranh Hàng Trống (Hà
Nội) bởi chức năng duy nhất là phục vụ thờ cúng, cúng xong là đốt. Vì vậy, đến nay
chỉ cịn những bản khắc gỗ là hiện vật quý giá còn lưu giữ được ở nhà ông Kỳ Hữu
Phước - một nghệ nhân làm tranh lâu năm ở làng Sình.


<b>Cách in ấn và vẽ tranh</b>


<i>Hổ (Tranh làng Sình)</i>


Tranh Sình có nhiều loại kích thước tùy thuộc vào khổ giấy dó. Giấy dó cổ
truyền có khổ 25x70cm, được xén thành cỡ pha đôi (25x35), pha ba (25x23) hay
pha tư (25x17). Tranh khổ lớn khi in thì đặt bản khắc nằm ngửa dưới đất, dùng một
chiếc phết là một mảnh vỏ dừa khô đập dập một đầu, quét màu đen lên trên ván in.
Sau đó phủ giấy lên trên, dùng miếng xơ mướp xoa đều cho ăn màu rồi bóc giấy ra.


Với tranh khổ nhỏ thì đặt giấy từng tập xuống dưới rồi lấy ván in dập lên. Bản in
đen phải chờ cho khô rồi mới đem tô màu.


</div>
<span class='text_page_counter'>(78)</span><div class='page_container' data-page=78>

<b>Nguyên liệu và cách tạo màu</b>


Giấy in tranh là giấy mộc<i>[cần dẫn nguồn]</i> quét điệp, màu sắc trước đây được tạo từ
các sản phẩm tự nhiên như từ :thực vật, kim loại hay từ sò điệp... Một số loại màu
pha chế tự nhiên: màu vàng nhẹ (lá đung giã với búp hòe non), màu xanh dương
(hạt mồng tơi), màu vàng đỏ (hạt hòe), màu đỏ (nước lá bàng, đá son), màu đen (tro
rơm nếp hịa tan trong nước rồi lọc sạch, cơ lại thành một thứ mực đen bóng). Màu
chủ yếu trên tranh làng Sình là các màu xanh dương, vàng, đơn, đỏ, đen, lục. Mỗi
màu này có thể trộn với hồ điệp hoặc tô riêng, khi tô riêng phải trộn thêm keo nấu
bằng da trâu tươi.


Sau này do nhiều nguyên nhân nên màu sắc được tạo nên từ phẩm hóa học.


<b>Đề tài và nội dung tranh</b>


Tranh Sình chủ yếu là tranh phục vụ tín ngưỡng, có khoảng 50 đề tài tranh. Các
đề tài tranh chủ yếu phản ánh tín ngưỡng cổ xưa. Ngồi các đề tài về tín ngưỡng, phục
vụ thờ cúng cịn có tranh Tố Nữ <i>[cần dẫn nguồn]</i>, tranh tả cảnh sinh hoạt xã hội...


Tranh phục vụ tín ngưỡng có thể chia làm ba loại:


- Tranh nhân vật, chủ yếu là tranh tượng bà, thường vẽ một người phụ nữ xiêm


y rực rỡ với hai nữ tì nhỏ hơn đứng hầu hai bên. Tượng bà còn chia thành ba loại:
tượng đế, tượng chùa, và tượng ngang. Loại tranh này dán trên bàn thờ riêng thờ
quanh năm. Tranh con ảnh, gồm hai loại: ảnh xiêm vẽ hình đàn ơng đàn bà; ảnh
phền vẽ bé trai bé gái.



Các loại nhân vật cịn lại là tranh ơng Điệu, ơng Đốc và Tờ bếp (có lẽ là tranh
vẽ Táo quân).


- Tranh đồ vật vẽ các thứ áo, tiền và dụng cụ để đốt cho người cõi âm: áo ông,


áo bà, áo binh, tiền, cung tên, dụng cụ gia đình.. thường là tranh cỡ nhỏ.


- Tranh súc vật (gia súc, voi, cọp và tranh 12 con giáp) để đốt cho người


</div>
<span class='text_page_counter'>(79)</span><div class='page_container' data-page=79>

<b>1.5.4. Tranh Kim Hoàng</b>



Tranh Kim Hoàng là tên thường gọi của một dòng tranh dân gian phát triển khá
mạnh từ thế kỷ 18 đến thế kỷ 19 của làng Kim Hoàng, xã Vân Canh, huyện Hoài
Đức, tỉnh Hà Tây cũ, nay là Hà Nội.


Tương truyền, dòng họ làm tranh đầu tiên là dịng họ Nguyễn Sĩ người Thanh
Hố theo mẹ ra Thăng Long rồi lập nghiệp ở làng Kim Hoàng. Thế kỷ 19, tranh
Kim Hoàng phát triển mạnh, nhưng rồi bắt đầu bị thất truyền từ trận lụt năm 1915,
khi làng mạc từ Phùng đến Cầu Giấy bị ngập trắng, nhiều ván in tranh của làng bị
cuốn trôi. Đến năm 1945 thì tranh hồn tồn khơng cịn được sản xuất nữa. Ngày
nay, chỉ còn một vài ván in của dòng tranh này được lưu giữ tại Bảo tàng Mỹ thuật
Việt Nam.


Tranh của làng Kim Hồng có đủ loại tranh thờ cúng, tranh chúc tụng như một
số dòng tranh khác cùng thời (Đông Hồ, Hàng Trống). Nhưng tranh Kim Hồng lại
biết kết hợp nhiều ưu điểm của hai dịng tranh đó. Tranh Kim Hồng có nét khắc
thanh mảnh, tỉ mỉ hơn tranh Đông Hồ; màu sắc lại tươi như tranh Hàng Trống.
Chính vì thế nó tạo cho dịng tranh này những giá trị riêng.



<b>Đề tài và nội dung tranh:</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(80)</span><div class='page_container' data-page=80>

<b>Cách in ấn và vẽ :</b>


Tranh Kim Hoàng có nét khắc thanh mảnh, tỉ mỉ hơn tranh Đơng Hồ; màu sắc
tươi như tranh Hàng Trống. Tranh Kim Hoàng không sử dụng giấy điệp như tranh
Đông Hồ hay giấy dó như tranh Hàng Trống mà in trên nền giấy đỏ, giấy hồng điều,
hoặc giấy vàng tầu. Trong tranh Đông Hồ, một bức tranh có rất nhiều bản khắc gỗ,
mỗi bản khắc tương ứng với một màu và một lượt in. Nhưng ở tranh Kim Hoàng,
các nghệ nhân chỉ sử dụng một bản khắc để in nét đen lên giấy rồi dựa vào đó mà tự
do chấm phá màu sắc theo cảm xúc riêng của mỗi người. Vì thế, mỗi bức tranh có
một sự phóng khống và diện mạo riêng, dù cùng được in ra từ một bản khắc. Đây
là điểm được ưa chuộng nhất ở tranh Kim Hoàng.


<b>Màu sắc và cách tạo màu:</b>


Tranh Kim Hoàng dùng mực tàu và các màu có nguồn gốc tự nhiên. Màu trắng
tạo từ thạch cao, phấn; chàm, xanh chàm từ mực tàu hoà với nước chàm. Màu đỏ
lấy từ son, màu đen từ tro rơm rạ, màu xanh từ gỉ đồng, màu vàng từ hoa dành dành.


</div>
<span class='text_page_counter'>(81)</span><div class='page_container' data-page=81>

<i>Gà độc ( Tranh Kim Hoàng)</i>


<b>Hướng dẫn học chương 1:</b>



1. Đọc thêm tài liệu tham khảo, tìm hiểu thêm về:
- Các khái niệm cơ bản của nghệ thuật tạo hình
- Ngơn ngữ tạo hình


- Các họa sĩ tiêu biểu của Việt Nam và Thế giới



- Tranh đân gian Việt Nam


2. Tập viết thu hoạch, trình bày, giới thiệu mỹ thuật:


- Bài tập 1: Viết một bài thu hoạch nhỏ về một vấn đề hiểu biết của mình


thuộc nội dung chương 1(Tự luận, viết tay ho ặc đ ánh m áy khoảng 1500 chữ, trên
giấy A4)


</div>
<span class='text_page_counter'>(82)</span><div class='page_container' data-page=82>

<b>Chương 2. MỘT SỐ CHẤT LIỆU MÀU</b>


<b>VÀ KỸ THUẬT SỬ DỤNG</b>



<i>Màu là “ Chất dùng để tô thành các màu khi vẽ.” (TĐTV tr.592).</i>


Nhiều tài liệu trực tiếp hoặc gián tiếp nói về chất liệu, vật liệu, kỹ thuật tạo
hình- trước hết là hội hoạ.


Ví dụ : cuốn “ Thực hành màu sắc và hội hoạ” ( Robert Duplos, NXBMT 1999 )
giới thiệu, hướng dẫn những điều căn bản bước đầu hội hoạ, trong đó có việc sử
dụng vật tư, hoạ cụ, cách pha màu để vẽ sơn dầu, phấn dầu, màu nước. Cuốn “ Màu
sắc và phương pháp vẽ màu” ( Đặng Duy Lẫm, Đặng Thị Bích Ngân, NXBVH - TT


, 2001 ) đã “ trình bày khái quát những đặc trưng, tính chất của màu sắc, các dạng


hoà sắc và hiệu quả thị giác của nó. Đặc biệt, sách đưa ra phương pháp vẽ màu
thơng dụng nhất cho chất liệu bột màu, thuốc nước, sơn dầu, phấn màu”(tr5 )…Có
nhiêù tài liệu giới thiệu chuyên về một chất liệu, bút pháp, kỹ thuật hội hoạ, như Kỹ
thuật vẽ sơn dầu, Kỹ thuật vẽ thuốc nước, kỹ thuật vẽ sơn mài, Bí quyết vẽ tranh
thuỷ mặc…



Nhìn chung, chất liệu, phương tiện kỹ thuật vẽ gồm có: màu và vật liệu để vẽ
màu lên; bút vẽ, dao, bay... Màu vẽ tranh thơng dụng là chì đen màu bột, màu nước,
phấn màu, sáp màu, chì màu, màu dầu. Vật liệu để vẽ màu là giấy, bìa, vải, lụa, gỗ
dán…Bút vẽ - cịn được gọi là bút lơng (cọ vẽ), thường làm bằng lơng thú.


<b>2.1. Chì đen</b>


Chì đen (bút chì đen) là loại bút có lõi bằng chất liệu than chì và các hợp chất
của nó hoặc tương tự, dùng để viết hoặc vẽ trên giấy hoặc gỗ…


</div>
<span class='text_page_counter'>(83)</span><div class='page_container' data-page=83>

Bút chì thường được sử dụng trong những bài tập hình họa(vẽ theo mẫu) đen
trắng. Bút chì được sử dụng cũng thường là loại chì mềm 2B, 3B, 4B, 5B, 6B…. Về
lý thuyết, độ dẻo, độ mềm và đen của bút chì tăng dần theo số. Khi vẽ đậm nhạt, bút
chì khơng nên vót nhọn như bút viết mà nên để ngun lõi chì. Tay cầm bút cũng
khơng nên cầm q chặt. Càm bút chì trong lịng bàn tay, ngón trỏ và ngón giữ đỡ
<i>lấy thân bút, ngón cái đè trên thân bút. Hoạt động chủ yếu là cổ tay và cánh tay. “Để</i>
<i>vẽ được nét đẹp, dài nét, mềm mại, khống đạt thì phải có cách cầm bút hợp lí là để</i>
<i>ngửa bàn tay, bút chì để dọc theo bề ngang của ba ngón tay, ngón tay cái đè lên bút</i>
<i>chì và cứ thế mà vẽ, đầu bút chì nằm ngang khơng dâm thẳng vào giấy, nét lướt qua</i>
<i>mặt giấy sẽ mềm mại mà lại vẽ được nét dài phóng khống, khơng rụt rè mà vẫn</i>
<i>chính xác” (Họa sĩ Phạm Viết Song).</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(84)</span><div class='page_container' data-page=84>

<i>Du kích Củ Chi, tranh bút chì của Huỳnh Phương Đơng</i>

<b>2.2. Mực nho</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(85)</span><div class='page_container' data-page=85>

<i>Tranh mực nho của Tề Bạch Thạch</i>


<b>2.3. Than</b>


Các loại cây khi đốt cháy thành than đều có thể dùng để vẽ. Than dùng để vẽ


hình họa trong các trường mỹ thuât thường là than cây dâm bụt, xoan, dâu (loại gỗ
mềm).


</div>
<span class='text_page_counter'>(86)</span><div class='page_container' data-page=86>

<b>2.4. Màu chì (Bút chì màu)</b>


Chì màu có thân cứng, cũng giống như bút chì, chúng rất dễ vẽ. Chì màu cũng
phong phú màu. Dùng để theo mẫu, vẽ trang trí, vẽ tranh. Lõi chì màu là một thành
phần kém kết dính hơn bút chì đen và kém độ dai, độ bền hơn so với sáp màu. Vì
vậy, khi sử dụng cần lưu ý:


+ Gọt bút chì màu bằng dao gọt chì dễ gãy phần lõi chì ngay khi vừa vót xong.
Nếu dao gọt sắc thì xác suất hao hụt của chì màu ít hơn và ngược lại.


+ Cầm bút đúng độ nghiêng và tô đúng cách. Thơng thường cầm chì màu phải


cầm như bút chì đen và tơ lướt nhẹ nhàng. Muốn đậm thì trở đi trở lại nhiều lần ở
cùng một khu vực chứ khơng nên ấn mạnh tay.


+ Có thể vẽ chồng màu lên nhau như pha trộn màu bột hoặc đặt màu nọ gần
màu kia để tạo ảo giác pha trộn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(87)</span><div class='page_container' data-page=87>

<b>2.5. Màu sáp (Sáp màu)</b>


Từ màu bột pha chế, trộn lẫn với chất sáp, tạo thành màu sáp. Màu sáp thường
ở dạng thỏi trịn. Có cả sáp dầu.


<b>Sáp màu và sáp dầu cũng tương tự nhau, được sử dụng trong nhiều loại bài như</b>
vẽ tranh, vẽ trang trí, vẽ theo mẫu. Một số lưu ý khi vẽ màu sáp:


+Cũng như bút chì, khi sử dụng loại chất liệu này khơng nên vót q nhọn sẽ


dễ gãy và gây khó khăn trong việc tơ màu.


+ Nên vẽ lên mặt rám của giấy, kê lên bìa cứng hoặc gỗ có mặt ráp để màu sáp
dễ bắt vào giấy.


+ Sáp màu cũng như bột màu, ta tô thuần một màu ở các mảng hình hoặc có


thể pha màu hoặc chồng màu để tạo màu mới theo ý muốn.


+ Nhiều loại sáp màu kém chất lượng tạo ra nhiều mạt, các mạt này không
bám hết vào giấy mà rời bên ngoài, dễ làm bẩn tay và làm lem nhem bài vẽ…


</div>
<span class='text_page_counter'>(88)</span><div class='page_container' data-page=88>

<b>2.6. Màu dạ (Bút dạ)</b>


Bút dạ có nhiều loại: loại nhỏ như bút chì, loại lớn ngịi to trịn hay dẹt. Ruột
bút dạ làm bằng xốp để dẫn mực. Mực bút dạ có nhiều màu. Bút dạ thường dùng để
vẽ trang trí, vẽ tranh và kẻ chữ rất thuận tiện.


<b>2.7. Màu phấn (Phấn màu)</b>


Là những thỏi bột màu từ 12 – 14 màu hoặc nhiều hơn nữa. Khác với sáp và
chì màu, phấn màu là dạng bột ép thành thỏi, ít keo nên vẽ xong thường phun chất
keo dính. Phấn màu dùng dễ như than, bút chì, có thể vẽ nhẹ nhàng và pha màu
ngay trên bài vẽ.


<i>Chân dung, phấn màu của Bùi Xuân Phái</i>


<b>2.8. Màu nước (Thuốc nước)</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(89)</span><div class='page_container' data-page=89>

Màu nước được sử dụng trong những bài vẽ theo mẫu, vẽ trang trí, vẽ tranh.


Màu nước có tính chất nhẹ, trong trẻo. Một số lưu ý khi vẽ màu nước:


+ Nếu vẽ màu dày quá hoặc di đi di lại nhiều lần sẽ làm mất độ trong của màu
nước.


+ Nên pha màu với nước sạch trên bảng pha màu, dùng bút lơng lấy lượng màu


vừa đủ lướt lên mảng hình.


+ Muốn tăng độ đậm nhạt thì chờ màu trên mảng màu đó gần khơ rồi vẽ chồng
tiếp lên lớp màu nữa.


+ Nếu vẽ màu đặc quá, khi khô màu sẽ đục và bẩn.


+ Nếu chồng màu khi màu còn ướt, màu dễ bị loang, bẩn.


+ Nếu pha nhiều màu với nhau, màu dễ bị xỉn, khô cứng.


<b>2.9. Màu bột (Bột màu)</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(90)</span><div class='page_container' data-page=90>

<b>2.10. Màu dầu (Sơn dầu)</b>


Người Phương Tây biết đến sơn dầu từ rất sớm (thế kỉ XV) và nó đã trở thành
một chất liệu đặc biệt quan trọng và hấp dẫn các họa sĩ châu Âu. Sơn dầu du nhập
vào Việt Nam từ khi người Pháp mở trường cao đẳng Mỹ Thuật Đông Dương 1925.


Sơn dầu là một loại họa phẩm thường được làm dưới dạng bột khô, nghiền kỹ
với dầu lanh (cây gai) hay dầu cù túc. Tuy nhiên, việc chế màu địi hỏi phải có kiến
thức chuyên môn để tránh pha trộn, gây những phản ứng hóa học giữa các chất màu
bởi sắc tố có thể là nguyên liệu khoáng, nguyên liệu hữu cơ hoặc ngun liệu hóa


<i>học (theo ).</i>


Sơn dầu khơng thấm nước, có độ dẻo và độ che phủ mạnh (dễ dàng phủ kín lớp
sơn khác ở dưới, trừ các màu có tính đặc biệt). Cũng có lúc người ta dùng từ "màu
dầu" thay cho từ "sơn dầu" khi chỉ chất liệu tác phẩm.


Sơn dầu là một chất liệu rất tiện trong lĩnh vực sáng tác tạo hình. Đây cũng là
một chất liệu có khả năng diễn tả được con người cũng như muôn vẽ với tất cả các
sắc màu tinh tế nhất bởi nó có thể chất óng mượt, đặc quyện, nhưng lại có chất
trong, có chiều sâu. Nó rất tiện dụng cho họa sĩ thực hiện ý định, cảm xúc của mình
và tác phẩm.


Sơn dầu có một ưu thế nổi bật nhất là khả năng tả chất mạnh mẽ. Cho nên dùng
chất liệu này để vẽ trực tiếp, diễn tả trực tiếp trước đối tượng thì khó có thể có chất
liệu nào so sánh kịp. Dưới bàn tay của họa sĩ tài năng thì các đồ vật cỏ cây như sờ
thấy được, quả nho như mọng nước, hoa có mùi hương hoặc cảm giác mềm mại….


Quá trình thể hiện và kĩ thuật sử dụng chất liệu này khơng bị gị bó. Nét màu có
thể tự do phóng túng, có thể vẽ dày hay mỏng, đậm hay nhạt, mạnh mẽ hay vờn nhẹ,
nét bút. Màu sắc từ khi vẽ đến khi hoàn thành vẫn không thay đổi…


</div>
<span class='text_page_counter'>(91)</span><div class='page_container' data-page=91>

<i>Hai thiếu nữ, Tranh màu dầu của Dương Bích Liên.</i>


<b>2.11. Sơn mài</b>


Là chất liệu có từ lâu đời của Việt Nam, từ thời Lý (thế kỉ XI) hoặc có thể sớm
hơn. Xưa kia sơn mài chỉ dùng trong trang trí mỹ nghệ, chủ yếu nó được dùng hàng
ngày như mâm, hương án, hồnh phi câu đối, lọ cắm hoa, tủ…. Sơn mài từ các màu
sơn non, đen (then), dát vàng, dát bạc, gắn khảm trai, xà cừ, …và phủ lên lớp dầu
bóng để làm tăng thêm vẽ đẹp và độ bền.



Từ sau 1920, từ một chất liệu trang trí mỹ nghệ, sơn mài trở thành một chất
liệu tạo hình độc đáo ở nước ta. Nó đã được phát triển thành kĩ thuật hội họa, mở ra
cho các họa sĩ khả năng rộng lớn trong sáng tác của mình, là một trong những
phương tiện nghệ thuật của nền hội họa Việt Nam hiện đại. Đi đầu và thành công
trong sử dụng sơn mài vào hội họa là Nguyễn Gia Trí (1908 – 1993), Tơ Ngọc Vân
(1906 – 1954)……


</div>
<span class='text_page_counter'>(92)</span><div class='page_container' data-page=92>

<i>Chiều hôm những ánh vàng, Tranh sơn mài của Nguyễn Gia Trí</i>


<b>2.1.2. Bút vẽ màu</b>


Khi vẽ màu bột, màu nước, sơn dầu…thường phải dùng bút (bút vẽ còn được
gọi là cọ vẽ). Bút vẽ thông dụng là bút lông.


Bút lông (mao bút) là loại bút đầu có tp lơng dạng trịn, dẹt, nhọn... cán dài
nhiều cỡ. Người Trung Hoa cho rằng, bút lông cùng với giấy, mực tàu, nghiên là văn
phòng tứ bảo, nghĩa là bốn món đồ q của chốn làm văn, trung gian chuyên chở
ngôn ngữ, ý nghĩa và nghệ thuật.


</div>
<span class='text_page_counter'>(93)</span><div class='page_container' data-page=93>

và cả kim loại như đồng, sắt, vàng, bạc để làm quản bút. Lơng butr có thể là lơng
thỏ, lơng chồn, đi ngựa…


Bút lơng có đặc điểm nét vẽ đậm, mực thấm nhanh vào giấy vẽ. Đối với loại
giấy in mỏng, màu bút lông dễ dàng hiện rõ sang cả mặt sau của giấy. Trong cùng
một bài vẽ, nếu sử dụng kết hợp với chất liệu khác như chì, chì màu, sáp màu, sáp
dầu,…..bút lơng dễ dàng bật màu lên hơn các màu khác. Vì đặc điểm này, bút lông
thường được sử dụng khi viền nét.


Khi sử dụng loại bút lông để viền nét cần viền đều tay, rõ nét nhưng không nên


đè bút quá mạnh.


Các loại màu vẽ khác nhau

<b>Hướng dẫn học chương 2:</b>



1. Đọc thêm tài liệu tham khảo, tìm hiểu thêm về:
- Màu và các chất liệu khác của nghệ thuật tạo hình


- Vai trị của màu sắc trong cuộc sống và trong nghệ thuật tạo hình
2. Tập nhận biết màu sắc và pha màu:


- Bài 1: Tự nhận biết, gọi đúng tên các màu có trong hộp màu.


</div>
<span class='text_page_counter'>(94)</span><div class='page_container' data-page=94>

<b>Chương 3. LUẬT XA GẦN VÀ GIẢI PHẪU TẠO HÌNH</b>


<b>3.1. Luật xa gần</b>



<b>3.1.1 Khái niệm</b>


Luật xa gần(LXG) là một môn khoa học giới thiệu phương pháp vẽ sự vật, đối
tượng trên mặt phẳng hai chiều cho giống như chúng tồn tại trong không gian thực
ba chiều. Luật là đúng, phải theo. Nắm phương pháp vẽ xa gần trên mặt phẳng cũng
tức là nắm luật. LXG cịn có tên gọi khác như Luật viễn cận, Luật thấu thị, Luật
phối cảnh, Phép phối cảnh...LXG được các hoạ sĩ thời Phục hưng tìm ra, từ thực
tiễn sáng tác và được đúc kết thành lý thuyết khoa học. LXG là một trong những
môn cơ sở của ngành Mỹ thuật, Kiến trúc, Xây dựng. Kiến thức, kỹ năng LXG cần
thiết cho việc hình thành kiến thức, kỹ năng Hình hoạ (Vẽ theo mẫu), Hội hoạ (Vẽ
tranh)...LXG giúp vẽ hình hoạ, vẽ tranh theo phối cảnh thấu thị.


<b>3.1.2. Nội dung cơ bản của Luật xa gần</b>



Có thể tóm lược LXG về ba nội dung cơ bản sau:


a. Tất cả các đường thẳng song song chạy về phía trước (phía đường tầm mắt)
đều gặp nhau tại một điểm.


b.Tất cả các đường thẳng song song bằng nhau và cùng vng góc với mặt đất,
chúng vẫn luôn song song, nhưng càng gần đường tầm mắt thì chúng càng ngắn lại,
và chúng sẽ mất hút trên đường tầm mắt.


c.Tất cả các đường thẳng song song bằng nhau, cùng song song với đường tầm
mắt, chúng vẫn ln song song, nhưng càng gần đường tầm mắt thì chúng càng
ngắn lại, và chúng sẽ mất hút trên đường tầm mắt.


<b>3.1.3. Một số đường điểm cơ bản của Luật xa gần</b>


Hiểu và vận dụng LXG cũng có nghĩa là hiểu và vận dụng được các đường
điểm cơ bản của luật. LXG nêu ra nhiều đường, điểm để vận dụng, trong đó quan
trọng nhất là đường tầm mắt và điểm tụ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(95)</span><div class='page_container' data-page=95>

Đường tầm mắt là một đường thẳng nằm ngang với tầm mắt người nhìn, phân
chia mặt đất (hay mặt nước) với bầu trời, nên cũng gọi là đường chân trời. Đường
tầm mắt có thể thay đổi cao hay thấp tuỳ thuộc vào vị trí của người nhìn.


<b>b. Điểm tụ</b>


Là điểm gặp gỡ của các đường thẳng song song chạy về phía đường tầm mắt.
Có:


- Điểm tụ chính (ký hiệu: P): là nơi gặp nhau của các đường thẳng song song
với mặt đất và cùng vng góc với đường tầm mắt.



- Điểm tụ riêng (ký hiệu: P1, P2,…): là nơi gặp nhau của các đường thẳng song


song với mặt đất nhưng khơng vng góc với đường tầm mắt, hoặc các đường thẳng
song song không song song với mặt đất và cũng khơng vng góc với đường tầm
mắt. P1, P2,… có thể là bên trái, bên phải điểm tụ chính P, hoặc phía trên, phía dưới
đường tầm mắt (trên trời hoặc trong lòng đất).


<b>3.1.4. Ứng dụng Luật xa gần</b>


Luật xa gần được ứng dụng trong thiết kế kiến trúc, xây dựng…


Luật xa gần được vận dụng trong việc dạy học Hình họa ở các trường mỹ thuật
chuyên nghiệp. Bài học vẽ hình họa đầu tiên là bài vẽ mẫu khối cơ bản. Và khối lập
phương là một trong những khối cơ bản điển hình.


Khối lập phương gồm có 6 mặt là hình vng, 12 cạnh bằng nhau, trong đó có
ba nhóm các cạnh, mỗi nhóm gồm 4 cạnh song song cùng chiều hướng, khối hộp
dùng để minh họa đầy đủ cho ba nội dung cơ bản của Luật xa gần. Ví dụ:


Các cặp cạnh của khối lập phương song song với mặt đất hướng về phía trước
(chiều sâu), càng xa càng thu hẹp và cuối cùng tụ lại ở một điểm


Các cặp cạnh của khối lập phương song song với mặt đất hướng về phía trước
(chiều sâu), nếu vng góc với đường tầm mắt thì càng xa càng thu hẹp và cuối
cùng gặp nhau tại P...


Các cặp cạnh của khối lập phương song song và cùng vng góc với mặt đất,
khi vẽ, cạnh nào gần đường tầm mắt hơn, chắc chắn cạnh đó phải vẽ ngắn hơn…



</div>
<span class='text_page_counter'>(96)</span><div class='page_container' data-page=96></div>
<span class='text_page_counter'>(97)</span><div class='page_container' data-page=97></div>
<span class='text_page_counter'>(98)</span><div class='page_container' data-page=98>

<i>Tranh tường và phối cảnh tranh tường</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(99)</span><div class='page_container' data-page=99>

Xem thêm tài liệu, giáo trình riêng cho nội dung này, như :


- <i>Trần Tiểu Lâm, Đặng Xuân Cường – Luật xa gần và Giải phẫu tạo hình (Giáo</i>


trình đào tạo giáo viên THCS hệ CĐSP) – NXB Giáo dục, 1998.


- <i>Phạm Công Thành, Luật xa gần, NXB VH – TT, 2005.</i>


<b>3.2. Giải phẫu tạo hình</b>



<b>3.2.1 Khái niệm.</b>



Giải phẫu tạo hình (GPTH) là cấu trúc cơ thể người nhìn từ góc độ tạo hình.
Nói cách khác, GPTH là mơn học về cấu trúc hình thể người, mục đích là để tạo
hình người cho đúng. GPTH cũng được bắt đầu từ các hoạ sĩ bậc thầy thời Phục
hưng: họ đã tìm hiểu, nghiên cứu tỉ lệ cơ thể, cơ, xương người để vẽ và nặn tượng
người cho đúng, cho giống.


Kiến thức và kỹ năng Giải phẫu tạo hình hỗ trợ thiết thực cho việc học hình
họa nói riêng và sáng tác mỹ thuật nói chung.


Tham khảo tài liệu, giáo trình cho nội dung này, như :


- <i>Đinh Tiến Hiếu, Giải phẫu tạo hình (Giáo trình đào tạo giáo viên hệ Cao </i>


đẳng sư phạm), NXB ĐHSP, 2004.


- <i>Trần Tiểu Lâm, Đặng Xuân Cường – Luật xa gần và Giải phẫu tạo hình</i>



(Giáo trình đào tạo giáo viên THCS hệ CĐSP) – NXB Giáo dục, 1998.


- <i>Lê Thanh Lộc (Biên soạn), Giải phẫu học (Hình hoạ căn bản tập12), </i>


NXBVH – TT, 2003.


- <i>Lương Xuân Nhị, Giải phẫu tạo hình, NXBMT, 1999.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(100)</span><div class='page_container' data-page=100>

<b>3.2.2 Một số hình nghiên cứu về cơ thể người</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(101)</span><div class='page_container' data-page=101></div>
<span class='text_page_counter'>(102)</span><div class='page_container' data-page=102></div>
<span class='text_page_counter'>(103)</span><div class='page_container' data-page=103></div>
<span class='text_page_counter'>(104)</span><div class='page_container' data-page=104>

- So sánh đặc điểm ngoại hình nam, nữ


</div>
<span class='text_page_counter'>(105)</span><div class='page_container' data-page=105></div>
<span class='text_page_counter'>(106)</span><div class='page_container' data-page=106></div>
<span class='text_page_counter'>(107)</span><div class='page_container' data-page=107></div>
<span class='text_page_counter'>(108)</span><div class='page_container' data-page=108></div>
<span class='text_page_counter'>(109)</span><div class='page_container' data-page=109></div>
<span class='text_page_counter'>(110)</span><div class='page_container' data-page=110></div>
<span class='text_page_counter'>(111)</span><div class='page_container' data-page=111></div>
<span class='text_page_counter'>(112)</span><div class='page_container' data-page=112></div>
<span class='text_page_counter'>(113)</span><div class='page_container' data-page=113></div>
<span class='text_page_counter'>(114)</span><div class='page_container' data-page=114>

<b>Hướng dẫn học chương 3:</b>



1. Đọc thêm tài liệu tham khảo, tìm hiểu sâu thêm về:


- Các nội dung cơ bản của Luật xa gần và Giải phẫu tạo hình


- Vai trị của luật xa gần, giải phẫu tạo hình trong học tập và sáng tác mỹ thuật
2. Tập vẽ theo luật xa gần (chất liệu chì đen):


- Bài 1: vẽ khối lập phương nhìn từ nhiều góc độ (bố cục trên khổ giấy A3)
- Bài 2: vẽ phong cảnh ( có nhà của, cây cối,…; kích thước: bố cục trên khổ
giấy A3)


</div>

<!--links-->

×