Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Khái niệm và các vấn đè của khu vực ven đô các thành phố lớn trên thế giới và ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (666.48 KB, 5 trang )

KHÁI NIỆM

KHÁI NIỆM VÀ CÁC VẤN ĐỀ CỦA KHU VỰC VEN ĐÔ
CÁC THÀNH PHỐ LỚN TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM
KTS. Phạm Thị Nhâm
Phó Viện trưởng VIUP

Concepts and issues of peri-urban areas in major cities in the world and Vietnam

Vietnam’s big cities are tending to urbanize adjacent rural areas, in order to expand urban space from the core
to the outskirts. The transition from rural to urban areas on the outskirts of big cities in the world in general and
in Vietnam often faces many shortcomings from planning to development management.
This article deals with the concept and identifies issues of peri-urban peri-urban areas of Vietnam in the topic
“Study on management and development planning of new rural construction peri-urban areas in big cities of the
period 2015 - 2035”

Các thành phố lớn Việt Nam đang có xu hướng đô thị hoá khu vực nông thôn
liền kề nhằm mở rộng không gian đô thị từ trung tâm lõi ra khu vực ven đô.
Quá trình chuyển đổi từ nông thôn lên đô thị ở vùng ven đô các thành phố lớn
trến thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng thường gặp nhiều bất cập từ
công tác quy hoạch đến quản lý phát triển. Bài viết này đề cập đến khái niệm
và nhận diện các vấn đề của khu vực ven đô thành phố lớn Việt Nam trong
khuôn khổ đề tài nghiên cứu trọng điểm của Bộ Xây dựng “Nghiên cứu quản
lý phát triển quy hoạch xây dựng nông thôn mới khu vực ven đô thành phố
lớn giai đoạn 2015 - 2035”.
Từ khoá: khu vực ven đô, vùng nông thôn ven đô, vùng ven đô thành phố lớn

1. Khái quát chung

Trong 10 năm gần đây, tốc độ đô thị hóa cả nước gia tăng nhanh chóng, đặc biệt ở các thành phố lớn.
Năm 2019, tỷ lệ đô thị hoá cả nước khoảng 35-38%[1], dự báo đến 2035 khoảng 45-50%[2] và các đô thị


lớn tiếp tục mở rộng ranh giới đến vùng nông thôn. Thực tiễn vừa qua Nhà nước tổng kết 5 năm xây
dựng nông thôn mới giai đoạn 2011-2015 theo 19 tiêu chí áp dụng toàn quốc đã cho thấy không phù
hợp đối với vùng nông thôn ven đô thành phố lớn, nơi chịu tác động mạnh bởi quá trình đô thị hoá.
Vùng nông thôn ven thành phố lớn trực thuộc trung ương hay các đô thị loại I trực thuộc tỉnh đang trong
quá trình chuyển hoá từ nông thôn lên đô thị, nhiều huyện sắp lên quận, nhiều xã sắp lên phường.

SË 103+104 . 2020

7


Ngay cả khi chưa chuyển đổi lên đô thị
thì giữa các vùng nông thôn này và khu
vực đô thị cũng có rất nhiều mối quan hệ
đa chiều, không giống như những vùng
thuần nông bình thường. Về pháp lý,
vùng nông thôn ven đô đang gặp nhiều
bất cập do thiếu công cụ quản lý. Nông
thôn ven đô đang được quản lý giống như
các vùng thuần nông thôn cả nước với
19 tiêu chí của NTM, trong khi bản chất
của các tiêu chí NTM là nhằm ổn định
cuộc sống nông thôn lâu dài cho các khu
vực thuần nông, chứ không thể chuẩn bị
cho một khu vực nông thôn chuyển biến
thành đô thị. Về lý luận, NCKH về vùng
ven đô ở trong nước còn ít, chưa có nền
tảng lý luận làm cơ sở ban hành chính
sách quản lý vùng ven đô.


2. Khái niệm

Có nhiều khái niệm về vùng ven đô,
dưới góc độ QHXD và quản lý phát triển
có thể nhận thấy về bản chất đô thị là
một khu vực có sự tập trung cao về dân
cư, mật độ xây dựng và tiềm lực kinh
tế so với các khu vực xung quanh. Với
mật độ này, hình thức kinh tế chính của
người dân phải là phi nông nghiệp. Đặc
điểm của đô thị và hình thức kinh tế đô
thị là có quan hệ giao thương rộng lớn
ra khỏi vùng, trong hệ thống mạng lưới
đô thị và có tiềm lực phát triển lớn. Còn
nông thôn thuần tuý là những khu vực

chủ yếu sống bằng nghề nông. Do tính
chất canh tác nên mật độ dân cư cũng
như xây dựng đều thấp. Tuy người nông
dân cũng có bán nông sản và trao đổi
hàng hoá nhưng về cơ bản, phương thức
kinh tế này khá ổn định, không có nhiều
tiềm năng tăng trưởng và phần nhiều là
tự cung tự cấp, khép kín. Do vậy, khái
niệm khu vực ven đô được hiểu là không
gian nằm giữa khu vực đô thị và khu vực
nông thôn thuần tuý, nó vừa mang tính
chất đô thị vừa mang tính chất nông
thôn; là vùng hậu phương của đô thị
cung cấp dịch vụ hậu cần nhất định cho

đô thị.
Đô thị là một vùng đất trong phạm vi
ranh giới hành chính được gọi là đô thị.
Đô thị lớn là vùng đô thị đặc biệt có các
tiêu chí nổi bật so với hệ thống đô thị
xung quanh về: Dân số, lực hút các hoạt
động đô thị, hệ thống hạ tầng đô thị kết
nối đồng bộ liên vùng và đảm nhận vai
trò kinh tế của vùng hoặc quốc gia.
Đô thị lớn ở Việt Nam là thành phố loại
đặc biệt và loại I. Trong phạm vi ranh
giới hành chính, một đô thị với vùng lõi
trung tâm là khu vực thực sự có tính
chất đô thị, rồi tới vùng ven đô là dạng
chuyển tiếp và vùng nông thôn thuần
tuý. Tuy nhiên, về mặt hành chính thì
chỉ chia làm các quận nội thành, theo

nghóa là khu vực lõi đô thị, hay nội thị, và
các huyện ngoại thành, theo nghóa nông
thôn. Vì thế, vùng chuyển tiếp ven đô
không được nhận thức và quản lý đúng
với bản chất của nó.
Đối với đô thị trung bình, vùng ven đô là
khu vực hẹp nằm xung quanh lõi trung
tâm đô thị và thường nằm trong phạm vi
ranh giới hành chính đô thị.
Đối với đô thị lớn, vùng ven đô là vùng
rộng lớn bao trùm nhiều địa bàn. Vùng
này có thể nằm trọn trong ranh giới đô

thị, nhưng thậm chí có thể nằm ra ngoài
ranh giới đô thị.
Những làng xóm mang tính chất ven đô
có thể nằm trong hoặc ngoài ranh giới
khu vực nội thị. Cách gọi thông thường
ở Việt Nam, đối với làng xóm nằm trong
ranh giới nội thị thuộc các quận thì gọi
là làng xóm đô thị hoá; còn đối với làng
xóm nằm ngoài ranh giới nội thị thuộc
các huyện thì gọi là làng xóm ven đô.
Về bản chất, các làng xóm này có cùng
một tính chất ven đô, nhưng về pháp
lý chúng được đối xử và quản lý theo
những nguyên tắc hoàn toàn khác nhau
khi nằm trong hai khu vực hành chính
khác nhau là quận và huyện. Ngoài ra,
còn có thể loại làng xóm mang tính chất
ven đô nhưng nằm hoàn toàn ngoài ranh
giới hành chính đô thị, ví dụ làng xóm
huyện Văn Giang - tỉnh Hưng Yên.

3. Khu vực ven đô thành phố
lớn trên thế giới và Việt Nam

Hình 1. Khu vực ven đô đô thị trung bình
Nguồn: VIUP

Hình 2. Khu vực ven đô đô thị lớn
Nguồn: VIUP


8

SË 103+104 . 2020

Đô thị hoá khu vực ven đô là hiện tượng
phổ biến của quá trình tăng trưởng đô
thị. Nghiên cứu diễn biến đô thị hoá trên
thế giới và khu vực Đông Nam Á, khảo
sát 66 đô thị lớn khắp châu lục trên thế
giới về tăng trưởng đô thị và thay đổi mật
độ cư trú, cho thấy vùng ven đô là hiện
tượng phổ biến của quá trình tăng trưởng
đô thị và mở rộng không gian đô thị từ
trung tâm lõi đô thị đến khu vực nông
thôn để chuyển đổi từ dạng đô thị phi
chính thức sang đô thị chính thức.
Vùng ven đô thành phố lớn đều là vùng
đa chức năng, có động lực phát triển kinh
tế và có mối quan hệ hữu cơ với trung
tâm lõi đô thị; có quy mô diện tích và dân
số lớn, luôn biến động về nhân khẩu, đất


K h ∏ i

n i ÷ m

Ở các thành phố lớn Đông Nam Á, đô thị
hoá vùng ven đô diễn ra ở vùng đồng
bằng và ven biển, nơi có mật độ dân số

cao và chịu tác động của BĐKH. Ở Việt
Nam, quá trình hình thành các đô thị lớn
và đô thị hoá vùng ven đô hầu hết nằm
ở đồng bằng sông Hồng, đồng bằng ven
biển Trung Bộ, đồng bằng Đông Nam Bộ
và đồng bằng sông Cửu Long.
Nhận dạng vùng ven đô thành phố lớn.
Ranh giới vùng ven đô không có trên
thực tế, thường chỉ mang tính ước lệ. Có
nhiều cách nhận dạng vùng ven đô, ví
dụ nhận dạng theo hình thái không gian
đô thị - nông thôn hoặc mật độ cư trú…
Nhận dạng theo hình thái không gian
đô thị - nông thôn mang tính định tính,
theo quan sát thấy rằng vùng ven đô có
mật độ xây dựng thấp, ngoại trừ trên
các tuyến hành lang nối đến trung tâm
thành phố.

Hình 3. Biểu thị tốc độ tăng trưởng đô thị (1988-2014) [4]

Hình 4. Hình thái không gian vùng đô thị (từ lõi đô thị trung tâm đến vùng ven)
Nguồn: Một phiên bản thể hiện mặt cắt qua khu vực từ đô thị đến nông thôn từ trang web:
/>
đai và ranh giới đô thị. Do vậy, vùng ven
đô luôn được quan tâm trong chiến lược

phát triển đô thị quốc gia, nhất là các đô
thị châu Á đang có tốc độ đô thị hoá cao.


Nhận dạng theo mật độ cư trú mang
tính định lượng. Có thể xem xét ranh
giới vùng ven đô dựa trên mật độ cư trú
(MDDS), tổng dân số trên tổng đất tự
nhiên. Khi mật độ cư trú đạt ngưỡng >
1.000 người/km2 thì cư dân > 50% không
thể sinh sống bằng kinh tế nông nghiệp
và khu vực định cư đó đạt tiêu chí đô thị
loại V (Nghị quyết 1210/NQ-QH). Vùng
ven đô có đặc điểm của dạng “thảm đô
thị”[3], mang tính lưỡng cư vừa đô thị - vừa
nông thôn có MDDS >1.000 người/km2,
nằm ở vị trí giao thoa giữa trung tâm lõi
đô thị với MDDS >10.000 người/km2 và
khu vực nông thôn với MDDS <1.000
người/km2.
Ngoài mật độ dân cư, một trong những
yếu tố quan trọng để xét một vùng có
thể gọi là ven đô của một thành phố lớn
hay không phụ thuộc vào khoảng cách
của vùng đó vào vùng lõi thành phố
lớn. Bán kính di chuyển thường được
tính khoảng 1 giờ. Trong phạm vi này,
vùng có thể coi như không gian sống,
dịch vụ của thành phố lớn. Nếu thời gian
di chuyển quá xa sẽ không thể tính vào
đó được nữa. Do thước đo là thời gian
chứ không phải khoảng cách nên ranh
giới vùng ven đô phụ thuộc nhiều vào hạ
tầng giao thông chứ không phải khoảng

cách địa lý. Giao thông càng thuận tiện
thì ranh giới vùng càng lan rộng. Do vậy,

SË 103+104 . 2020

9


cấu trúc vùng thường có dạng sao nhiều
cánh, bám dọc theo các trục giao thông
chính. Tuy nhiên, những cao tốc lớn
thường ít khả năng tiếp cận từ hai bên
mà chỉ kết nối một số điểm chính. Khi
đó, các cánh sao sẽ không đều cả hai
bên, mà là dạng chùm đa tâm.
Xét trên phạm vi toàn quốc, vùng lưỡng
cư này có 26,79 triệu người chiếm 29%
dân số cả nước và rộng 15.074km2,
chiếm 4,57 diện tích toàn quốc.
Cấu trúc của vùng ven đô thành phố lớn
là hình thành các vành đai với 3 mức độ
có mối quan hệ mật thiết với Trung tâm
lõi đô thị: (i) vành đai ven đô tiếp giáp
trực tiếp trung tâm lõi đô thị có yếu tố đô
thị nổi trội hơn; (ii) vành đai ven đô giữa
có yếu tố đô thị yếu hơn; (iii) vành đai
ven đô ngoài nằm ở ngoại ô thành phố
giáp vùng nông thôn. Qua khảo sát ở 1
vài thành phố lớn Việt Nam, cho thấy
thành phố có dân số >3-5 triệu dân như

Hà Nội hình thành 3 vành đai ven đô. Đô
thị Đà Nẵng, Cần Thơ có dân số <3 triệu
dân chỉ có 2 hoặc 1 vành đai ven đô.
Về chức năng: Vùng ven đô thành phố
lớn là vùng đa chức năng. Do vậy, chức
năng của vùng ven đô thành phố lớn rất
đa đạng, khó có thể xác định hết các
chức năng của vùng ven đô. Tuy nhiên,
đặc điểm của các chức năng vùng ven
đô là nó không chủ yếu phục vụ dân cư
trên địa bàn của nó mà cung cấp những
dịch vụ cho một lượng lớn dân cư đô thị
sống ngoài địa bàn ven đô đó. Có thể
phân thành các nhóm sau đây:
(1) Chức năng hạ tầng môi trường: Đồi
núi cảnh quan/vùng bảo tồn cảnh quan
thiên nhiên; Dòng chảy, hồ lớn; Vùng
nông nghiệp đặc sản; Vùng đầm lầy…
(2) Chức năng hạ tầng xã hội: Di tích
lịch sử văn hoá/vùng bảo tồn di sản văn
hoá; Làng xóm/các thị trấn lịch sử; Đô
thị mới; Trung tâm cấp vùng về giáo
dục, y tế, hành chính, văn hoá, TDTT…
(3) Chứ c nă n g hạ tầ n g kinh tế : Khu
CN, kho tà n g; Hệ thố n g là n g nghề ;
TT dịch vụ đầ u mố i cấ p vù n g (chợ ,
TTTM); Khu vự c hỗ n hợ p đô thị - dịch
vụ - cô n g nghiệ p …

10


SË 103+104 . 2020

Hình 5. Nhận dạng khu vực ven đô ở các đô thị lớn Việt Nam.
Nguồn: VIUP

Hình 6. Cấu trúc vùng ven đô thành phố lớn [5]

(4) Chức năng hạ tầng kỹ thuật: Mạng
lưới đường bộ, đường sắt, đường không,
đường thuỷ, bến xe, nhà ga…; Vùng xả
lũ; Trạm xử lý nước bẩn; Trạm cấp nước
sạch; Trạm bơm thoát nước đô thị; Khu
xử lí rác; Khu nghóa trang…
Về đặc tính: Vùng ven đô thành phố lớn
là: (i) Vùng luôn biến động; (ii) Vùng đa
dạng về chức năng, đa dạng về cấu trúc
không gian, đa dạng về thành phần nhân
khẩu và (iii) là vùng ảnh hưởng lan toả
mạnh đến xung quanh. Ba đặc tính này
đã tạo cho vùng ven đô thành phố lớn là
vùng đô thị - nông thôn đặc thù. Tất cả
các đô thị lớn trên thế giới trong thời kì
tăng trưởng đô thị hoá, các công cụ quy
hoạch trong nhiều trường hợp bị lỗi thời

từ ý tưởng đến thực tế triển khai. Công
tác quản lý vùng ven đô thực hiện theo
quy hoạch luôn nảy sinh vấn đề bất cập
không thể giải quyết ở cấp địa phương,

buộc phải giải quyết ở cấp quốc gia.

4. Những vấn đề bất cập về
quản lý vùng ven đô thành phố
lớn việt nam

Đô thị hoá khu vực nông thôn ven đô làm
mở rộng không gian thành phố và biến
đổi cấu trúc thiên nhiên, cấu trúc làng
xã, văn hoá truyền thống, biến động dân
số, đất đai, kinh tế - xã hội. Về kinh tế,
tác động của đô thị hoá vùng ven đô làm
biến đổi kinh tế nông nghiệp nông thôn
trở thành kinh tế dịch vụ - công nghiệp.
Về môi trường, tác động của đô thị hoá

SË 103+104 . 2020

10


K h ∏ i

n i ÷ m

vùng ven thường diễn ra ở khu vực nhạy
cảm về sinh thái môi trường, không gian
thiên nhiên bị xâm lấn. Cảnh quan nông
nghiệp bị suy thoái. Không gian làng xã
truyền thống bị chia cắt hoặc phát triển tự

phát, chất lượng môi trường sống nông thôn
ven đô bị suy giảm. Về xã hội, cư dân vùng
ven đô luôn bị đe dọa bởi nguồn lực sinh
kế bị cạn kiệt, bởi môi trường bị suy thoái
và mẫu thuẫn xã hội nảy sinh từ không hoà
nhập với cư dân nhập cư.
Quản lý vùng ven đô thành phố lớn Việt
Nam đang gặp nhiều bất cập, do thiếu công
cụ quản lý.
(i) Đối với các quận và phường mới thành
lập, nơi còn nhiều làng xã và không gian
nông nghiệp xen kẹp đang được quản lý như
đô thị nhưng chưa giải quyết được một cách
thoả đáng những yếu tố nông thôn trong đó.
(ii) Đối với các huyện, xã theo quy hoạch
sẽ trở thành quận, phường đang diễn ra quá
trình đô thị hoá mạnh mẽ đang được quản lý
như nông thôn và chưa giải quyết được vấn
đề nhu cầu đô thị hoá trong thời gian gần.
(iii) Đối với các huyện, xã theo quy hoạch
không trở thành quận, phường nhưng là

vùng hậu phương cung cấp những dịch vụ
hậu cần nhất định cho đô thị. Những khu
này chưa biến thành đô thị trong thời gian
gần nhưng cũng không phải là nông thôn
thuần tuý mà là một vùng nông thôn nhưng
cung cấp đan xen nhiều dịch vụ cho khu
đô thị.
Như phân tích nêu trên, công tác quy hoạch

và quản lý hiện nay đang theo không gian
hành chính. Quận/phường theo quy hoạch
đô thị và Huyện/xã theo quy hoạch nông
thôn. Nên vùng ven đô nhiều trường hợp bị
xung đột bởi hai công cụ quản lý này.
NGÀY NHẬN BÀI: 10/4/2020
NGÀY GỬI PHẢN BIỆN: 10/4/2020
NGÀY DUYỆT ĐĂNG: 25/4/2020
Tài liệu tham khảo:
1. Tổng Cục thống kê (2012, 2013, 2014, 2018) - Niên
giám thống kê năm 2011, 2012, 2013, 2017. NXB Thống
kê.
2. Viện Quy hoạch đô thị và nông thôn quốc gia (2009),
Điều chỉnh định hướng quy hoạch tổng thể hệ thống đô thị
quốc gia đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2050.
3. Phó Đức Tùng (2018), Chuyên đề nghiên cứu kinh tế
đô thị, VIUP.
4. 25 Years of Urban Growth and
Density Change in 66 Global Cities.
5. Annette Piorr, Joe Ravetz, Ivan Tosics (2011), Periurbanisation in Europe: Towards a European Policy to
Sustain Urban-Rural Futures,
A Synthesis Report, page 25. Peri-urban areas & the ‘ruralurban-region’, PLUREL.

SË 103+104 . 2020

11




×