Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Phát triển đô thị ra vùng ven: Rủi ro và thách thức đối với thành phố Hồ Chí Minh trước các hiểm họa môi trường liên quan đến vấn đề tập trung dân cư và đô thị hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (725.77 KB, 8 trang )

DIỄN ĐÀN

PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ RA VÙNG VEN:
RỦI RO VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI TP. HỒ CHÍ MINH TRƯỚC CÁC HIỂM HỌA MÔI TRƯỜNG
LIÊN QUAN ĐẾN VẤN ĐỀ TẬP TRUNG DÂN CƯ VÀ ĐÔ THỊ HÓA
Phan Nhựt Duy* , Nguyễn Thị Lan Anh**, Trần Trung Vónh***

Residence concentration and urban space development in the suburban areas of cities near the
sea: Risks and challenges for HoChiMinh City to environmental hazards

As the global population has been increasing, urban concentration, associated with the urbanisation, has become a common trend driven
by economic development especially in major cities. This takes part in the predominance in urban competitiveness inspite of the potential
pressure on accommodation and urban services need to be developed. These can be seen as the driving factor to the rapid urbanisation
process particularly in suburbs, which are actually the place for local ecological system, e.g. watercourse and vegetation; referred to
as the “safety buffer” against environmental harzards to ensure urban sustainable development. Relied on the engineering development
in construction to change the natural environment, many cities have seen several new development areas located on low-laying lands
vulnerable to environmental attacks such as extreme floods. Addtionally, this process will also exacerbate the increasing pollution of urban
environment, even potential trigger and spread of diseases. Hence, the urbanisation and development of sub-urban areas need to be
thouroughly considered from different viewpoints, from the economic development versus environmental hazards. By using the results from
the research published by Duy et al. (2017, 2018) and Duy (2019), in cooperation with additional secondary data, this paper blames potential
environmental problems related to the uncontrolled urban concentration and urbanisation in suburbs. This allows an inform to the challenges
to HCMC, with the highlights in urban floods, air and noise pollution, and disease hazards; in order to raise some recommendations in urban
planning and management to the local government.

Tập trung dân cư gắn liền với đô thị hóa tại các
thành phố lớn đã và đang là xu hướng toàn cầu
khi dân số thế giới tăng nhanh với nhu cầu phát
triển kinh tế và tìm kiếm cơ hội việc làm. Xu
hướng này góp phần tạo lợi thế về con người
cho các đô thị phát triển, nhưng đồng thời cũng
phát sinh nhu cầu chỗ ở và các dịch vụ đô thị,


vốn là tiền đề cho các mục tiêu phát triển không
gian đô thị. Tuy nhiên, mặt trái của quá trình
này là thúc đẩy quá trình đô thị hóa diễn ra
nhanh chóng tại các vùng ven của đô thị - vốn
chứa đựng hệ sinh thái tự nhiên góp phần làm
“khoảng đệm an toàn” trước rủi ro thiên tai, đảm
bảo sự cân bằng giữa môi trường nhân tạo và tự
nhiên. Với quan điểm chủ quan dựa vào sự phát
triển của khoa học kỹ thuật và công nghệ để
cải tạo và thay đổi môi trường, các khu đô thị
mới được quy hoạch và xây dựng có vị trí trên
những khu vực rủi ro cao trước các biến cố thiên
tai như ngập lụt, đồng thời góp phần làm tăng

74

SË 103+104 . 2020

ô nhiễm môi trường và cả nguy cơ phát sinh và
lây lan dịch bệnh. Do đó, quá trình phát triển và
đô thị hóa ở vùng ven cần được xem xét ở nhiều
góc độ khác nhau, bao gồm lợi ích kinh tế và cả
nhưng rủi ro phải đối mặt. Bằng phương pháp
tổng hợp một số kết quả nghiên cứu đã công bố
của Duy và nhóm tác giả (2017, 2018 và 2019)
và số liệu thứ cấp được bổ sung, bài viết này nêu
lên một số hệ quả của môi trường liên quan đến
quá trình đô thị hóa và tập trung dân cư thiếu
kiểm soát tại vùng ven. Từ đó, nhóm tác giả liên
hệ đến những thách thức mà Thành phố Hồ Chí

Minh (TP.HCM) đã và đang đối mặt, trong đó chú
trọng đến ba vấn đề: ngập lụt, ô nhiễm khói bụi
và tiếng ồn, và dịch bệnh, để làm cơ sở cho các
ý phân tích và đề ra một số khuyến nghị đến
chính quyền thành phố liên quan đến công tác
lập quy hoạch và quản lý đô thị.
Từ khóa: Phát triển không gian đô thị, vùng ven, khu vực mới phát
triển, đô thị biển, hiểm họa môi trường


≥ ki’n Chuy™n gia & Nhµ qu∂n l˝

1. Giới thiệu bối cảnh chung về
phát triển đô thị và tập trung dân
cư tại các đô thị lớn trên thế giới

Trong những thập niên gần đây, dân số thế
giới luôn tăng với xu hướng tăng sự tập trung
phân bổ tại các khu vực đô thị, đặc biệt là các
đô thị cực lớn có tiềm năng phát triển kinh tế.
Số liệu của Liên Hiệp quốc - UN (2014) đã
cho thấy các thành phố trên thế giới hầu hết
đều có sự gia tăng dân số từ 10 - 20 lần sau
khoảng 50 năm - từ thập niên 1960, và dự
báo khoảng 68% dân số thế giới tập trung tại
các khu vực đô thị cho đến 2050 (UN, 2018).
Số liệu gần đây nhất cho thấy năm 2000 thế
giới có 371 đô thị hơn 1 triệu dân thì con số
này đã là 548 năm 2018, và dự báo tiếp tục
tăng lên 706 năm 2030 (UN, 2018). Các

đô thị lớn (hoặc vùng đô thị cực lớn) luôn là
“điểm đến” thu hút lao động dựa trên các lợi
thế về việc làm, gắn kết và gia tăng giá trị lao
động. Camagni et al. (1998) lý giải rằng các
đô thị chứa đựng các nguồn tài nguyên về
con người và công nghệ tạo lợi thế phát triển
kinh tế. Trên thực tế, thu hút lao động - tích tụ
dân cư sẽ tạo nguồn lực phát triển cho đô thị,
đồng thời cũng sẽ tạo ra sự gia tăng về nhu
cầu chỗ ở (liên quan đến thị trường bất động
sản) và các nhu cầu dịch vụ đô thị, từ đó trở
thành yếu tố thúc đẩy quá trình mở rộng diện
tích đô thị bằng việc hình thành các khu đô
thị mới tại các vùng ven.
Tuy nhiên, những vùng đất xung quanh các
trung tâm cũ của các đô thị chính thường
là nơi duy trì hệ sinh thái tự nhiên đảm bảo
sự cân bằng về môi trường cho đô thị phát
triển và có thể chứa đựng nhiều yếu tố bất
lợi (hoặc không phù hợp) về điều kiện tự
nhiên chẳng hạn trũng thấp, hợp thủy của
nhiều tuyến sông ngòi, kênh rạch dẫn đến

rủi ro ngập cao. Quá trình mở rộng diện tích
đô thị, đô thị hóa ở những khu vực này lại
góp phần tăng thêm “sự thu hút” lao động
nhập cư - tăng dân số cơ học, tạo thêm áp
lực về hạ tầng xã hội, kỹ thuật, làm tăng mức
ô nhiễm môi trường, nguy cơ dịch bệnh và
thậm chí làm đô thị càng dễ bị tổn thương bởi

các yếu tố thiên tai - liên quan đến mức độ
phơi nhiễm về con người và tài sản. Do đó,
bài viết này sẽ trình bày một số vấn đề về rủi
ro thiệt hại do ngập lụt, những tác động đến
môi trường tự nhiên (không khí và tiếng ồn)
và nguy cơ dịch bệnh có liên quan đến xu
hướng tập trung dân cư ngày càng cao dẫn
đến quá trình mở rộng và đô thị hóa nhanh
tại vùng ven của các đô thị lớn, trong đó có
TP.HCM.

2. TP.HCM: tiềm năng phát triển
kinh tế - yếu tố thúc đẩy tập trung
dân cư - tăng dân số, mở rộng
không gian đô thị ra vùng ven và
các rủi ro thách thức từ môi trường

2.1. Tăng trưởng kinh tế và xu hướng tăng
dân số, thay đổi phân bổ dân cư
TP.HCM là một đô thị gần biển (khoảng
50km từ trung tâm hiện hữu đến cửa biển tại
huyện Cần Giờ) và đang trở thành đô thị cực
lớn với tiềm năng phát triển kinh tế với tốc độ
tăng trưởng cao (khoảng 9%/năm và đóng
góp hơn 20% GDP của Việt Nam: ITPC,
2015). Với dân số tăng hơn gấp đôi sau 30
năm, từ khoảng 4 triệu năm 1988 đến hơn
8 triệu năm 2017 (GSOV, 1997 - 2017),
TP.HCM có dân số tăng rất nhanh do khả
năng thu hút lao động từ các vùng lân cận,

đặc biệt là từ những năm đầu 2000, sau sự
thành lập chính thức của các quận mới phát
triển năm 1997 từ các vùng ven của đô thị
trước đây. Trên thực tế, dân số đô thị hiện
nay có thể tới hơn 10 triệu nếu bao gồm cả
lao động nhập cư tạm thời.
Về phân bổ dân cư theo địa giới hành chính,
số liệu từ Tổng cục Thống kê (Hình 2) cho
thấy dân số đô thị tăng nhanh cùng với sự

Hình 2: Biểu đồ thay đổi dân số và phân bổ dân cư tại các khu vực tại Tp. HCM
Nguồn: Cục thống kê Tp. HCM (1989 – 2015)

Hình 1: Bản đồ vị trí và thể hiện sự gia tăng các thành phố cực lớn trên thế giới.
Nguồn: UN (2018)

thay đổi về tỷ lệ phân bổ tại các khu vực 2
và 3 (sáu quận mới phát triển và năm huyện
ngoại thành), rõ nhất là từ năm 2003. Hai
khu vực trên trước đây có thể được xem là
“vùng ven của đô thị” - xung quanh khu trung
tâm ở thời điểm cách nay khoảng 20 năm.
Theo tác giả Trương Hoàng Trương (2018),
vùng ven đô thị của TP.HCM gồm các quận
mới thành lập về mặt hành chính (chẳng
hạn như quận 2, 7, 9, Thủ Đức, Bình Tân),
và các huyện ngoại thành (Nhà Bè, Bình
Chánh, Hóc Môn) là vùng đang bị quá trình
đô thị hóa tác động dẫn đến nhiều thay đổi.
Ngày nay, nhiều trung tâm mới (cấp thành

phố hoặc cấp quận) đã được hình thành tại
các quận mới phát triển, chẳng hạn như Thủ

SË 103+104 . 2020

75


2.3. Thách thức đối với quá trình phát
triển: Rủi ro thiên tai (ngập lụt), ô nhiễm môi
trường (khói bụi và tiếng ồn) và nguy cơ dễ
phát sinh - lây lan dịch bệnh.

Hình 3: Quá trình mở rộng diện tích đô thị của TPHCM từ thế kỷ 18

Thiêm (quận 2), và Phú Mỹ Hưng (quận 7);
đồng thời “vùng ven mới” lân cận các quận
này lại tiếp tục có xu hướng đô thị hóa và
tập trung dân cư với mật độ ngày càng cao.
Như vậy, quá trình phát triển của TP.HCM
đã chứng kiến một tiến trình “xâm lấn” của
diện tích đô thị từ trung tâm ra các vùng ven
tương ứng với mức tăng trưởng kinh tế đồng
thời với tăng dân số.
2.2. Quá trình mở rộng diện tích đô thị
Đối chiếu với lịch sử phát triển của TP.HCM,
quy mô về diện tích và dân số của đô thị đã
tăng rất nhiều lần so với quy hoạch từ thế kỷ
19 (chỉ khoảng 25km2 đáp ứng cho khoảng
500.000 - 600.000 dân theo tài liệu trích dẫn

từ: Trân và Trương, online); so với hiện nay
là 2.095km2 với gần 10 triệu dân. Phần đô
thị ban đầu chỉ tập trung tại khu trung tâm cũ
(quận 1), có gắn kết với một trung tâm khác
ở Chợ Lớn (quận 5). Trong quá trình phát
triển, khi dân số tăng, diện tích từ đô thị mở
rộng ra các hướng, nhưng lại có sự thay đổi
theo thời gian:
i) Ở giai đoạn đầu có hai khu vực đô thị nằm
tách biệt nhau (vị trí tại quận 1 và 5: hình 3a);
ii) Hai khu vực đô thị trên từng bước được
nối liền theo hướng Đông - Tây, giới hạn bởi
sông Sài Gòn; sau đó tiếp tục mở rộng ra
hướng Tây Bắc (hướng đi Hóc Môn, Củ Chi:
hình 3b); và
iii) Tiếp tục mở rộng ra nhiều hướng với sự
thành lập của các quận mới phát triển, đặc
biệt vượt sông Sài Gòn và hai kênh Tẻ để
phát triển mạnh ra hai hướng Đông và Nam
(ra các quận 2, 9, Thủ Đức, và hướng quận
7, Nhà Bè) và hiện nay tiến ra hướng biển Đông Nam (Cần Giờ).
Như vậy, quá trình phát triển đô thị của
TP.HCM có sự mở rộng diện tích ra các
hướng khác nhau tùy vào chiến lược và

76

SË 103+104 . 2020

đặc điểm phát triển của từng giai đoạn.

Trong những năm gần đây, hướng Đông
và Nam được đầu tư phát triển mạnh với
sự hình thành và phát triển của hai khu đô
thị lớn: Phú Mỹ Hưng và Thủ Thiêm. Một
trong những lý do quan trọng được các
chuyên gia lý giải có hai hướng phát triển
này là diện tích đất trống, với hệ thống
kênh rạch và hệ sinh thái tạo môi trường
sống tốt. Tuy nhiên, các khu vực này lại là
vùng trũng thấp đóng vai trò quan trọng
trong việc cân bằng nước mặt (thẩm thấu
và giữ nước tạm thời trước khi thoát ra các
tuyến sông lớn). Thực vậy, theo bản đồ
mô phỏng địa hình (Thinh et al., 2009; và
Duy, 2019a), ngoại trừ hướng Tây Bắc (lớn
hơn +8m, so với mực nước biển - ASL)
và vị trí khu trung tâm cũ (khoảng +4m
đến +8m, ASL), các hướng phát triển còn
lại đều có địa hình thấp (dưới +1m, ASL).
Như vậy, TP.HCM đang có xu hướng phát
triển từ khu vực có địa hình cao ra hướng
có địa hình thấp hơn, dễ bị tác động của
triều cường. Do đó, yếu tố rủi ro tại các
khu vực này trước tác động của triều
cường là điều dễ hiểu; trong việc cải tạo
địa hình (nâng nền cục bộ) lại là vấn đề
mà nhiều chuyên gia lo ngại về khả năng
tác động ổn định dòng chảy của hệ thống
kênh rạch tự nhiên, phá hủy sự cân bằng
thoát nước mặt của toàn đô thị. Điều đáng

lưu ý ở đây đó là quá trình “xâm lấn” của
diện tích đô thị hóa từ khu trung tâm hiện
hữu ra các vùng ven, hay nói cách khác
diện tích của vùng ven từng bước bị thu
hẹp. Điều này đồng nghóa với hệ sinh thái
- mặt đất thẩm thấu tự nhiên và hệ thống
sông ngòi kênh rạch đã và đang bị giảm
và được dự báo tiếp tục bị thu hẹp trong
tương lai. Vấn đề cần quan tâm, từ góc độ
của các nhà quy hoạch và quản lý là quá
trình này sẽ diễn ra đến khi nào, đến mức
nào là đạt ngưỡng để có hạn chế và nên
dừng lại; hay là sẽ tiếp tục vô hạn.

Ngập lụt
Bối cảnh chung về quá trình tập trung dân cư
và đô thị hóa tại các đô thị lớn đã phần nào cho
thấy những rủi ro thiệt hại cao khi xảy ra thiên
tai, trong đó có ngập lụt. TP.HCM cũng được
đánh giá là một trong các đô thị dễ bị tác động
bởi các hệ quả của biến đổi khí hậu (BĐKH)
(Nicholls et al., 2011). Đáng lưu ý, nhiều
chuyên gia nhận định: ngoài tác động của
nước biển dâng, tình trạng ngập ngày càng
nghiêm trọng tại TP.HCM là một phần của hệ
quả từ quá trình đô thị hóa nhanh tại các quận
mới phát triển - vùng ven trước đây của đô thị,
có liên quan đến sự phát triển của các dự án
bất động sản, tính hiệu quả của công tác lập
và quản lý quy hoạch (Storch and Downes,

2011; Phi, 2013, Duy et al., 2017a, Duy,
2019a). Duy và nhóm nghiên cứu (2017a) đã
tổng hợp số liệu về quá trình triển khai của các
dự án bất động sản từ 2010 đến 2015, cho
thấy phần lớn các dự án đều tập trung phân bổ
tại sáu quận mới phát triển và một số huyện
ngoại thành. Số liệu của nghiên cứu cũng cho
thấy diện tích phát triển dự án cho nhà ở sẽ tăng
gần 4 lần ở khu vực 2, và hơn 10 lần ở khu vực
3, đến năm 2030. Dự báo này cũng phù hợp
với thực trạng ở các giai đoạn trước đây thông
qua các kết quả nghiên cứu về sự gia tăng của
diện tích đô thị hóa thể hiện qua ảnh vệ tinh
(tăng gần gấp đôi chỉ sau 4 năm: 2002 - 2006:
Vân et al., 2011), và đánh giá thực trạng hoạt
động xây dựng cao tại các quận huyện với
mức tập trung cao tại các quận mới phát triển
(Viet, 2008). Đáng lưu ý, các khu vực dân cư
mới phát triển ở hướng Đông (hướng ra quận
2, 9, và Thủ Đức) và Nam (hướng quận 7, Nhà
Bè và Cần Giờ) với hệ thống sông ngòi, kênh
rạch dày đặc, có địa hình rất thấp so với mức
đỉnh triều hiện nay (phần lớn là dưới +1m trong
khi đỉnh triều đã cao hơn +1,7m năm 2017,
so với mực nước biển) nên dễ bị tác động bởi
ngập do triều cường và nghiêm trọng hơn khi
kết hợp với mưa lớn. Xem xét về rủi ro ngập
sâu và hệ thống giao thông đường bộ bị giao
cắt nhiều bởi sông ngòi, kênh rạch, hạn chế
khả năng kết nối trong trường hợp khẩn cấp,

Duy và nhóm tác giả đã nhận định rằng ba
quận ở phía Đông (2, 9 và Thủ Đức) là các
quận dễ bị tổn thương nhất. Theo đó, quá trình
phát triển các khu đô thị mới tại các khu vực
này sẽ dẫn đến:


≥ ki’n Chuy™n gia & Nhµ qu∂n l˝

i) Hình thành các cộng đồng dân cư với mật độ cao, đồng nghóa với
việc tăng số lượng người và tài sản bị phơi nhiễm trước nguy cơ ngập
sâu do tập trung số lượng lớn con người và tài sản đối mặt với rủi ro
tác động của thiên tai trong đó có ngập lụt;
ii) Các hoạt động xây dựng, cải tạo điều kiện môi trường tự nhiên làm
ảnh hưởng đến sự ổn định và cân bằng hệ thống thoát nước mặt của
đô thị: giảm khả năng trữ nước do giảm diện tích sông ngòi, kênh
rạch; giảm khả năng hấp thụ nước (do tăng diện tích mặt phủ không
thẩm thấu: Phi, 2013); và góp phần làm diễn tiến ngập của toàn đô
thị càng phức tạp và gây ra khó khăn cho quá trình quản lý do thay
đổi cao độ nền cục bộ.

kinh tế, phương tiện, kết cấu đường và trở thành “nỗi ám ảnh” đối với
người dân trong đô thị nhất là vào giai đoạn mùa mưa kết hợp với
triều cường vào khoảng tháng 8-11. Một số nút giao thông tại các vị
trí “ngã ba”, phân nhánh của sông, kênh rạch được đánh giá dễ bị
ngập do hợp thủy, dẫn đến các khu đô thị mới dễ bị cô lập và khó
tiếp cận trong trường hợp ngập nghiêm trọng. Đây cũng là một rủi ro
mà chính quyền đô thị cần lưu ý khi tham khảo một số bài học kinh
nghiệm từ các thảm họa ngập tại ba thành phố New Orleans - USA
2005, Manila - Philipines 2009 và Bangkok - Thai Lan 2011 liên quan

đến việc phát triển đô thị tại các khu vực mới - vùng ven đô mà thiếu
cân nhắc các yếu tố rủi ro tiềm ẩn (Duy, 2015).


a) Năm 2000

b) Năm 2020
Hình 4: Ảnh vệ tinh minh họa quá trình đô thị hóa tại một số quận
mới phát triển (2, 7) có mức độ đầu tư xây dựng cao dẫn đến giảm
diện tích cây xanh, mặt nước

Đối chiếu với thực trạng, những nhận định trên là có cơ sở khi ngập
lụt tại TP.HCM trong những năm gần đây đã diễn biến ngày càng
phức tạp gây ảnh hưởng lớn hoạt động kinh tế, xã hội của đô thị.
Số điểm ngập tăng gần gấp đôi qua hai giai đoạn: 680 (từ 2003
đến 2009: Phi, 2013), và 1.250 điểm ngập (từ 2010 đến 2015: Duy,
2019 tổng hợp từ số liệu thống kê của SCFC, 2010 - 2015). Những
điểm ngập không những gây ùn tắc giao thông mà còn gây thiệt hại

Hình 5: Thực trạng ngập tại một số “điểm nóng” do hệ quả từ mưa
lớn kết hợp triều cường tại quận 2 và quận Bình Thạnh

SË 103+104 . 2020

77


≥ ki’n Chuy™n gia & Nhµ qu∂n l˝

trên số liệu đo liên tục ở trạm quan trắc không khí tại đường Nguyễn

Văn Cừ đã phân tích hiện trạng ô nhiễm bụi mịn và quy luật biến đổi
theo thời gian. Kết quả cho thấy hàm lượng bụi trung bình bụi PM2.5
tại TP.HCM là 28,0 ± 18,1µg/m³, vượt quá giới hạn của Quy chuẩn
Việt Nam (QCVN 05:2013) và giới hạn của WHO (tham khảo Bảng
1). Với dân số đông và ngày càng tập trung cao như tại TP.HCM thì
mức độ ô nhiễm được dự báo ngày càng tăng, càng dẫn đến nhiều
bệnh tật, đặc biệt là các bệnh về đường hô hấp. Điều này cho thấy
môi trường sống của người dân trong đô thị ngày càng xuống cấp
và ảnh hưởng đến sức khỏe, chất lượng sống của con người diễn ra
“vô hình” theo thời gian. Đây cũng được xem là một hệ quả của quá
trình tập trung - tích tụ dân cư làm ảnh hưởng đến môi trường không
khí tự nhiên.
Bảng 1: Quy chuẩn chất lượng không khí xung quanh cho bụi PM2.5
của một số quốc gia và tổ chức.
a) Ngập nghiêm trọng

Nguồn: D. H. Huy, et al., 2018.
(Ghi chú: (*) Trung Quốc đưa ra 2 cấp quy định cho bụi mịn)

b) Mức độ dễ bị tổn thương
Hình 6: Mô phỏng ngập và những ảnh hưởng có thể xảy ra với hệ
thống giao thông dẫn mức độ rủi ro - dễ bị tổn thương của một số
khu vực (Duy et al., 2018; Duy, 2019a)

Không khí
Hầu hết các đô thị lớn trên thế giới đang phải đối mặt với tình trạng
ô nhiễm không khí ngày càng gia tăng, tập trung chủ yếu là ô nhiễm
bụi mịn. Bụi mịn là thuật ngữ dùng để chỉ các hạt bụi có kích thước
rất bé tồn tại lơ lửng trong không khí (Dockery, 2001). Trong đó, bụi
PM2.5 là các hạt bụi có đường kính động học bé hơn hoặc bằng

2,5µm, được sử dụng như là một thông số quan trọng trong đánh giá
mức độ ô nhiễm môi trường không khí. Theo ước tính của tố chức Y
tế Thế giới - WHO (2012), trên thế giới có khoảng 3 triệu người thiệt
mạng do phơi nhiễm với bụi PM2.5 vào năm 2012. Theo xếp hạng
của GBD (Global Burden of Disease), trong số 79 thông số rủi ro gây
bệnh tật và gây tử vong, thì bụi PM2.5 xếp ở vị trí thứ 5.
Tại TP.HCM, tình trạng ô nhiễm không khí ngày càng trở nên nghiêm
trọng, và có liên quan đến dân số tăng nhanh phát sinh nhu cầu đi
lại và phương tiện giao thông không ngừng gia tăng. Một nghiên cứu
bởi Huy và nhóm tác giả (2018) được tài trợ bời Trường Khoa học
Tự Nhiên TP.HCM về thực trạng ô nhiễm bụi mịn từ 2013-2017 dựa

78

SË 103+104 . 2020

Tiếng ồn
Tiếng ồn được xem là một trong những mối nguy hiểm lớn đối với
sức khỏe của con người, không khác gì các hiện tượng ô nhiễm khác
(Truong, 2018). Tiếng ồn tác động lên con người ở nhiều khía cạnh:
che lấp âm thanh cần nghe làm suy giảm phản xạ tự nhiên với âm
thanh, gây bệnh đối với thính giác và hệ thần kinh, gián tiếp gây bệnh
tim mạch; tiếp xúc với tiếng ồn cao lâu ngày dẫn tới bệnh đãng trí và
bệnh điếc không thể phục hồi. Đối với người dân trong đô thị, nếu
sống trong môi trường có tiếng ồn quá lớn thì không chỉ có nguy cơ bị
bệnh tâm thần mà còn gây tổn thương phần tai trong, dây thần kinh
thính giác bị teo lại (CEDR, 2012). Nghiên cứu gần đây của Carey
và nhóm tác giả (2018), được tài trợ bởi Hội đồng nghiên cứu môi
trường tự nhiên Vương quốc Anh, khảo sát trên 130.978 người Anh ở
Luân Đôn chứng minh có sự liên hệ giữa tác động ô nhiễm tiếng ồn

và không khí đến quá trình phát triển bệnh Alzheimer.
Trong đô thị, tiếng ồn là dạng ô nhiễm phổ biến với nguồn phát sinh
chủ yếu từ các phương tiện giao thông vận tải (chiếm khoảng 60 80%), và tỷ lệ thuận với sự phát triển của đô thị (Cao, 2017). Mặc
dù trong khoảng thời gian ít phương tiện lưu thông nhất (từ 22h đến
6h sáng hôm sau), kết quả khảo sát tại 150 điểm quan trắc đặt trên
30 tuyến đường trong đô thị cho thấy tiếng ồn đo được vẫn vượt quá
giới hạn so với cả tiêu chuẩn Việt Nam và thế giới (Nguyễn, 2007).
Cụ thể, so với tiếng ồn tối đa cho phép trong đô thị là 70dBA (Bộ
Tài nguyên & Môi trường, 2010), mức ồn ghi nhận được tại các trạm
quan trắc dao động từ 55,09 - 79,30dBA (Nguyễn, 2007). Kết quả
khảo sát tại các tuyến đường ở TP.HCM gần đây cũng cho thấy mức


ồn (LAeq) có xu hướng tăng mạnh, dao động từ 70 đến 77dBA, và
hệ quả là khoảng 95% người dân được khảo sát cảm thấy bị quấy
rầy bởi tiếng ồn này (Cao, 2017). Từ thực trạng trên cho thấy quá
trình tập trung dân cư - tăng dân số cũng góp phần làm ô nhiễm môi
trường về tiếng ồn, giảm chất lượng cuộc sống.

Hình 7: Các mức độ ô nhiễm tiếng ồn.
Nguồn: CEDR, 2012.

Dịch bệnh
Ngoài những rủi ro về thiên tai và tác hại từ ô nhiễm môi trường
không khí, tiếng ồn, dịch bệnh cũng là một trong các hiểm họa có
nguy cơ cao đối với các đô thị tập trung dân cư mật độ cao và môi
trường sống không đảm bảo. Lịch sử thế giới đã ghi nhận những
trận đại dịch - trở thành thảm họa cho nhân loại xuất phát từ các
thành phố tập trung dân cư đông, nhất là các khu vực mới phát
triển dân cư đông đúc với môi trường sinh hoạt thiếu vệ sinh làm

tiền đề cho quá trình nảy sinh mầm bệnh và lây lan nhanh chóng.
Điều này tạo nên một nguy cơ luôn tiềm ẩn, đe dọa đến hàng triệu
người dân trong đô thị mà nhiều chuyên gia đã lo ngại và cảnh báo
về chất lượng môi trường sống. Khi nghiên cứu về những rủi ro xã
hội, Ulrich Beck, một nhà xã hội học nổi tiếng người Đức cho rằng
trong xã hội tiền công nghiệp, những rủi ro thường đến từ thiên
nhiên (hạn hán, mất mùa, đói kém), thường liên quan đến nguồn
nước, mang tính cục bộ từng khu vực nên dễ nhận biết và có thể
kiểm soát được. Nhưng trong xã hội đương đại, khi dân số thế giới
càng tăng và nhu cầu giao thương - đi lại càng phức tạp và không
biên giới thì rủi ro dịch bệnh lại đang tăng với nhiều chủng loại
“virus” mới có liên quan đến các hệ quả của BĐKH toàn cầu (khí
hậu nóng lên có thể phát sinh một số mầm bệnh mới). Từ đó, con
người sống trong đô thị càng chịu nhiều rủi ro, và môi trường sống
chưa chắc đã tốt và đem lại sự an tâm, hạnh phúc như nhiều người
mong đợi khi nhập cư vào đô thị. Beck nhận định xã hội hiện đại là
“một cộng đồng lo âu” vì tầng lớp nào, giai cấp nào cũng có nguy
cơ chịu rủi ro như nhau. Điều này đã và đang được minh chứng
thông qua những diễn biến phức tạp của dịch bệnh Covid 19, có
ảnh hưởng và mức độ lây lan nhanh chóng, phức tạp tại các đô
thị lớn, tập trung dân cư đông người và hoạt động giao thông đi lại
phức tạp như ở Vũ Hán - Trung Quốc, NewYork - Mỹ và TP.HCM,
Hà Nội ở Việt Nam.

3. Bàn luận và phát triển quan điểm

Tích tụ dân cư gần như là xu thế chung tại các đô thị, đặc biệt là các
đô thị lớn và cực lớn ở nhiều quốc gia nhất là các nước đang phát triển
ở châu Á. Xu hướng này xuất phát từ mục tiêu phát triển kinh tế, mưu
cầu cuộc sống tốt hơn của con người. Tuy nhiên, những số liệu dẫn

chứng và các lập luận ở các phần trên đã cho thấy môi trường sống ở
đô thị càng chứa đựng nhiều rủi ro, nguy cơ tiềm ẩn đe dọa đến sức
khỏe, tính mạng và tài sản của người dân nếu quá trình tập trung dân
cư càng đông. Theo đó, mục tiêu chính của việc nhập cư đã “vô tình
biến mất”. Cơ hội tăng thu nhập và khả năng tích lũy sẽ “đồng hành”
cùng áp lực cao về mức độ cạnh tranh, nguy cơ suy giảm sức khỏe
và bệnh tật, thậm chí đối mặt với rủi ro thiên tai được xem như một
“vòng xoáy” mà mỗi người dân trong đô thị cần cân nhắc giá trị và
mức độ có thể “đánh đổi”, từ đó chọn một hướng đi phù hợp. Nhưng
trên thực tế, không phải tất cả mọi người đều nhận biết nên vẫn còn
một bộ phận người dân trong đô thị đang gặp nhiều khó khăn và rủi
ro bị tổn thương cao khi gặp biến cố, và trách nhiệm này một phần
thuộc về các chuyên gia phân tích và các nhà quản lý, hoạch định
chính sách.
Đối với chính quyền đô thị, việc đảm bảo đô thị phát triển bền vững
- trong đó môi trường sống tốt về mặt tự nhiên, an toàn về mặt sức
khỏe - xã hội và giảm thiểu rủi ro là một trong các nhiệm vụ quan
trọng. Tăng dân số, đầu tư hạ tầng - phát triển các khu đô thị mới - rồi
lại tiếp tục tăng dân số và dẫn đến gia tăng ô nhiễm môi trường sẽ là
“vòng tròn không lối thoát”, mặc dù khoa học công nghệ có phát triển.
Tương tự, đô thị hóa vùng ven sẽ làm giảm khả năng hấp thụ và trữ
nước dẫn đến mực nước nội đô tăng cao, đặt ra yêu cầu cho việc phải
nâng nền các công trình, cải tạo bờ kè, xây cống ngăn triều... Tuy
vậy cũng chỉ là những giải pháp tình thế xử lý cho những chiến lược
không phù hợp về mở rộng và phát triển đô thị. Thay vào đó, nếu vấn
đề căn cơ liên quan đến các yếu tố tác động đến nhập cư (tăng cơ
học) chưa được xem xét và tìm hướng giải quyết phù hợp thì những
giải pháp phía sau (về hạ tầng kỹ thuật, xã hội…) phần lớn chỉ là mang
tính tạm thời để giải quyết “phần ngọn”. Lấy ví dụ, thay vì dùng số
tiền hàng chục nghìn tỷ đồng để mở rộng đường, cải tạo, xây mới hệ

thống hạ tầng kỹ thuật phục vụ giao thông, chống ngập… nhằm giải
quyết hệ quả của dân số tăng nhanh và áp lực đô thị hóa thì số tiền
trên có thể dùng để hỗ trợ công ăn việc làm cho một bộ phận người
dân, đặc biệt là người nghèo đang nhập cư tạm thời tại có thể quay
về vùng nông thôn hay một số đô thị lân cận để phát triển công việc
phù hợp. Bài toán phức tạp sẽ trở thành đơn giản đối các nhà quản lý
và hoạch định chính sách.
Do đó, quy hoạch đầu tư phát triển và hình thành các khu đô thị mới
tại các vùng ven nên có sự tính toán và cân nhắc giữa lợi ích kinh tế
và thiệt hại môi trường cùng những hệ quả theo sau để có những
hướng tiếp cận và giải quyết vấn đề đơn giản hơn. Một số lập luận về
khả năng “giãn dân” của các khu đô thị, “thành phố mới”, nhưng trên
thực tế “vết dầu loang” vẫn tiếp diễn ở các không gian đệm - vùng
ven như hiện nay tại TP.HCM. Điều này có thể liên quan đến tính
thiếu hiệu quả của công tác quy hoạch và quản lý, dựa trên một cơ
chế quy hoạch theo phương thức truyền thống với hệ thống các bản
đồ “dạng phẳng”, trong đó quy hoạch sử dụng đất đóng vai trò chính
nhưng không đủ khả năng chuyển tải hết những ý tưởng quy hoạch,
nhất là về tổ chức không gian theo chiều cao. Bên cạnh đó, việc xây

SË 103+104 . 2020

79


dựng các chính sách quản lý cần dựa trên những nghiên cứu và tính
toán xác định ra các giá trị lượng tính cụ thể làm cơ sở cho việc đề
ra các chính sách. Nếu đô thị chỉ ưu tiên mở rộng diện tích theo diện
rộng mà thiếu cân đối với phát triển chiều cao tại các khu vực đất
thuận lợi thì quá trình đô thị hóa vùng ven dẫn đến những tác động

đến hệ sinh thái tự nhiên (bao gồm cả diện tích mặt nước) là điều khó
tránh khỏi. Và ngược lại, những tác động từ môi trường tự nhiên đến
cuộc sống của con người ngày càng diễn ra phức tạp, như là một hệ
quả tất yếu của quá trình tương tác hai chiều; mà những rủi ro và thiệt
cũng chính là… do con người tạo ra.

4. Kết luận và kiến nghị

Con người là nhân tố cốt lõi trong quá trình hình thành và phát triển
đô thị. Quá trình này cũng gắn liền với tăng dân số, nhất là tăng cơ
học với xu hướng di dân từ các vùng lân cận với mục tiêu mưu cầu
lợi ích kinh tế và tìm kiếm môi trường để phát triển. Đây chính là yếu
tố tiền đề cho các nhà quy hoạch và quản lý đô thị đề ra các mục
tiêu phát triển, mở rộng không gian của rất nhiều đô thị, từ khu trung
tâm cũ (hình thành ở giai đoạn sơ khai) ra các khu vực xung quanh
- vùng ven. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng nhiều khu vực thuộc vùng đất
này đã không được ưu tiên xem xét phát triển khi đô thị mới được hình
thành với nhiều lý do bất lợi liên quan đến điều kiện tự nhiên. Trong
khi đó, việc cải tạo môi trường tự nhiên cục bộ sẽ có tác động đến
sự ổn định và cân bằng của toàn đô thị; và có thể sẽ phải trả giá rất
lớn cho những thiệt hại về con người và tài sản. Do đó, phát triển đô
thị tại các khu vực này chắc chắn cần phải cân nhắc đến các yếu tố
rủi ro về môi trường để giảm thiểu những rủi ro và tác động đến các
cộng đồng định cư mới tại khu vực và toàn đô thị. Hơn nữa, cần xem
xét đến mặt trái của quá trình này là sẽ tiếp đà cho xu hướng tiếp tục
tăng dân số cho toàn đô thị. Đô thị càng tập trung dân cư, thì khi xảy
ra thiên tai, dịch bệnh hay những hệ quả của ô nhiễm môi trường thì
mức độ lan truyền hệ quả kinh tế - xã hội càng cao đến các khu vực
khác (cả trong và ngoài nước). Điều này càng đặt ra thách thức cho
các nhà quy hoạch và quản lý đô thị cần quan tâm hơn đến khả năng

cân bằng phát triển đô thị, mức độ tập trung và phân bố dân số giữa
các đô thị trong một vùng.
Đối với TP.HCM, mở rộng phát triển không gian đô thị tại vùng
ven nếu thiếu kiểm soát và có giải pháp cân bằng hợp lý sẽ phải
đối mặt với:
i) Rủi ro: thiệt hại con người và tài sản khi xảy ra thảm họa thiên tai
(chẳng hạn như ngập lụt), đồng thời tăng mức ô nhiễm môi trường
gây ra bởi khói bụi và tiếng ồn, và khả năng lây lan nhanh, phức tạp
khi xảy ra dịch bệnh;
ii) Thách thức: tạo ra những tác động, hệ lụy đến các khu vực đô thị
đã phát triển ổn định dẫn đến phát sinh nhu cầu cải tạo nâng cấp hệ
thống hạ tầng kỹ thuật, xã hội; trong khi hệ thống quy hoạch vẫn theo
phương thức truyền thống dựa trên nền tảng quy hoạch sử dụng đất
là chính, thiếu những nghiên cứu chuyên sâu về ảnh hưởng và tác
động đến môi trường.
Nếu tăng dân số, mở rộng không gian đô thị là một xu hướng khó
“ngăn chặn” thì những giải pháp căn cơ trong quá trình lập và quản lý
quy hoạch (cả quy hoạch chung của vùng và thành phố) cần:
n Cân đối lại tỷ lệ lao động nhập cư giữa đô thị trung tâm và các đô

80

SË 103+104 . 2020

thị khác trong vùng (TP.HCM) trong đồ án quy hoạch vùng nhằm đạt
được một mức cân bằng phù hợp (trong tầm kiểm soát và khả năng
đáp ứng hạ tầng kinh tế của mỗi đô thị); xem xét cẩn trọng đối với
các đồ án quy hoạch phát triển các khu đô thị mới liên quan đến khả
năng thúc đẩy việc tăng dân số, đồng thời, các quy tắc “hoàn trả môi
trường” (chẳng hạn diện tích mặt nước, cây xanh, mức xả thải không

khí) cần đặt ra rõ ràng và được quản lý chặt chẽ;
n Mở rộng không gian đô thị trong sự hài hòa giữa giải pháp mở rộng

diện tích (cho phép) đô thị hóa và phát triển chiều cao (trên khu vực
đất thuận lợi) song song với những đánh giá tác động và chất lượng
của môi trường trong đô thị, từ đó cần xác định các giá trị ngưỡng
phát triển về dân số tương ứng với mức phát triển của môi trường
tự nhiên;
Tích hợp các kịch bản - giải pháp dự phòng rủi ro (cho tình huống
xấu nhất) làm tiền đề cho các kịch bản phát triển kinh tế linh hoạt
bằng các phương pháp quy hoạch mới (chẳng hạn quy hoạch sử
dụng đất có tính đến yếu tố chiều cao và theo nhiều kịch bản).

n


≥ ki’n Chuy™n gia & Nhµ qu∂n l˝

ngày nhận bài: 29/3/2020
ngày gửi phản biện: 01/4/2020
ngày duyệt đăng: 15/4/2020
Tài liệu tham khaûo:
1. Asia Development Bank – ADB (2010). Ho Chi Minh City Adaptation to Climate
Change. ADB, Philippines, ISBN: 978-971-561-893-9.
2. Bộ Tài nguyên & Môi trường - MNRE (2010). Quy chuẩn Kỹ thuật Quốc gia về tiếng
ồn. QCVN 26:2010/BTNMT.
3. Camagni R., Capello R., Nijkamp P. (1998). Towards sustainable city policy: an
economy–environment technology nexus. Ecol. Econ. 24 (1), pp. 103–118. DOI:
10.1016/S0921-8009(97)00032-3.
4. Cao, D. T. (2017). Phần mềm ứng dụng GIS mô phỏng ô nhiễm tiếng ồn do giao

thông. Tạp chí Môi trường số chuyên đề I.
5. Carey, I. M., Anderson, H. R., Atkinson, R. W., Beevers, S. D., Cook, D. G., Strachan,
D. P., Dajnak, D., Gulliver, J., and Kelly, F. J. (2018). Are Noise and Air Pollution Related
to the Incidence of Dementia? A Cohort Study in London, England. BMJ Open, vol.8(9),
doi: 10.1136/bmjopen-2018-022404.
6. CEDR Project Group Road Noise (2012). Value for Money in Road Traffic Noise
Abatement. Procedia - Social and Behavioral Sciences, Vol.4. DOI: 10.1016/j.
sbspro.2012.06.1112.
7. Dockery, D. W. (2001), Epidemiologic Evidence of Cardiovascular Effects of
Particulate Air pollution. Environmental Health Perspectives, vol. 109, pp. 483-486.
8. Duong, H. H., Nguyen, D. T. C., Nguyen, L. S. P., To, T. H. (2018). Fine Particulate
Matter (PM2.5) in Ho Chi Minh City: Analysis of The Status and The Temporal Variation
Based on The Continuous Data From 2013-2017. Science & Technology Development
Journal: Natural Sciences, Vol 2, Issue 5., pp. 131 -137.
9. Duy P. N. (2015). Khả năng phục hồi nhanh của đô thị: Từ những thảm họa cho đến
các bài học kinh nghiệm trong quá trình quy hoạch và quản lý không gian nhằm giảm
thiểu rủi ro ngập lụt trong đô thị. Quy hoạch đô thị, Vol. 22-2015. Hiệp hội Quy hoạch
phát triển đô thị Việt Nam.
10. Duy P. N., Chapman L., Tight M., Thuong L. V., and Linh P. N. (2017a). Increasing
Vulnerability to Floods in New Development Areas: Evidence from Ho Chi Minh
City. International Journal of Climate Change Strategies and Management, Vol. 10 (1),
pp.197-212. Emerald. DOI: 10.1108/IJCCSM-12-2016-0169
11. Duy P. N., Chapman L., Tight M., Thuong L. V., and Linh P. N. (2017b). Urban
Resilience to Floods in Coastal Cities: Challenges and Opportunities for Ho Chi Minh City
and other Emerging Cities in Southeast Asia. Journal of Urban Planning and Development,
Vol. 44 (01), ASCE. DOI: 10.1061/%28ASCE%29UP.1943-5444.0000419
12. Duy P. N., Chapman L., Tight M. (2018). Resilient Transport System to Reduce Urban
Vulnerability to Floods: A Case Study of Ho Chi Minh City, Vietnam. Travel Behavior
and Society, Vol 15 (2019), pp. 28 – 43. Elsevier. DOI: 10.1016/j.tbs.2018.11.001
13. Duy P. N. (2019a). Developing Flood Resilience Transport System for coastal cities:

A Case Study of Ho Chi Minh City, Vietnam. PhD thesis to University of Birmingham.
URL: />14. Duy P. N. and Proverbs D. (2019b). Những ảnh hưởng của giải pháp bờ kè đối
với vấn đề ngập trong đô thị: Bài học kinh nghiệm cho TP.HCM từ thất bại của các
hệ thống bảo vệ tại một số đô thị trên thế giới. Kỷ yếu hội thảo Quy hoạch và Phát
triển bờ kè sông Sài Gòn, sông và kênh nội thành, pp. 212 – 216. URL: https://qhkt.

hochiminhcity.gov.vn/Media/Uploads/H%C3%ACnh%20H%E1%BB%99i%20
th%E1%BA%A3o%20-%20H%E1%BB%99i%20ngh%E1%BB%8B/2019%20-%20
b%E1%BB%9D%20s%C3%B4ng%20SG%20den%202015/kiyeu_hoithao_bsong%20
SG-%C4%91%C3%A3%20n%C3%A9n.pdf
15. General Statistic Office of Vietnam – GSOV (1976 - 2015). Population of Ho Chi
Minh from 1986 – 2015 (data extracted).
16. Investment and Trade Promotion Center of HCMC (2015). Ho Chi Minh City at A
Glance – 2015 (online). URL: />index_html/?set_language=en
17. Nguyễn, Đ. T. (2007). Xây dựng Bản đồ hiện trạng tiếng ồn tại TP.HCM. Viện Môi
trường & Tài nguyên.
18. Nguyen, T. H. G. and Nguyen, T. K. O. (2014). Roadside Levels and Traffic Emission
Rates of PM2.5 and BTEX in Ho Chi Minh City, Vietnam, Atmospheric Environment,
vol. 94, pp. 806–816.
19. Nicholls, R. J. (2011). A Global Ranking of Port Cities With High Exposure to Climate
Extremes. Climatic Change, Vol. 104, pp. 89-111, doi: 10.1007/s10584-010-9977-4.
20. Phi, H. L. (2013). Urban flood in Ho Chi Minh City: causes and management
strategy. Vietnamese Journal of Construction Planning, Vol. 63, pp. 26-29, Hanoi. (In
Vietnamese).
Steering Center of Flood Control Program of Ho Chi Minh City – SCFC (2016). Flooding
reports for the events in 15th September 2015, and in 26th September 2016.
21. Storch, H. and Downes, N.K. (2011). A scenario-based approach to assess Ho Chi
Minh City urban development strategies against the impact of climate change. Cities,
Vol. 28, pp. 517-526, doi: 10.1016/J.CITIES.2011.07.002.
22. Thinh N.X, Bräuer A. and Teucher V. (2009). Introduction into Work Package Urban

Flooding of the BMBF Megacity Research Project Ho Chi Minh City. Environmental
Informatics and Industrial Environmental Protection: Concepts, Methods and Tools.
Berlin: Shaker Verlag, ISBN: 978-3-8322-8397-1
23. Trân, T. N. H. và Trương T. H. (online). Viết thêm về quy hoạch Coffyn 1862. URL:
/>24. Trương H. T (online). Đô thị hóa vùng ven đô: Nghiên cứu sự biến đổi kinh tế xã hội qua trường hợp xã Bà Điểm (Hóc Môn) và Vónh Lộc A (Bình Chánh). Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân vaên (online). URL: />Seminars/Truong_Do%20thi%20hoa%20vung%20ven%20-%20nghien%20cuu%20
su%20bien%20doi.pdf
25. United Nations (2018). World Urbanisation Prospects – Highlights. New York:
UN. URL: />26. Van T. T., Lan H. T. and Trung L. V (2011). Changes of Temperature on Urban
Surface during Urbanization by Satellite Method: A Case Study of Ho Chi Minh City
(translated from Vietnamese). Journal of Earth Sciences of Vietnam, Vol. 33(3), 347-359
27. Viet, L. V. (2008). The Urbanization and Climate Changes in Ho Chi Minh City.
Proceedings TEDI of the 10th Conference of Res. Inst. Of Hydrology and Environment,
pp. 369 - 375.

SË 103+104 . 2020

81



×