Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Cách tiếp cận mới trong việc xây dựng mô hình làng nghề - du lịch trong các làng nghề truyền thống khu vực Đồng bằng sông Hồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (375.12 KB, 6 trang )

Cách tiếp cận mới

trong việc xây dựng mô hình Làng nghề - Du lịch

trong các làng nghề truyền thống khu vực Đồng bằng sông Hồng
PGS.TS. Phạm Hùng Cường
Đại học Xây dựng

New approach in building a trade village model - Tourism in traditional trade villages
in the Red River Delta
Tourism development orientations, exploitation of cultural values of traditional craft villages have been determined in the socioeconomic development guidelines, tourism planning orientations of many provinces and cities in the Red River Delta. However,
up to now (2019), there are very few successful villages, basically in small and spontaneous tourism craft villages.

This article points out that a new approach or new solution is needed. Changing the way of exploiting the cultural values of the
current profession is spontaneous and fragmented, not paying attention to developing tourism products, considering tourism as
a “follow” factor of professional development, creating many conflict on environment and space between professional production
activities and tourism activities. Study and propose the model of Craft Tourism Village with comprehensive solutions as a
feasible and sustainable new model in effectively exploiting the cultural potentials of traditional craft villages in the Red River
Delta to develop tourism, contributing to socio-economic development and new rural construction. (*)

Định hướng phát triển du lịch, khai thác các giá trị văn hóa của làng nghề truyền thống
đã được xác định trong chủ trương phát triển kinh tế, xã hội, định hướng quy hoạch du
lịch của nhiều tỉnh, thành phố vùng Đồng bằng sông Hồng (ĐBSH). Tuy nhiên đến nay
(2019) có rất ít những làng thành công, cơ bản tại các làng nghề hoạt động du lịch còn
nhỏ, lẻ, mang tính tự phát.
Bài viết này chỉ ra rằng cần thiết phải có cách tiếp cận mới, giải pháp mới. Thay đổi
cách thức khai thác các giá trị văn hóa nghề hiện nay đang tự phát, manh mún, không
chú trọng phát triển các sản phẩm du lịch, coi du lịch là yếu tố “ăn theo” của phát triển
nghề, tạo ra nhiều mâu thuẫn về môi trường, không gian giữa hoạt động sản xuất nghề
và hoạt động du lịch. Nghiên cứu đề xuất mô hình Làng nghề - Du lịch với các giải pháp
đồng bộ như một mô hình mới khả thi, bền vững trong việc khai thác hiệu quả các tiềm


năng văn hóa của các làng nghề truyền thống vùng ĐBSH nhằm phát triển du lịch, góp
phần phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng nông thôn mới. (*)
Từ khóa: Du lịch làng nghề, làng nghề truyền thống, du lịch văn hóa.

Đặt vấn đề

Vùng ĐBSH có khoảng 7.500 làng truyền thống với khoảng
1.500 làng nghề, 11 nhóm nghề trong đó khoảng 300 làng
được công nhận là làng nghề truyền thống. Các làng nghề
truyền thống không chỉ có nghề mà hầu hết còn có nhiều giá
trị về di sản kiến trúc, cảnh quan và các giá trị văn hóa phi vật

128

SË 103+104 . 2020

thể khác. Đây thực sự là tiềm năng quý giá để các làng nghề
phát triển du lịch, đóng góp vào phát triển kinh tế, bảo tồn các
giá trị văn hóa.
Đã có định hướng phát triển cấp quốc gia, đề án về lónh vực
này như: Chương trình Bảo tồn và phát triển làng nghề của


≥ ki’n Chuy™n gia & Nhµ qu∂n l˝

Bộ NN&PTNT năm 2011 có mục tiêu đến
năm 2015 bảo tồn từ 30-40 làng nghề truyền
thống, phát triển 50-70 làng nghề mới gắn
liền với du lịch. Đề án “Chương trình Quốc
gia mỗi xã một sản phẩm - OCOP” giai đoạn

2017-2020, định hướng đến năm 2030 có
mục tiêu phát triển đến năm 2020 có 80-100
làng (bản) văn hóa du lịch đạt tiêu chuẩn từ
3-5 sao; Đề án Chiến lược phát triển sản
phẩm du lịch đến năm 2025, định hướng
2030 của Viện Nghiên cứu phát triển du lịch
- Tổng cục Du lịch (2016) và các định hướng
phát triển du lịch của các tỉnh trong đó có cả
phát triển du lịch tại các làng nghề.(5)
Tuy nhiên hiện nay (2019) mới chỉ có làng
gốm Bát Tràng có hoạt động du lịch khá tốt,
các làng khác hoạt động du lịch ở quy mô
nhỏ. Thuật ngữ “loay hoay tìm ra giải pháp”,
“khai thác chưa hiệu quả”, “cần có một chính
sách bài bản” đang được nhắc đến nhiều
trong các hội thảo, các bài viết nghiên cứu
về thực trạng phát triển làng nghề gắn với du
lịch gần đây.(7)(8)
Tìm hiểu 30 làng có nghề truyền thống trong
phạm vi vùng ĐBSH cho thấy nguyên nhân
của thực trạng trên là:
n Các làng nghề chưa được đánh giá đúng
về mặt tiềm năng phát triển du lịch, quá chú
trọng vào việc đưa khách đến xem, thăm
quan nghề mà chưa giới thiệu được các giá
trị văn hóa khác của làng nghề truyền thống.
Chính vì vậy các sản phẩm du lịch khá đơn
điệu, không hấp dẫn được khách, không có
các hoạt động cuốn hút giữ khách ở lại lâu, vì
vậy doanh thu từ du lịch thấp.

n Cách

làm hiện nay chỉ chú trọng vào khai
thác mà ít chú ý phát triển các sản phẩm du
lịch mới để vừa thu hút khách du lịch, vừa
thúc đẩy sự phát triển các sản phẩm nghề
truyền thống. Thiếu hệ thống sản phẩm du
lịch đồng bộ, không đủ để một làng trở thành
một điểm đến du lịch hấp dẫn.

n Cách

phát triển làng nghề vẫn là tìm cách
phát triển thị trường, chú trọng vào kinh tế
mà chưa nhìn nhận phát triển kinh tế du lịch
cũng là một thế mạnh về phát triển kinh tế
của làng nghề. Việc chỉ quan tâm phát triển
nghề trước du lịch dẫn đến rời xa giá trị văn
hóa, chạy theo sản phẩm thị trường, các giá
trị văn hóa nghề giảm sút. Có hiện tượng ô
nhiễm môi trường, sự lộn xộn trong tổ chức
không gian làng. Kết quả này mâu thuẫn với

điều kiện để phát triển du lịch. Cách phát
triển du lịch như một yếu tố “ăn theo” sự phát
triển của làng nghề không phải là cách làm
tốt, không tạo nên các làng du lịch bền vững.
Có thể thấy khó khăn nhất là chưa có một
mô hình phát triển rõ ràng, đủ thuyết phục
để có thể triển khai từ chủ trương lớn thành

các hành động cụ thể tại các địa phương.
Vì vậy rất cần nghiên cứu tìm tòi những mô
hình mới với cách tiếp cận mới, thay đổi cách
đánh giá về tiềm năng của làng nghề truyền
thống trên góc độ phát triển du lịch.
Các làng nghề truyền thống vùng ĐBSH
hầu hết có lịch sử hình thành khoảng 200500 năm. Cùng với các nghề truyền thống,
nhiều làng còn có các di sản kiến trúc, cảnh
quan, di sản văn hóa phi vật thể phong phú.
Tuy nhiên qua cách khai thác, tổ chức du
lịch cho thấy cách nhận diện, đánh giá giá trị
tiềm năng của làng nghề còn chưa đầy đủ;
Đánh giá, giới thiệu giá trị văn hóa nghề còn
sơ lược. Nhiều nơi cũng chỉ mới giới thiệu
được quy trình sản xuất, tổ chức một vài hoạt
động trải nghiệm (chủ yếu là nghề gốm),
các giá trị khác như lịch sử của nghề, tinh
hoa của nghề qua các quy trình sản xuất thủ
công, đồ lưu niệm từ nghề, các giá trị văn
hóa tinh thần, tập quán của cộng đồng hình
thành từ nghề vẫn chưa được nhận diện và
giới thiệu. Đặc biệt nhiều nghề truyền thống
tuy đã mai một nhưng tính biểu tượng của
nó đã đi vào tiềm thức của cộng đồng như
lụa Vạn Phúc, gốm Hương Canh, nón lá
làng Chuông, giò chả Ước Lễ... chưa được
đánh giá đúng như một giá trị thương hiệu để
quảng bá du lịch.
Chưa nhận diện và đánh giá giá trị văn hóa
làng tích hợp, đầy đủ. Các giá trị văn hóa

di sản kiến trúc như đình, chùa, miếu, cảnh
quan, các giá trị văn hóa phi vật thể khác
thể hiện giá trị của làng truyền thống, một
mô hình cộng đồng có giá trị sinh thái - nhân
văn phát triển hàng ngàn năm chưa được
nhận diện để khai thác giới thiệu. Lịch sử
của làng, phong tục tập quán tiêu biểu cho
văn hóa của người Việt có thể mang đến cho
du khách những câu chuyện hấp dẫn không
kém gì những trải nghiệm nghề.(2)(3)
Cần nhận thức đúng rằng giá trị văn hóa
nghề chỉ là một phần trong giá trị văn hóa
làng, văn hóa của nghề và văn hóa làng
nghề là hai giá trị không thể tách rời.

Việc nhìn nhận các giá trị di sản văn hóa
cũng chưa được nhìn nhận trên khía cạnh
sản phẩm du lịch. Ví dụ như cảnh quan
đẹp, thanh bình, mang bản sắc làng quê dù
là mới tạo lập đối với khách du lịch hấp dẫn
hơn là một di sản nhiều năm tuổi nhưng để
trong môi trường lộn xộn thiếu thẩm mỹ.
Yếu tố mới lạ về văn hóa, cảnh quan đối
với các đối tượng khách khác nhau, trong
nước, quốc tế chưa được đánh giá. Đây là
bài học rút ra từ trường hợp du lịch làng quê
Yên Đức (Đông Triều, Quảng Ninh). Làng
không có nhiều di tích cấp quốc gia, di sản
cổ kính, không có nghề thủ công truyền
thống nhưng với cảnh quan tổng thể làng

quê được gìn giữ, giới thiệu tốt cũng rất hấp
dẫn khách du lịch. Có nhiều nghiên cứu về
di sản phi vật thể trong làng, nhưng để biến
nó thành sản phẩm du lịch chứ không phải
là kết quả nghiên cứu thì chưa được đánh
giá làm rõ.
Có thể nói, tiềm năng của di sản làng nghề,
với văn hóa nghề, văn hóa làng hiện nay như
là những viên ngọc quý chưa được mài giũa
để tỏa sáng.
Hạn chế của tiềm năng
Tính phân tán, quy mô nhỏ, còn ít làng có
giá trị văn hóa tích hợp cao là một hạn chế
để phát triển làng trở thành điểm đến du lịch.
Có làng có nghề phát triển, nghề có giá trị
văn hóa cao thì các giá trị di sản, cảnh quan
lại không nổi bật, kiến trúc mới, cảnh quan
mới chiếm đa phần. Ví dụ như làng nghề
mây tre đan Phú Vinh (xã Phú Nghóa, huyện
Chương Mỹ, thành phố Hà Nội), cảnh quan
thiếu bản sắc của làng quê, ít di sản được
công nhận là di tích. Có làng có giá trị di sản,
cảnh quan khá tốt nhưng nghề đang gặp khó
khăn như làng nghề Cựu may comple (xã
Vân Từ, huyện Phú Xuyên), làng nghề đan
đó Nội Lăng, Tất Viên (xã Thủ Sỹ, huyện
Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên).(3)
Số lượng các làng có giá trị tích hợp cao
không nhiều. Qua nghiên cứu đánh giá tiềm
năng cả về văn hóa nghề và các di sản trong

30 làng nghề truyền thống trong vùng ĐBSH
(ngoài làng gốm Bát Tràng) chỉ có một số
làng như làng may Cựu, làng giò chả Ước Lễ
(Hà Nội), làng gốm Phù Lãng (Bắc Ninh) là
những làng có giá trị tiềm năng nhất. Nhóm
kế tiếp là làng nón Chuông, mây tre đan Phú
Vinh, chế biến thực phẩm Cự Đà (Hà Nội),
làng đan đó Nội Lăng, Tất Viên (xã Thủ Sỹ,

129

SË 103+104 . 2020


Hưng Yên), làng tranh Đông Hồ (Bắc Ninh),
làng cây cảnh Bách Thuận (Thái Bình), làng
mỳ chũ Hội Yên (Xã Chi Lăng Nam, Thanh
Miện, Hải Dương). Còn nhiều làng khác giá
trị văn hóa nghề, di sản kiến trúc, cảnh quan
không thật đặc sắc, bị tác động đô thị hóa,
môi trường kém nên khó phát triển thành
một điểm du lịch hoàn chỉnh.
Du lịch làng chịu sự cạnh tranh về thị trường
khách du lịch trong vùng ĐBSH. Về mặt văn
hóa truyền thống dân cư, so với các làng
ở miền núi như Hòa Bình, Sa Pa, các làng
vùng ĐBSH đã suy giảm bản sắc hơn kể cả
về văn hóa, cảnh quan thiên nhiên. Để tôn
vinh, khôi phục các bản sắc văn hóa phải
đầu tư nhiều hơn. Việc chia sẻ lợi ích, tạo

sự công bằng với cả một cộng đồng làng, xã
vốn đông dân cư (vài ngàn đến hàng chục
ngàn người), so với các làng bản nhỏ ở miền
núi gặp khó khăn hơn nhiều.
Nhiều làng nghề đã bảo tồn được nghề, đang
phát triển như các làng nghề bạc Châu Khê
(Hải Dương), đồ đồng Đại Bái (Bắc Ninh),
chạm khắc đá Ninh Vân (Ninh Bình) lại có môi
trường kém, ô nhiễm. So với các cảnh quan,
môi trường đẹp, trong lành ở vùng biển, miền
núi nước ta đây là một hạn chế lớn. Một số bài
báo ca ngợi vẻ đẹp cảnh phơi bánh đa trên
đường làng ở làng Cự Đà (Hà Nội), nhưng
đứng về mặt vệ sinh an toàn thực phẩm, cách
làm đó là không phù hợp, gây phản cảm với
khách du lịch, nhất là khách quốc tế.
Rất cần sự đánh giá đúng giá trị để thấy hết
khó khăn, thuận lợi, biết phát huy thế mạnh
và khắc phục hạn chế của các giá trị tiềm
năng này.

Các đặc điểm tích cực, hạn chế
của một số mô hình hoạt động du
lịch nông thôn hiện nay

Qua một số hoạt động du lịch nông thôn có
liên quan đến làng truyền thống cho thấy đã
có các hình thức sau:
q Hoạt động thăm quan trải nghiệm: Thăm
quan các hộ gia đình làm nghề. Các đơn vị

tổ chức du lịch liên hệ trực tiếp với các hộ
gia đình, thường chọn một vài hộ (làng mây
tre đan Phú Vinh, làng gốm Phù Lãng). Chỉ
khai thác được một vài khía cạnh giá trị của
văn hóa nghề.
Khai thác sản phẩm du lịch từ văn hóa
nông nghiệp: Thăm quan cảnh quan ngoài

q

130

SË 103+104 . 2020

làng, các hoạt động trải nghiệm văn hóa
nông nghiệp tổ chức ở các trang trại du lịch
sinh thái, các “làng du lịch”, tại khu vực ít ảnh
hưởng đến điểm dân cư. Các giá trị văn hóa
thường dùng thủ pháp tái hiện, không dùng
các giá trị gốc. Ví dụ như khu du lịch sinh thái
Đồi Thông, Quang Huy nằm cạnh xã Cần
Kiệm (huyện Thạch Thất, Hà Nội), khu du
lịch Long Việt (Ba Vì, Hà Nội) tái hiện các
kiến trúc, cảnh quan làng cổ.
Cách làm này đã bước đầu tạo nên sự quan
tâm của du khách tới các làng truyền thống,
tới du lịch văn hóa nông thôn. Có hạn chế là
không khai thác được hết các giá trị di sản ẩn
chứa, nằm bên trong làng. Nhưng đây cũng
là cách né tránh các khó khăn khi phải vận

động cộng đồng, phải xin ý kiến đồng thuận
của nhiều người. Cách làm này tuy có sự chủ
động của doanh nghiệp du lịch nhưng không
mang lại lợi ích trực tiếp đến cho cộng đồng
do cộng đồng ít được tham gia.
Một số điểm du lịch, khu du lịch, có tên “làng
du lịch” nhưng thực chất là các khu du lịch
đơn thuần đặt cạnh làng truyền thống, cạnh
các trung tâm thắng cảnh lớn, không hình
thành từ giá trị gốc của văn hóa làng (Ví dụ:
Làng “Việt cổ Cổ Văn Lầu” ở Ninh Bình). Mô
hình này khó hấp dẫn khách quốc tế vốn coi
trọng các giá trị văn hóa gốc.
Nhìn chung những cách làm trên là cách làm
manh mún, không tạo nên sự phát triển bền
vững, nhiều doanh nghiệp du lịch đã thất bại
khi đầu tư theo cách này.

Lựa chọn mô hình phát triển từ
kinh nghiệm quốc tế

Có nhiều mô hình du lịch trong làng truyền
thống các nước đã thực hiện thành công. Có
ba xu hướng chính:
n Với các làng miền núi, hải đảo hoặc vùng
cư dân thưa, văn hóa còn đậm bản sắc, cảnh
quan thiên nhiên rộng dễ phát triển du lịch
văn hóa, du lịch cộng đồng thành công. Ví dụ
như Làng mây tre đan Bang Chao Cha, Pho
Thong, Ang Thong - Thái Lan; Làng nghề

truyền thống gỗ da cá sấu Kemenuh Mas,
khu làng cổ nhất của đảo Bali, Indonesia với
hơn 1.000 năm tuổi; Làng nghề truyền thống
rượu, gốm Aritayaki tại Nhật Bản.
n Với

các làng dân cư đông, có thể khoanh
vùng riêng một khu vực làm du lịch, tách
khỏi cuộc sống thông thường hoặc tái hiện

lại hoàn toàn. Ví dụ như Làng nghề Yongin ở
Hàn Quốc; Không gian dịch vụ du lịch làng
tre ở tỉnh Tứ Xuyên - Trung Quốc.
n Với

các làng có nhiều di sản kiến trúc, với
mục tiêu bảo tồn cao, có thể di một phần
hoặc toàn bộ dân, nhà nước mua lại, thiết
lập lại cách ở mới kết hợp làm du lịch như
Làng cố Hoành Thôn, An Huy - Trung Quốc.
Cách làm này chủ động trong tổ chức tạo
cảnh quan, bảo tồn và khai thác du lịch.
Cả ba cách này đều cần có sự đầu tư, phối
hợp quản lý, tạo lập các sản phẩm du lịch
đồng bộ. Tuy nhiên, không thể vận dụng
thuần túy cho cho làng nghề truyền thống
vùng ĐBSH. Bởi sự khác biệt của giá trị di
sản, hoàn cảnh xã hội địa phương, của các
dân tộc mỗi quốc gia.
Bài học rút ra trong sự thành công nói chung

của các làng phát triển du lịch cộng đồng,
du lịch văn hóa trên thế giới đó là sự quan
tâm đến việc tạo lập các mô hình bài bản với
sản phẩm du lịch có bẳn sắc, đa dạng, các
không gian cảnh quan đều được quan tâm
thiết kế, tạo lập, môi trường sạch sẽ, quản
lý chặt chẽ.
Quan điểm hình thành mô hình Làng nghề
- Du lịch
Từ thực tiễn, tiềm năng của các làng nghề,
quan điểm là phải có sự lựa chọn để hình
thành mô hình Làng nghề - Du lịch, gắn mục
tiêu phát triển nghề truyền thống với mục
tiêu phát triển du lịch ngay từ ban đầu, tích
hợp khai thác thế mạnh tiềm năng của cả
văn hóa nghề truyền thống và các di sản
văn hóa khác trong làng để phát triển du
lịch, đồng thời lấy du lịch để phát triển nghề
truyền thống.
Hai mục tiêu phát triển nghề - phát triển du
lịch thực hiện song hành sẽ đạt được mục
tiêu vừa phát triển kinh tế, vừa bảo tồn được
các giá trị văn hóa nghề, di sản truyền thống.
Đây là việc kết hợp để xây dựng mô hình
kinh tế văn hóa, lấy văn hóa là một tiềm lực
để phát triển.

Nguyên tắc

n Xây dựng mô hình du lịch văn hóa, du lịch

cộng đồng. Lấy giá trị văn hóa làng truyền
thống là gốc. Không tách biệt dân cư khỏi
làng để làm du lịch hoặc xây dựng “làng du
lịch” mới hoàn toàn, xa rời văn hóa gốc.


≥ ki’n Chuy™n gia & Nhµ qu∂n l˝

n Có

mục tiêu phát triển nghề - du lịch đồng
bộ. Khi phát triển nghề phải định hướng
ngay cho phát triển du lịch. Xác định phát
triển du lịch tốt sẽ thúc đẩy việc gìn giữ các
giá trị văn hóa nghề truyền thống.

n Khai thác được thế mạnh văn hóa nghề,
sáng tạo các giá trị mới cho sản phẩm. Đây
chính là cách làm khác biệt với quan điểm
phát triển kinh tế làng nghề đơn thuần. Các
sản phẩm của nghề khi được phát triển sáng
tạo trên các tiềm năng văn hóa nghề, sản
phẩm truyền thống chính là cơ sở để tạo sản
phẩm du lịch văn hóa. Đây đang là khâu yếu
nhất trong các làng nghề hiện nay, các nghề
truyền thống đang khó cạnh tranh với các
sản phẩm tương tự sản xuất bởi công nghệ
mới, vật liệu mới.

Mỗi một loại nghề, sản phẩm phải có sự

sáng tạo riêng, đặc biệt là sự tham gia của
các nhà thiết kế (designer), các họa sỹ, tạo
dáng công nghiệp... góp sức để sản phẩm
nghề có thêm các loại hình mới. Sự khởi sắc
ở các làng nghề gốm Bát Tràng, Phù Lãng
đã minh chứng cho sự quan trọng của việc
sáng tạo ra các sản phẩm mới cho nghề
truyền thống.
Hình dưới đây minh họa khả năng phát triển
các sản phẩm truyền thống từ loại đó bắt tôm
cá được đan ở làng Nội Lăng, Tất Viên (xã
Thủ Sỹ, Hưng Yên) thành đồ lưu niệm, sản
phẩm tiêu dùng mới.
n Khai thác được tất cả các giá trị văn hóa
truyền thống của văn hóa làng, văn hóa vùng
ĐBSH, chú trọng tạo lập giá trị tích hợp. Đây
là quan điểm khác biệt với cách nhiều nơi
đang khai thác làng nghề làm du lịch hiện
nay, thường chỉ đưa khách đến thăm quan
nơi sản xuất mà thiếu sự giới thiệu về các giá
trị văn hóa khác của làng thể hiện qua các di
sản kiến trúc như đình chùa, miếu, nhà cổ và
các di sản văn hóa phi vật thể khác của làng.

Tính đa dạng của các giá trị sẽ tạo nên sự đa
dạng về sản phẩm du lịch, cũng là điều kiện
để tổ chức các hoạt động du lịch thành công.
Cần giới thiệu cả văn hóa làng và văn hóa
vùng ĐBSH, các sản phẩm đặc sản OCOP
của vùng (theo chương trình quốc gia “mỗi

xã một sản phẩm”). Ví dụ biểu diễn múa rối
nước, hát chèo là văn hóa không chỉ riêng
của làng nào mà là văn hóa chung của vùng,
đều có thể tạo lập và giới thiệu ở nhiều làng.

Các sản vật ẩm thực, hoa quả của vùng
ĐBSH đều có thể giới thiệu được ở làng.
Chú trọng khai thác các giá trị di sản nổi
bật, đã có thương hiệu. Ví dụ cùng nhóm
mây tre đan nhưng nón lá làng Chuông đã
có thương hiệu, gắn liền với văn hóa, hình
ảnh phụ nữ Việt Nam, rất có thể mạnh để
tạo bản sắc riêng.
n Thiết lập được các Bộ sản phẩm du lịch
dựa trên các giá trị tiềm năng có sáng tạo.
Không thể khai thác các làng nghề như một
thứ tài nguyên sẵn có. Các tài nguyên văn
hóa này khẳng định hiện mới là tiềm năng,
cần phải thiết lập sáng tạo, có đầu tư để trở
thành các bộ sản phẩm du lịch có tính sáng
tạo, bền vững, khai thác lâu dài.

Bộ sản phẩm du lịch phải phong phú, đúng
với nhu cầu của sản phẩm du lịch, bao hàm
hết các nhu cầu của khách như thăm quan,
trải nghiệm, vui chơi, ẩm thực, lưu trú. Có
bốn nhóm sản phẩm du lịch cần thiết lập là:
Nhóm sản phẩm du lịch văn hóa nghề
truyền thống: Khai thác đủ các khía cạnh
lịch sử phát triển nghề, các quy trình sản

xuất đặc biệt, tinh hoa của sản phẩm, giá trị
văn hóa cộng đồng, các tập quán hình thành
cùng với nghề. Có cả sản phẩm thăm quan
và sản phẩm trải nghiệm học tập, khảo cứu.

Mẫu 1
Mẫu đan làm đồ lưu niệm. Từ hình chiếc đó
truyền thống có khoét 2 chỗ để hom, trong
2 hom này đặt 2 túi đựng mạ gieo, khi tưới
nước mạ sẽ mọc xanh. Gợi nhớ hình ảnh
các khóm mạ vùng lúa nước ĐBSH.

Mẫu 2
Mẫu Khay hoa quả: Đan làm đồ lưu niệm và
đồ bày hoa quả. Là mẫu đó bắt cá được cải
biên mẫu để đựng được hoa quả. Hoa quả
đựng trong mẫu bán kèm vào mùa hè sẽ là
Nhãn lồng, đặc sản của Hưng Yên.

n

Nhóm sản phẩm du lịch văn hóa nghề
nông: Khai thác khía cạnh tìm hiểu phương
thức sản xuất truyền thống, trải nghiệm kinh
nghiệm làm nông, đánh bắt tôm cá, tát nước,
thăm quan đồng ruộng, vườn rau hoa, hiểu
về các giá trị phi vật thể của văn hóa nghề
nông đối với cuộc sống cộng đồng làng. (6)

n


n Nhóm sản phẩm du lịch các di sản kiến trúc,
cảnh quan. Đây là khối lượng di sản lớn, nhất
là mô hình làng vùng ĐBSH là mô hình cư trú
đặc thù, khác với các vùng khác, có cổng, lũy
tre, cây đa, đình, chùa, miếu, nhà cổ, vườn
nhà, giếng, ao làng cầu đá, chợ, quán... nhiều
di sản được công nhận là di tích.
n Nhóm sản phẩm văn hóa phi vật thể: Ẩm
thực, nghệ thuật biểu diễn, trang phục, tập
quán, lễ hội...

Như vậy dù là làng nghề truyền thống, cần
xác định văn hóa nghề chỉ là một loại hình
tạo lập sản phẩm du lịch. Trong các nhóm

Mẫu 3
Mẫu nghệ thuật sắp đặt. Là tổ hợp 5 con
cá tạo hình từ đó đan. Kích thước tổ hợp
khoảng 1,5m x 1,2m. Để trưng bày tại các
vườn, trên mặt nước.

Mẫu 4
Chùm đèn làm bằng đó bắt cá. Là tổ hợp
của các đó truyền thống, liên kết bằng
khung thép, thân bằng tre. Có thể đặt đứng
độc lập, bên trong có đèn. Làm đèn vườn,
đặt dọc lối đi. Cao khoảng 2,1m.
Hình 1. Sản phẩm đan “đó” được phát triển
thành đồ lưu niệm, đèn trang trí.


sản phẩm này, các bộ sản phẩm cụ thể như
thăm quan, trải nghiệm nghề, ẩm thực, trò
chơi, đồ lưu niệm, khảo cứu, thăm quan học
tập... cần được thiết lập cụ thể.

131

SË 103+104 . 2020


Khi có nhiều bộ sản phẩm du lịch sẽ níu
chân du khách lâu hơn, khách chi trả nhiều
hơn. Tạo nên hiệu quả của việc tổ chức hoạt
động du lịch.
Phải tích hợp không gian du lịch trong
quy hoạch xây dựng, tổ chức không gian
làng, xã.

n

Các xã có làng nghề đã có Quy hoạch xây
dựng nông thôn mới phải có nghiên cứu
để điều chỉnh, bổ sung các không gian du
lịch nếu có định hướng phát triển theo mô
hình. Nhiều không gian phải được thiết kế,
tạo lập có bản sắc theo mục tiêu phục vụ
khách du lịch.
Có tối thiểu 16 loại hình không gian du lịch
cần được thiết lập, gắn kết với đồ án Quy

hoạch xây dựng nông thôn.

Nhược điểm: Số lượng hộ gia đình thực sự
làm du lịch chưa nhiều. Doanh nghiệp có vai
trò quyết định nên nếu một doanh nghiệp đó
đổi mô hình hoạt động có thể làm ảnh hưởng
đến sự phát triển bền vững của mô hình.
Các nơi khác khó học tập được mô hình này.
Nguồn khách chưa đa dạng, các sản phẩm
du lịch còn thiếu (đồ lưu niệm, các sản phẩm
OCOP).
Mô hình dạng B: Mô hình Hợp tác xã (HTX)
dịch vụ du lịch
Thiết lập HTX dịch vụ du lịch, huy động
các gia đình, doanh nghiệp đầu tư, doanh
nghiệp lữ hành tham gia. HTX đề ra các quy
định hoạt động chung, hỗ trợ đầu tư giữa các
thành viên, kiểm soát chất lượng chung.
q Đầu tư thiết lập các bộ sản phẩm du lịch.
Đầu tư cơ sở vật chất ban đầu tại cơ sở du

lịch. Do từng đơn vị doanh nghiệp, hộ gia
đình đầu tư. HTX có vai trò kết nối, tổ chức
thực hiện theo đề án phát triển.
q Đầu tư hạ tầng và duy trì chất lượng các
không gian du lịch chung: Do chính quyền
địa phương phối hợp HTX, các đơn vị dịch
vụ du lịch.
q Kiểm


soát chất lượng dịch vụ du lịch: HTX
là đầu mối kiểm soát chất lượng chung.
Trung tâm dịch vụ du lịch trong HTX có vai
trò điều phối các tua chính. Các tua khách
lẻ do các điểm dịch vụ tự quản lý. Các điểm
dịch vụ cùng HTX xây dựng thị trường khách
hàng.
Mô hình này có ưu điểm huy động được
nhiều thành phần cộng đồng dân cư tham

Trong nhóm các không gian này, Trung tâm
dịch vụ du lịch là loại hình hầu như chưa có ở
các làng, vì vậy phải có quỹ đất dự kiến trong
quy hoạch để hình thành.
Các không gian đường làng, không gian khu
bán hàng lưu niệm, không gian trải nghiệm
trong hộ gia đình... đều phải được thiết kế tạo
lập bản sắc, phù hợp với yêu cầu của bộ sản
phẩm du lịch.
n Hình thành bộ máy quản lý phù hợp, cách
thiết lập phù hợp.

Có hai cách thiết lập và quản lý, vận hành
mô hình có thể lựa chọn.

Hình 2. Sơ đồ các không gian hoạt động du lịch chủ yếu trong làng nghề

Mô hình dạng A: Mô hình tập trung (tham
khảo mô hình du lịch làng quê của làng
Yên Đức - Đông Triều, Quảng Ninh).

Trung tâm dịch vụ du lịch có vai trò điều
phối toàn bộ hoạt động du lịch của làng, do
một doanh nghiệp thực hiện. Doanh nghiệp
quản lý tất cả các tua thăm quan, phân bố
khách đến các điểm dịch vụ, là đơn vị đầu
tư chính cho việc tổ chức các không gian du
lịch, quản lý chất lượng du lịch tại tất cả các
điểm thăm quan.
Việc đầu tư ban đầu hạ tầng chung của làng
do chính quyền địa phương và Trung tâm
cùng phối hợp. Mô hình này có ưu điểm là
có sự kiểm soát tốt về chất lượng, sự đầu tư
hệ thống sản phẩm, chủ động về khách do
có một doanh nghiệp du lịch lớn (Công ty du
thuyền Đông Dương) tạo lập, kết nối khách
từ Hà Nội - Hạ Long đi qua.

132

SË 103+104 . 2020

Hình 3: Minh họa cách tổ chức cảnh quan du lịch đường làng, cầu, quán


≥ ki’n Chuy™n gia & Nhµ qu∂n l˝
gia, không bị phụ thuộc vào một doanh
nghiệp. Tuy nhiên, phải có đề án phát triển

Trong quá trình lập đề án phát triển phải có
kế hoạch, mục tiêu kết nối với các tua, tuyến


Kết luận

Chuyển đổi một phương thức hoạt động kinh
tế từ nghề nông, nghề thủ công đơn thuần
của các làng nghề truyền thống sang kết
hợp hoạt động du lịch, một phương thức hoạt
động kinh tế văn hóa đòi hỏi phải có nghiên
cứu, thiết lập mô hình rõ ràng, có đầu tư và
quản lý vận hành bền vững.
Mô hình Làng nghề - Du lịch với các nguyên
tắc phát triển, khai thác được các thế mạnh
của nghề, của làng, của văn hóa làng, văn
hóa vùng cùng với các mô hình quản lý phù
hợp sẽ là một mô hình bền vững, đủ cơ sở để
có thể thiết lập đề án phát triển du lịch cho
các làng cụ thể có nhiều tiềm năng.
Rất cần sự quan tâm đầu tư của nhà nước,
chương trình phát triển nông thôn, của các
địa phương có làng nghề nhiều tiềm năng,
xây dựng thí điểm theo mô hình để từ đó có
thể nhân rộng trong vùng ĐBSH.
NGÀY NHẬN BÀI: 02/4/2020
NGÀY GỬI PHẢN BIỆN: 03/4/2020
NGÀY DUYỆT ĐĂNG: 18/4/2020.

Hình 4. Minh họa không gian thăm quan và trải nghiệm nghề trong hộ gia đình

rõ ràng, có sự đầu tư ban đầu của doanh
nghiệp nòng cốt và chính quyền địa phương.

Mỗi một mô hình quản lý đều liên quan đến
hiệu quả khai thác không gian và vận hành
du lịch. Việc lựa chọn mô hình nào cần có
sự trao đổi cụ thể với địa phương, cộng đồng
để có giải pháp phù hợp. Dù là mô hình nào
cũng phải đảm bảo hình thành được nhiều
nhất các sản phẩm du lịch, khai thác được
hết các tiềm năng về di sản, làng nghề.
q Kết nối vùng và liên kết trong quy hoạch
du lịch vùng, tỉnh.

điểm du lịch trong vùng và trong tỉnh. Gắn
kết trong quy hoạch du lịch vùng, tỉnh. Trong
những giai đoạn đầu khi chưa có thương
hiệu, việc kết nối tuyến điểm du lịch với các
Khu du lịch lớn đô thị lớn như: Hà Nội, Ninh
Bình, Hạ Long, Sa Pa rất quan trọng để đảm
bảo có lượng khách thường xuyên.
Việc kết nối các sản phẩm vùng trong một
tổng thể quy hoạch du lịch cũng để đảm bảo
các sản phẩm du lịch trong một tỉnh không
bị trùng lặp giữa các làng, mỗi làng phải phát
triển theo thế mạnh, tạo bản sắc, thương
hiệu du lịch riêng.

Ghi chú:
* Bài báo cám ơn sự hỗ trợ của đề tài:” Nghiên cứu
xây dựng mô hình làng nghề - du lịch và làng di sản du lịch khu vực ĐBSH nhằm góp phần phát triển kinh
tế xã hội và xây dựng nông thôn mới” của Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn, năm 2018-2020.

1. Phạm Hùng Cường. Nhận diện giá trị di sản trong
công tác bảo tồn. Tạp chí Kiến trúc (trang 26-30), số
282 - tháng 10/2018.
2. Phạm Hùng Cường. Bảo tồn thích ứng các di sản
làng xã truyền thống trong quy hoạch nông thôn
mới. Tạp chí Kiến trúc (trang 34-38), số 294 - tháng
10/2019.
3. Lê Quỳnh Chi (2017). Phát triển du lịch cộng đồng
tại làng truyền thống ngoại thành Hà Nội - Lấy làng
Cựu làm trường hợp nghiên cứu. Tạp chí Khoa học
Công nghệ Xây dựng, Tập 11 số 5 - tháng 09/2017.
4. Viện Nghiên cứu phát triển du lịch - Tổng cục Du
lịch (2016). Đề án chiến lược phát triển sản phẩm du
lịch đến năm 2025, định hướng 2030.
5. Đề án “ Chương trình Quốc gia mỗi xã một sản
phẩm - OCOP” Giai đoạn 2017-2020, định hướng đến
năm 2030.
6. Liên hiệp Khoa học phát triển Du lịch bền vững
(STDE). Đề tài: “Nghiên cứu phát triển sản phẩm du
lịch tại di tích làng cổ Đường Lâm”. Đề tài NCKH cấp
thành phố Hà Nội, năm 2014.
7. Vân Anh - Mỹ Linh - Đặng Ngân. Làng nghề truyền
thống trong cơn lốc thị trường. Trang web: https://
baomoi.com/lang-nghe-truyen-thong-trong-con-locthi-truong/c/25824937.epi. Truy cập: QĐND26/04/18
10:34 GMT+712 liên quan Gốc
8. Giang Nam. Giúp làng nghề thích ứng nhu cầu
mới và tiếp tục phát triển. Trang web:http://www.
nhandan.com.vn/nation_news/item/39947902-giuplang-nghe-thich-ung-nhu-cau-moi-va-tiep-tuc-phattrien.html. Truy cập: Thứ Ba, 23/04/2019, 01:48:52

133


SË 103+104 . 2020



×