Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

VỘI VÀNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.01 KB, 13 trang )

HƯỚNG DẪN LẬP DÀN Ý PHÂN TÍCH 13 CÂU THƠ ĐẦU
BÀI THƠ VỘI VÀNG (XUÂN DIỆU)
1. PHÂN TÍCH ĐỀ
- Dạng bài: phân tích một đoạn thơ.
- Vấn đề nghị luận: nội dung, nghệ thuật của 13 câu đầu bài Vội vàng.
- Phạm vi dẫn chứng, tư liệu: các căn cứ, hình ảnh, chi tiết,... thuộc phạm vi 13 câu
thơ đầu bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu.
2. XÁC LẬP LUẬN ĐIỂM, LUẬN CỨ
- Luận điểm 1: Khao khát lưu giữ vẻ đẹp của thiên nhiên (4 câu đầu)
– Phép điệp “tôi muốn” kết hợp với động từ mạnh “tắt, “buộc”: ước muốn, khát khao mãnh liệt,
muốn đoạt quyền tạo hóa
- Thể thơ năm chữ, nhịp thơ nhanh, dứt khoát, phù hợp với khát vọng cháy bỏng của Xuân Diệu

– Mục đích:
+ “Cho màu đừng nhạt mất”
+ “Cho hương đừng bay đi”
=> Muốn lưu giữ hương sắc của cuộc đời
-Lối thơ vắt dòng: bộc lộ ước muốn chân thành, mãnh liệt
– Chân dung cái tôi xuất hiện trực tiếp: đặc trưng của thơ mới

- Luận điểm 2: Bức tranh mùa xuân tuyệt đẹp (7 câu tiếp)
+ Điệp ngữ “này đây”: giới thiệu, mời gọi mọi người đến với cảnh sắc của khu vườn
nơi trần thê. Tất cả như bày sẵn , ngay trong tầm với
+ Liệt kê “ong bướm”, “hoa”, “đồng nội”, “ cành tơ”, “yến anh”: bức tranh sống
động, rực rỡ màu sắc, rộn rã âm thanh, tràn đấy sức sống
+ Điệp từ “của” kết hợp với các hình ảnh gợi tả “tuần tháng mật “, “khúc tình si”,
…. khiến khu vườn xuân trở thành khu vườn tình ái
+ Hình ảnh “ánh sáng chớp hàng mi” là một hình ảnh nhân hóa táo bạo
+ Hình ảnh so sánh đặc biệt “tháng giêng ngon như một cặp môi gần”: nghệ thuật
ẩn dụ chuyển đổi cảm giác mang đến vị của tháng năm, vị của thời gian, mùa xuân
- Luận điểm 3: Tâm trạng của thi sĩ (2 câu tiếp)


+ Xuân Diệu nhìn sự sống dưới lăng kính của tình u và tuổi trẻ
+ Nhà thơ đắm say, giao hòa cùng vạn vật
+ Cảm giác tiếc nuối thời gian (trích thơ)
=> Đoạn thơ bộc lộ quan niệm mới mẻ của Xuân Diệu
+ Quan niệm nhân sinh: cuộc sống trên trần thế là một thiên đường nới mặt đất
+ Quan niệm thẩm mỹ: chuẩn mực của mọi cái đẹp trên thế gian là con người


VĂN MẪU

4. CHI TIẾT DÀN Ý PHÂN TÍCH 13 CÂU THƠ ĐẦU BÀI VỘI VÀNG
Dàn ý mẫu 1
a) Mở bài:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm:
+ Xuân Diệu là nhà thơ của mùa xuân, tình yêu và tuổi trẻ, một trong những nhà
thơ lớn của Việt Nam nổi tiếng từ phong trào Thơ mới.
+ "Vội vàng" là một trong những bài thơ xuất sắc nhất thể hiện tình yêu cuộc
sống tha thiết, quan niệm nhân sinh mới mẻ của Xuân Diệu.
- Khái quát nội dung 13 câu đầu Vội vàng : Ước muốn táo bạo cùng tâm trạng hân
hoan chào đón nhưng rồi lại vội vàng và cuống quýt trước sự trôi chảy của thời gian.E
b) Thân bài:
* Luận điểm 1: Khao khát lưu giữ vẻ đẹp của thiên nhiên
- Trong thơ ca trung đại ít có nhà thơ nào dám khẳng định cái tơi cá nhân của mình
một cách táo bạo nhưng khi đến với phong trào Thơ mới, cái tôi Xuân Diệu đã bộc lộ
một cách vô cùng độc đáo:
"Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi".
+ Mùa xuân là mùa tươi đẹp nhất trong năm cũng như tuổi trẻ là khoảng thời gian đẹp

nhất trong cuộc đời mỗi con người.
+ Bốn dịng thơ ngũ ngơn như lời đề từ của bài thơ, khẳng định ước muốn đoạt quyền
tạo hóa của thi nhân.
+ "Nắng" mùa xuân là ánh sáng rực rỡ, ấm áp và tươi vui, "hương" mùa xuân là nơi
tinh hoa của đất trời, của vạn vật kết tinh, hội tụ.
+ Hành động "tắt nắng", "buộc gió" là những mong muốn dường như không tài nào
thực hiện được bởi lẽ nó đi ngược lại với những quy luật vốn có của tự nhiên.
- Xuân Diệu muốn ngăn cản bước đi của thời gian để lưu giữ những khoảnh khắc đẹp
nhất, đáng nhớ nhất.
+ Thi sĩ khao khát giữ lại ánh nắng để "màu đừng nhạt mất", giữ lại gió để cuộc sống
ln tràn ngập sắc hương.
+ Điệp cấu trúc "Tôi muốn... để", động từ mạnh "tắt", "buộc" cùng với nhịp thơ
nhanh, dồn dập, thể hiện khao khát mãnh liệt, hối hả, muốn nhanh chóng khơng để
những vẻ đẹp tạo hóa vụt mất khỏi tầm tay.
+ Nếu thời gian đi bằng nắng, bằng gió làm nhạt màu, làm phai hương thì nhà thơ
muốn níu giữ thời gian ngưng bước, để màu sắc và hương thơm còn mãi với cuộc đời,
để giữ mãi thời tươi xuân thì của tạo vật.
+ Cũng bởi thế, khao khát này cũng thể hiện sự ham sống bồng bột đến mãnh liệt và
quan niệm về thời gian của ơng: Thời gian tuyến tính một chiều, khi đã trơi qua rồi thì
khơng trở lại nên nhà thơ có khao khát giữ nắng, giữ gió để tận hưởng hết vẻ đẹp của
đất trời.
=> Đó là ước muốn bất tử hóa cái đẹp, giữ cho cái đẹp tỏa sắc lên hương vì đóa hoa
hương sắc cuộc đời tươi thắm, ngọt ngào mà mong manh, ngắn ngủi biết bao. Có thể


nói đằng sau ước muốn phi lí ấy là một tâm hồn yêu người với thái độ trân trọng, nâng
niu và gìn giữ.
* Luận điểm 2: Bức tranh mùa xuân tuyệt đẹp
- Từ thể thơ 4 chữ, nhà thơ chuyển sang những câu thơ 8 chữ, nhịp thơ như trải tỏ ra,
chậm rãi, nhẹ nhàng như nhịp tâm hồn thi sĩ đang tận hưởng những tinh hoa của đất

trời mùa xuân
- Điệp ngữ "này đây" được lặp đi lặp lại 5 lần như một lời mời gọi, kết hợp với thủ
pháp liệt kê, vừa diễn tả sự giàu có, phong phú bất tận của thiên nhiên vừa thể hiện
cảm giác hân hoan, vui sướng của tác giả.
- "Này đây" là sự hiện hữu của hương sắc cuộc đời, của thiên nhiên trần thế, không
phải xa xôi mà gần gũi ngay trước mắt, không phải ở tương lai hay quá khứ mà ngay
trong hiện tại lúc này.
- Điệp từ "của" lặp lại mang tính chất kết nối làm cho bức tranh thiên nhiên tươi đẹp
nơi thiên đường trần thế lần lượt hiện ra, lại thêm phần phong phú, giàu có.
- Nhà thơ sử dụng một loạt biện pháp tự từ nhân hoá, dùng những danh từ thuộc về
con người ("tuần tháng mật", "khúc tình si") để miêu tả thiên nhiên, kết hợp với "ong
bướm", "yến anh" được gọi tên như đôi như lứa khiến cho vườn xuân bỗng đầy mộng
mơ, lãng mạn, vườn xuân cũng là vườn yêu, vườn tình, vườn ái ân hạnh phúc.
- Tính từ "xanh rì", "phơ phất" giàu sức gợi tả vẽ nên cảnh thiên nhiên mùa xuân non
tơ, tràn đầy sức sống
=> Bức tranh xuân không chỉ có cảnh vật đẹp tươi mà cịn tràn đầy ánh sáng và niềm
vui, hình ảnh "ánh sáng chớp hàng mi" và "thần vui" vô cùng gợi cảm. Với Xuân Diệu
mỗi ngày được sống, được chiêm ngưỡng ánh dương, được tận hưởng sắc hương của
vạn vật là một ngày hân hoan vui sướng
- Thiên nhiên tạo vật say sưa, rộn ràng, mê mải trao gửi sắc hương, xui khiến lòng
người ngất ngây tận hưởng, để thi nhân tạo hóa thành tình nhân:
"Tháng Giêng non như một cặp mơi gần"
+ Câu thơ sử dụng nghệ thuật ẩn chuyển đổi cảm giác, hay chính là phép giao thoa mà
thơ Mới tiếp thu được từ thơ ca tượng trưng Pháp
+ Đây là câu thơ mới mẻ nhất, hiện đại nhất, đã khái quát được sự hấp dẫn của mùa
xuân bằng sự so sánh vô cùng độc đáo. Nhà thơ cảm thụ thiên nhiên bằng tình lứa đơi,
bằng thể xác và tâm hồn.
- Sự hấp dẫn của thiên nhiên hiện ra trong vẻ đẹp của người tình với "cặp mơi gần"
căng tràn tươi trẻ, mê đắm và quyến rũ.
+ Từ "ngon" được thốt lên đầy khát khao, và đam mê, là sự cảm nhận sâu nhất bằng

mọi giác quan
+ Phép so sánh như đã đưa cặp môi của người thiếu nữ trở thành trung tâm của vũ trụ,
con người trở thành chuẩn mực cho cái đẹp, là thước đo vẻ đẹp của tạo hóa.
+ "Tháng giêng" là một khái niệm thời gian vốn vô hình, nhưng trong phép so sánh
vừa táo bạo vừa mang sắc thái biểu cảm ấy đã trở nên trẻ trung hữu hình qua vẻ đẹp
cặp mơi gần của người thiếu nữ.
=> Nhà thơ đã thể hiện quan niệm của mình một cách thật sâu sắc: Nếu trong thơ ca
Trung đại, các thi nhân lấy thiên nhiên để làm chuẩn mực cho cái đẹp của con người
thì đến với Xuân Diệu, con người mới là chuẩn mực cho mọi cái đẹp tồn tại trên cuộc
đời này, và thiên đường không phải là những chốn thiên thai xa xôi, huyễn hoặc nào


đó, mà chính là nơi đây, chính mặt đất trần thế mới là thiên đường của tình yêu, của
cái đẹp và của tuổi trẻ.
* Luận điểm 3: Tâm trạng của thi sĩ
- Ngay lúc chàng thi sĩ trẻ đang ngất ngây mê đắm vô cùng trong niềm tận hưởng mật
ngọt tình yêu nơi thiên đường trần thế, đang thỏa thuê với bữa tiệc lớn của trần gian
và reo lên "tôi sung sướng" thì cũng chính là lúc thi nhân ngừng lặng với cảm giác
"vội vàng một nửa".
- Câu thơ bị ngắt làm hai, niềm vui không trọn vẹn. Bởi Xuân Diệu nhận ra rằng điều
sung sướng ấy ngắn ngủi biết bao. Dự cảm mơ hồ về sự mong manh, ngắn ngủi của
kiếp người đã khiến cho thi nhân sống vội vàng tận hưởng.
=> Hai câu thơ được xem như hai cái bản lề khép mở tâm trạng vừa vồ vập đắm say
vẻ đẹp của cuộc sống tình yêu vừa là linh cảm bất an, băn khoăn âu sầu của nhà thơ vì
thời gian qua mau, tuổi trẻ một đi khơng trở lại, quả thật Xuân Diệu là nhà thơ của
những cảm quan tinh tế về thời gian.
* Luận điểm 4: Đánh giá nghệ thuật
- Sử dụng những từ ngữ giàu sức biểu cảm
- Các biện pháp tu từ được sử dụng linh hoạt
c) Kết bài


- Khái quát lại nội dung 13 câu thơ đầu Vội vàng.
- Nêu cảm nhận của em.


VĂN MẪU
--Xn Diệu là ơng hồng của tình u, dù đó là tình u gì đi chăng nữa thì nó vẫn
ngọt ngào đầy xúc cảm. Ơng cịn được đánh giá là nhà thơ mới nhất trong những nhà
thơ mới. Những sáng tác, những bài thơ của ông đem đến cho người đọc một sự yêu
đời, niềm vui về cuộc sống và một niềm khao khát cuộc sống đến mãnh liệt cùng với
đó là một hồn thơ mới lạ, mang đến cho độc giả cái nhìn mới mẻ. Trong số đó, tiêu
biểu có bài thơ Vội vàng là một trong những bài thơ hay thể hiện tư tưởng đáng quý
đó của tác giả, và 13 câu đầu đã để lại những ấn tượng khó quên cho người đọc.
Những tư tưởng triết lí cũng thế mà được gửi gắm chân thành tự nhiên.
Để mang niềm yêu cuộc sống đến trào dâng, nhà thơ ln có cảm xúc vội vàng trước
cuộc sống ngắn ngủi. Mọi thứ trên đời mang vị ngọt tới nhưng chỉ một lần rồi thơi, ta
đâu có đủ thời gian cho những quả ngọt đó được nếm một lần nữa. Khơng vội vàng,
khơng chạy tới để ơm trọn những gì đang có thì làm sao mà cảm nhận hết vẻ đẹp của
đời. Khổ thơ năm chữ duy nhất trong bài thơ khiến giọng điệu gấp gáp giống như một
hơi thở hối hả của một con người đang tràn đầy cảm xúc. Đại từ mà tác giả Xuân Diệu
đã đặt ở đầu tiên là tôi, chứ không phải “ta” hay chúng ta và cùng với đó là động từ
“muốn” - “tơi muốn". Nhà thơ đang thể hiện cái tôi công khai, ngang nhiên không lẩn
tránh hay giấu giếm, cái tôi đầy thách thức, đi ngược lại với thơ ca trung đại, rất ít
dám thể hiện cái tơi của bản thân mình. Đây cũng chinh là một điểm mới của nhà thơ
trong nền văn thơ hiện lúc bấy giờ. Qua đó thể hiện khát khao mãnh liệt về cuộc sống
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tơi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”
Yêu cuộc sống này cho nên mọi thứ tác giả muốn làm đó có thể là tắt nắng đi, buộc

gió lại. Những từ “tắt”, "buộc” được sử dụng cho những điều hữu hình cầm nắm được
vậy mà tác giả lại dùng cho những sự vật không bao giờ chúng ta có thể làm được. Ta
có thể thấy màu vàng của nắng, cảm nhận được hơi ấm từ nó, gió có thể thổi qua, táp
vào mặt, mơn man da thịt, có thể thấy gió đung đưa bên những cành liễu... nhưng
chẳng bao giờ cầm được nắng hay nắm được gió. Một điều tưởng chừng như vơ lí đó
nhưng lại trở thành khát khao của tác giả. Những thứ đó để làm gì: “để hương đời
đừng nhạt đi, để màu sắc cuộc sống vẫn nguyên vẹn, không úa tàn”. Từng chữ một
của bốn câu thơ đều nói lên nỗi ham sống đến vô biên, tột cùng đến trở nên cuồng si,
tham lam, muốn giữ lại cho mình và cho đời vẻ đẹp, sự sống ở trong tạo vật cả trong
nhịp của câu thơ, thể hiện ở chỗ câu thơ đang năm chữ bỗng chuyển xuống 8 chữ.
Đây là một chuyển đổi rất đẹp của bài thơ, làm trải ra trước mắt ta bức tranh xuân
tuyệt diệu. Bốn dòng thơ ấy đầy ắp những tiếng “này đây", vừa trùng điệp vừa biến
hoá. Những câu thơ gợi ra một con người đang mê man, đắm đuối, cuống quýt trước
mùa xuân đang trải ra cuộc đời. Đó khơng chỉ là một bức tranh xn, cịn là cách để
tác giả nói đến cái mê đắm về một mùa xuân của tuổi trẻ, của tình yêu.
Vì vậy, “ong bướm, yến anh” được nhắc tới đây, bởi nó gợi ra vẻ lả lơi, tình tứ, và
“bướm lả ong lơi “gợi ý niệm về mùa xuân và tình u. Khúc nhạc của tình u, của
những đơi tình nhân và hơn thế, “của tình si”, gợi nên sự mê đắm. Bên cạnh đó, chữ
“của” trở đi trở lại được tác giả sử dụng cùng với “này đây” như một cặp không thể


tách rời. Đây là cách Xuân Diệu biểu hiện cảm xúc trước thiên nhiên ln có sự kết
đơi, mọi vật quấn quýt lấy nhau, là của nhau không thể tách rời. Tất cả đều mang vẻ
đẹp của sự trẻ trung và sức sống trịn trịa có đơi có cặp. Những mỹ từ được sử dụng
mang tính gợi hình cao “Hoa nở” trên nền “xanh rì” của đồng nội bao la, “lá” của
“cành tơ” đầy sức trẻ và nhựa sống. Mọi thứ đều có cảm giác non tơ, mơn mởn ấy lại
được tôn lên trong sự hiệp vần “tơ phơ phất” ở sau. Cuộc sống hiện ra trong hình ảnh
của một vườn địa đàng, trong xúc cảm của một niềm vui trần thế.
Câu thơ thứ chín xuất hiện bằng ba chữ “và này đây”, như thể một người vẫn còn
chưa thoả, chưa muốn dừng lại. Đây khơng cịn là những hình sắc cụ thể như “lá, hoa,

ong bướm” mà trừu tượng hơn là ánh sáng, niềm vui, thời gian - những vật thể khơng
hữu hình. Khơng chỉ sử dụng những hình ảnh mang tính biểu tượng cao, cách mà
Xuân Diệu gieo vào lòng người còn là những thứ mà con người cần phải quý trọng.
Vẻ đẹp của thiên nhiên chỉ được coi là đẹp khi mang dáng dấp của vẻ đẹp con người.
Đó chính là vẻ đẹp của “hàng mi” của một đơi mắt đẹp. Nhưng có lẽ nét độc đáo của
13 câu thơ chính là 2 câu thơ mang tính so sánh cao
Tháng giêng ngon như một cặp mơi gần.
Hình ảnh so sánh thật thú vị và đầy bất ngờ, thời gian đẹp nhất của mùa xuân lại được
coi như một cặp môi gần, vừa mang đến sự đam mê, sự lơi cuốn mà cịn là sự say đi.
Dưới con mắt của kẻ si tình, mùa xuân hiện ra thật đẹp, thật gợi cảm. Nó cịn được tác
giả đi liền với từ “ngon” mặc dù không ăn được, không chạm được nhưng lại “ngon”.
Mùa xuân như sinh ra cho con người tận hưởng, cho hạnh phúc đến với con người,
thời gian trừu tượng mới trở nên gần gũi, do vậy mùa xuân hiện lên trong cảm xúc của
một tâm hồn đang thèm khát tận hưởng. Vẻ đẹp của mùa xuân như đã bị hồn tồn
chiếm hữu.
Hình ảnh so sánh ấy như một người đang đợi chờ, sẵn sàng dâng hiến cho tình u.
Chính vì thế tác giả mới thốt lên nhưng lại chùng xuống và có vẻ tiếc nuối:
“Tơi sung sướng”.
Nhưng vội vàng một nửa.
Và rồi ở những câu tiếp theo, tác giả nêu ra tại sao lại sung sướng nhưng lại vội vàng:
Xuân đương đến nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già.
Cái mới của bài thơ và cả quan niệm của Xuân Diệu trong bài thơ được thấy rõ và
phát hiện. Tưởng chừng nó giống như một quy luật bình thường ai cũng biết nhưng
đặt trong trường hợp này, nó lại là cả một quá trình chiêm nghiệm và nhận thức. Tác
giả đã để hai vế tưởng như trái ngược nhau lại trở thành ngang hàng: “đang tới” đối
với “đang qua”, “non” nghịch với “già”. Đây là cách nói đầy ấn tượng tạo nên sự trôi
mau gấp rút vô cùng của thời gian. Điều này càng có ý nghĩa với một người mà sự
sống đồng nghĩa với tuổi xuân, được thể hiện với đẳng thức thứ ba, vừa có cảm giác
sợ hãi, lại tiếc nuối nhưng cũng có cảm giác như hối thúc phải sống sao cho khơng phí

hồi tuổi trẻ, bởi xn hết thì tơi cũng khơng cịn nữa..
Và xn hết nghĩa là tôi cũng mất.
Bằng những nét vẽ vô cùng sống động, độc đáo, Xuân Diệu đã tái hiện lại khung cảnh
hết sức lãng mạn, một thiên đường dưới mặt đất. Dưới con mắt tinh tế, nhạy cảm của
nhà thơ cuộc sống thật tươi đẹp và đáng sống biết bao, nhưng cuộc sống ấy cũng thật
ngắn ngủi nên phải sống vội vàng để tận hưởng hết niềm vui và hạnh phúc của cuộc


sống. Qua đây tác giả cũng thể hiện và gửi gắm tư tưởng lạc quan yêu đời mà tác giả
đã tạo ra cho thế hệ trẻ, cần phải sống, đam mê hết mình để cống hiến cho tuổi trẻ.


PHÂN TÍCH 16 CÂU GIỮA BÀI VỘI VÀNG
1. PHÂN TÍCH ĐỀ
- Kiểu bài: dạng bài phân tích một đoạn thơ.
- Vấn đề nghị luận: nội dung, nghệ thuật 16 câu thơ giữa bài Vội vàng.
- Phạm vi dẫn chứng, tư liệu: các căn cứ, hình ảnh, chi tiết,... thuộc phạm vi 16 câu
thơ giữa bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu.
2. HỆ THỐNG LUẬN ĐIỂM
Để phân tích đoạn 3 (phần 2) từ “Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua” cho đến
“Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa… ” của bài thơ Vội vàng ta có thể đưa ra 3 luận
điểm như sau:
Luận điểm 1: (8 câu đầu) Nhận ra thời gian là một dịng chảy tuyến tính một đi
không trở lại.
Luận điểm 2: (8 câu tiếp) Nỗi lo sợ của nhân vật trữ tình khi những điều tươi đẹp
đang dần lụi tàn mà không thể làm trái ngược lại quy luật của thời gian được.
Luận điểm 3: (có thể có) (đúc kết cả đoạn 2) Làm cơ sở để Xuân Diệu nghĩ ra giải
pháp ở phần sau: Lời giục giã về thái độ sống “Mau đi thôi, mùa chưa ngả chiều
hôm”.
3. DÀN Ý CHI TIẾT

a) Mở bài
- Giới thiệu khái quát về tác giả Xuân Diệu và bài thơ Vội vàng
- Dẫn dắt, giới thiệu 16 câu thơ giữa : Nếu phần đầu tiên của bài thơ là ước muốn táo
bạo cùng vẻ đẹp độc đáo của mùa xuân thì sang 16 câu thơ giữa, nhà thơ giải thích lí
do phải sống vội vàng.
b) Thân bài
- Quan niệm về thời gian có nhiều cách nói. Xuân Diệu cũng có một cách nói rất riêng
của nhà thơ: tương phản đối lập để chỉ ra một đời người chỉ có một tuổi xuân; tuổi trẻ
một đi không trở lại.
Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già.
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất

=> Giọng thơ sôi nổi như nước tự mạch nguồn tuôn ra. Một hệ thống tương phản đối
lập: tới - qua, non - già, hết - mất, rộng - chật, tuần hồn - bất phục hồn, vơ hạn - hữu
hạn - để khẳng định một chân lý - triết lý: tuổi xuân một đi không trở lại. Phải quý
tuổi xuân.
- Cách nhìn nhận về thời gian cũng rất tinh tế, độc đáo, nhạy cảm. Và mối tương giao
mầu nhiệm của cảnh vật, của tạo vật hình như mang theo nỗi buồn chia phơi hoặc
tiễn biệt, hờn vì xa cách, sợ vì phai tàn sắp sửa.
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt.


- Cũng là gió, là chim... nhưng gió thì thào vì hờn, chim bỗng ngừng hót, ngừng rao vì
sợ! Câu hỏi tu từ xuất hiện cũng làm nổi bật nghịch lý giữa mùa xuân - tuổi trẻ và thời
gian:
Con gió xinh thì thào trong lá biếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi

Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?

- Câu cảm thán với cách ngắt nhịp biến hóa làm nổi bật nỗi lòng vừa lo lắng băn
khoăn, vừa luống cuống tiếc rẻ, bâng khng:
Chẳng bao giờ, ơi! Chẳng bao giờ nữa...

=> Cịn đang trong mùa xuân mà nhà thơ đã hình dung ra sự chia li của vũ trụ, sự rời
xa của mùa xuân. Nỗi niềm nuối tiếc đã bật lên thành lời than và qua đó nhà thơ cũng
gửi gắm lời nhắn nhủ tới muôn người muôn thế hệ rằng hãy sống hết mình vì tuổi trẻ,
thời gian đời người là hữu hạn, một đi không trở lại.
c) Kết bài
- Những vần thơ của Xuân Diệu giúp ta cảm nhận sắc điệu trữ tình trong Vội vàng về
màu thời gian, về sắc thời gian và tuổi trẻ.


VĂN MẪU
----

Trong “Thi nhân Việt Nam”, nhà phê bình văn học Hoài Thanh từng khẳng định: “Thơ
Xuân Diệu là một nguồn sống dạt dào chưa từng có ở chố nước non lặng lẽ này.”.
Nhắc tới Xuân Diệu, ta không thể không nhắc tới một bài thơ in đậm dấu ấn, phong
cách của ông – Vội vàng. Được rút ta từ tập “Thơ thơ”, “Vội vàng” là nỗi ám ảnh thời
gian và lòng ham yêu, khát sống đến cuống quýt của Xuân Diệu. Nếu phần đầu tiên
của bài thơ là ước muốn táo bạo cùng vẻ đẹp độc đáo của mùa xn thì sang phần thơ
thứ hai, nhà thơ giải thích lí do phải sống vội vàng.
Tại sao Xuân Diệu lại vội vàng tiếc nuối mùa xuân ngay khi xuân còn đang thắm. Có
lẽ vì thi sĩ có quan niệm rất mới về thời gian:
Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết nghĩa là tơi cũng mất

Lịng tơi rộng nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian.

Nếu người xưa ln n tâm bình thản trước sự trơi chảy của thời gian bởi họ quan
niệm thời gian là tuần hồn thì Xn Diệu lại quan niệm thời gian, mùa xuân, tuôi trẻ
một đi không trở lại. Thế nên Xuân Diệu luôn hốt hoảng lo âu khi thời gian trôi mau.
Thi sĩ không chỉ tiếc mùa, tháng, ngày mà tiếc từng khoảng khắc, từng phút giây. Ơ
một bài thơ khác, nhà thơ cũng từng nói:
Tơi từ phút ấy trơi qua phút này

Diều thi sĩ sợ là tuổi trẻ qua đi, tuổi già mau tới bới thời gian như một dòng chảy mà
mỗi một khoảnh khắc trôi qua là mất đi vĩnh viễn. Cách sử dụng cặp từ đối lập “tới –
qua”, “non – già” đã cho thấy sự cảm nhận tinh tế của nhà thơ trước bước đi của thời
gian. Cùng với hàng loạt câu thơ văn xuôi theo lối định nghĩa cùng sự lặp lại liên tiếp
điệp ngữ “nghĩa là”, Xuân Diệu đã khẳng định chắc nịch một sự thật hiển nhiên khơng
gì phủ nhận: Dù xn đương tới, xuân còn non nhưng xuân sẽ qua, sẽ già, sẽ hết và
tuổi trẻ cũng mất. Đối diện với sự thật hiển nhiên mà phũ phàng ấy, Xuân Diệu không
khỏi thảng thốt. Liên tiếp các dấu phẩy được huy động tạo nên điệu thơ ngậm ngùi,
nghẹn ngào.
Để tăng sức thuyết phục mọi người tin vào chân lí: mùa xuân tuổi trẻ là tuyến tính,
Xuân Diệu đã chủ động đối thoại, tranh luận bác bỏ ý nghĩ cố hữu của mọi người là
mùa xn vẫn tuần hồn:
Nói làm chi rằng xn vẫn tuần hồn
Nếu t̉i trẻ chẳng hai lần thắm lại

Với Xn Diệu, tuổi trẻ không thắm lại nên cũng không thể nói mùa xn là tuần
hồn. Thế là Xn Diệu tiếc mùa xuân mà thực chất là tiếc tuổi trẻ. Và đó là nguyên
cớ xâu xa khiến thi sĩ vội vàng một nửa khi xuân mới bắt đầu:
Còn trời đất nhưng chẳng cịn tơi mãi
Nên bâng khng tơi tiếc cả đất trời


Đúng vậy, giữa cái mênh mông của vũ trụ, vô cùng, vô tận của thời gian, tuổi trẻ, sự
sống của con người bỗng trở nên quá ngắn ngủi, mong manh chỉ như bóng câu qua
cửa sổ, như cái chớp mà thơi. Suy ngẫm về điều đó, day dứt về điều đó, Xuân Diệu đã
đem đến một nỗi ngậm ngùi mà mới mẻ trong thơ ca Việt


“Với quan niệm một đi không trở lại và bằng tâm hồn rất đỗi nhạy cảm tới mức có thể
nghe thấu cả sự mơ hầu” (Thế Lữ), Xuân Diệu cảm nhận thấm thía sự phơi pha, phai
tàn đang âm thầm diễn ra trong lòng vũ trụ trên cả hai trục không gian và thời gian.
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phơi
Khắp núi sơng vẫn than thầm tiễn biệt
Con gió xinh thì thào trong lá biếc
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi
Phải chăng sợ độ phai tàm sắp sửa.

Thời gian thì rớm vị chia phôi, khắp không gian đâu đâu cũng vọng lên khúc chia li,
lời than thầm tiễn biệt. Gió đùa trong lá không phải là những âm than vui tươi, sống
động của thiên nhiêm mà vì hờn tủi trước sự trơi chảy của thời gian. Chim hót những
bản nhạc chào xuân rộn ràng bỗng ngừng bặt, chẳng có mối nguy hiểm hiểm nào cả,
mà vì chúng sợ độ tàn phai, héo úa. Vậy là vạn vật không thể cưỡng lại quy luật tàn
phai nghiệt ngã của tạo hóa. Chịu ảnh hưởng sâu sắc thuyết tương giao trong tượng
trưng Phá, Xuân Diệu chẳng những đã đem đến những cảm nhận tinh tế rất mới, rất
Tây, rất hiện đại về thời gian:
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi.

Thời gian vốn vô hình, vơ ảnh, khơng mùi, khơng vị, đi vào thơ Xn Diệu bỗng có
mùi, có vị chia phơi. Thơ trung đại, kể cả thơ mới cũng hiếm có câu thơ nào có cách
cảm nhận như vậy.

Khép lại phần thơ thứ nhất – phần lí giải vì sao phải sống vội vàng là dịng thơ tràn
ngập cảm xúc:
Chẳng bao giờ, ơi! Chẳng bao giờ nữa…
Mau đi thôi mùa chưa ngả chiều hôm

Đến đây thi sĩ đã vỡ lẽ chẳng bao giờ có thể tắt nắng buộc gió, níu giữ mãi tuổi trẻ
mùa xuân ở lại. Khát vọng cháy bỏng, ước muốn táo bạo đã tan thành mấy khói. chỉ
cịn lại nỗi bàng hồng, thảng thốt cịn in dấu trong dấu chấm cảm giữa dòng thơ và
dấu chấm lửng cuối dòng thơ. Khơng thể buộc gió, chẳng thể tắt nắng để níu giữ mãi
hương sắc mùa xuân, Xuân Diệu đã hối thúc mình và mọi người hãy sống vội vàng,
hãy chạy đua cùng thời gian: “Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm.” Lời giục giã
hối thúc mang sắc điệu mạnh mẽ, quyết liệt bởi kiểu câu cầu khiến có sử dụng dấu
chấm cảm giữa dịng. Có thể nói câu thơ “Mau đi thơi! Mùa chưa ngả chiều hơm” rẩt
điển hình, tiêu biêu cho hồn thơ vội vàng cuống quýt của Xuân Diệu trước cách mạng
tháng 8. Không chỉ ở “Vội vàng”, Xuân Diệu luôn hối thúc giục giã mọi người cần
sống mau, sống vội:
Mau với chứ! Thời gian không đứng đợi
– Gấp đi em, anh rất sợ ngày mai
Đời trôi chảy lịng ta khơng vĩnh viễn
– Mau với chứ! Vội vàng lên với chứ
Em, em ơi tình non sắp già rời!

“Mùa chưa ngả chiều hôm” là một cách kết hợp từ mới lạ, thú vị. Xuân Diệu đã dùng
từ chỉ thời gian cuối ngày để chỉ thời điểm cuối mùa. “Mùa chưa ngả chiều hơm” là
mùa chưa tàn, chưa úa, vì thế hãy vội vàng mau chóng tận hưởng hương sắc của nó.
Có thể thấy, Xuân Diệu có cách cảm nhận về thời gian khác lạ như vậy là nhờ vào “sự
ý thức sâu xa về sự sống của cá thể”. Quan niệm mới mẻ ấy của Xuân Diệu đã khiến


cho ta phải trâng trọng từng phút giây của cuộc đời, tận hưởng một cuộc sống trọn vẹn

và đầy ý nghĩa. Quan đoạn thơ, ta đã thấy được niềm khát khao sống mãnh liệt, cháy
bỏng của ơng Hồng thơ tình Việt nam. Từ đó, chúng ta thêm trân trọng quan niệm
nhân sinh, tích cực, tiến bộ. Cũng như giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh từng nói: “Đây là
tiếng nói của một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng nhiệt. Nhưng đằng sau những
tình cảm ấy, có một quan niệm nhân sinh mới mẻ chưa thấy trong thơ ca truyền
thống”.


** Một số ý kiến nhận định về Xuân Diệu và bài thơ Vội vàng
- "... Người đã tới giữa chúng ta với một y phục tối tân.
… Thơ Xuân Diệu là một nguồn sống dào dạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng
lẽ này. Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống vội vàng, sống cuống
quýt, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình. Khi vui cũng như khi buồn,
người đều nồng nàn tha thiết."
(Hoài Thanh, Hoài Chân - Thi nhân Việt Nam, NXB Văn học, Hà Nội 1988)
- "Bài thơ là tiếng nói sôi nổi hăm hở của một tâm hồn yêu đời, yêu sống đến cuồng
nhiệt..."
(Nguyễn Đăng Mạnh - SGK Văn 11, tập 2 NXB Giáo dục 2000)
- "Nhà thi sĩ ấy là một chàng trai trẻ hiền hậu và say mê, tóc như mây vương trên dải
trán ngây thơ, mắt như lưu luyến mọi người và miệng cười mở rộng như một tấm lòng
sẵn sáng ân ái. Chàng đi trên đường thơ, hái những bông hoa gặp dưới chân, những
hương sắc nẩy ra bởi ánh sáng của lòng chàng. Thơ Thơ là cụm đầu mùa chàng tặng
cho nhân gian. Và từ đây, chúng ta đã có Xuân Diệu."
(Thế Lữ - Tựa tập Thơ thơ - Tuyển tập Xuân Diệu)
- “Vội vàng (trong tập Thơ thơ - 1938) và Giục giã (trong tập Gửi hương cho gió 1915) là hai bài thơ tiêu biểu cho quan niệm về thời gian trong thơ Xuân Diệu. Thời
gian nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu mang sắc thái riêng: thi sĩ dồn nén quá khứ,
tương lai về hiện tại và trong cái hiện tại, nhà thơ chỉ chú ý tới cái - bây - giờ”.
(Phan Cư Đệ - Bình giảng văn học Việt Nam hiện đại - NXB ĐHQG, Hà Nội 2002)




Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×