Tải bản đầy đủ (.docx) (3 trang)

Tải Anh chị hãy bình giảng bài thơ Thăng Long thành hoài cổ của Bà Huyện Thanh Quan - Bài văn mẫu lớp 11

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (83.02 KB, 3 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Đề bài: Anh chị hãy bình giảng bài thơ Thăng Long thành hoài cổ của Bà</b>
<b>Huyện Thanh Quan</b>


<b>Dàn ý chi tiết </b>
<b>1/ Mở bài</b>
-Tác giả:


+ Bà Huyện Thanh Quan sống vào nửa đầu thế kỉ XIX ở nước ta.


+ Bà xuất thân trong một gia đình quý tộc thời Lê tại làng Nghi Tàm ven hồ
Tây.


Bà Huyện Thanh Quan là một nữ nhà thơ nổi tiếng trong thời cận đại của lịch
sử văn học Việt Nam.


-Tác phẩm: Trong số các sáng tác của Bà Huyện Thanh Quan thì bài thơ
“Thăng Long thành hoài cổ” là một tác phẩm tiêu biểu nói lên nỗi niềm tâm sự
nhớ quê hương, nhớ kinh thành của nhà thơ.


<b>2/ Thân bài </b>
-Hai câu đề:


+ Hai câu đề mở đầu bài thơ vừa như một tiếng than, một lời trách móc với
những đổi thay trong cuộc đời.


+ Từ “hí trường” có nghĩa là sân khấu, là nơi diễn trị mua vui.


+ Liệu có phải nhà thơ đang than thở, trách móc ơng trời đã tạo nên cuộc đời
giống như một sân khấu để diễn hết trò này đến trò khác.


+ Lịch sử thay đổi, các triều đại cũng đổi thay, Thăng Long cũng cứ thế mà


thay đổi theo thời gian. Điều này làm cho nhà thơ cảm thấy rất buồn.


-Hai câu thực:


+ Hai câu thực sử dụng phép đối đã cho thấy sự thay đổi đến đau lòng của kinh
thành Thăng Long.


+ Long thành xưa kia ngày ngày nhộn nhịp xe ngựa đi lại nhưng ngày nay chỉ
còn lại “hồn thu thảo”.


+ Mùa thu càng thêm buồn hơn với màu cỏ thu úa vàng, cảnh vật trở nên tàn tạ,
những con đường đã vắng người qua.


Những cung điện nguy nga ngày xưa nay cũng đã thay đổi, giờ chỉ còn lại nền
cũ.


+ Hai câu thơ đã vận dụng phép đối một cách linh hoạt, thanh điệu bằng trắc hô
ứng nhau mang đến giai điệu du dương, trầm bổng, để lại ấn tượng sâu sắc
trong lòng người đọc.


-Hai câu luận:


+ Trong hai câu luận, nhà thơ đã sử dụng biện pháp nhân hóa: đá và nước
giống như con người.


+ Nền đá cũ vẫn cịn đó, vẫn thách thức cùng năm tháng, vẫn buồn thương đau
đớn. Nơi bến cũ, hồ xưa, nước còn cau mặt với những đau thương, mất mát.
+ Qua những hình ảnh ấy, tác giả đã gửi gắm nỗi niềm tiếc nuối, buồn thương
cho một thời vàng son chói lọi của kinh thành Thăng Long – nơi nhà thơ sinh
ra và lớn lên.



-Hai câu kết:


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

+ “Cảnh đấy” chính là những cảnh mà nhà thơ đã nêu ở trên: lối xưa, nền cũ,
hồn thu thảo, bóng tịch dương, đá và nước…


+ Trước những cảnh vật như thế, nữ sĩ khơng khỏi đau xót trước cảnh hoang
tàn của kinh thành Thăng Long.


<b>3/ Kết bài</b>


- Bài thơ “Thăng Long thành hoài cổ” xứng đáng là viên ngọc quý trong nền
thi ca cổ điển Việt Nam.


- Ngôn từ, thi liệu, cảnh vật… tất cả đã được nhà thơ chọn lựa và sử dụng một
cách tinh tế tạo nên bức tranh mang màu sắc cổ điển, thi vị.


- Bài thơ là nỗi buồn của nhà thơ nhưng qua đó cũng thể hiện tình u Thăng
Long vơ bờ bến của thi sĩ.


<b>Bài tham khảo </b>


Bà Huyện Thanh Quan sống vào nửa đầu thế kỉ XIX ở nước ta. Bà xuất thân
trong một gia đình quý tộc thời Lê tại làng Nghi Tàm ven hồ Tây. Bà Huyện
Thanh Quan là một nữ nhà thơ nổi tiếng trong thời cận đại của lịch sử văn học
Việt Nam. Bà tuy sáng tác không nhiều nhưng cái điệu thơ, hồn thơ trong các
sáng tác của bà làm ta bâng khuâng nhớ mãi. Trong số các sáng tác của Bà
Huyện Thanh Quan thì bài thơ “Thăng Long thành hồi cổ” là một tác phẩm
tiêu biểu nói lên nỗi niềm tâm sự nhớ quê hương, nhớ kinh thành của nhà thơ.
Hai câu đề mở đầu bài thơ vừa như một tiếng than, một lời trách móc với


những đổi thay trong cuộc đời:


<i>“Tạo hố gây chi cuộc hí trường,</i>
<i>Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương”.</i>


Từ “hí trường” có nghĩa là sân khấu, là nơi diễn trị mua vui. Liệu có phải nhà
thơ đang than thở, trách móc ơng trời đã tạo nên cuộc đời giống như một sân
khấu để diễn hết trò này đến trò khác. Lịch sử thay đổi, các triều đại cũng đổi
thay, Thăng Long cũng cứ thế mà thay đổi theo thời gian: Thăng Long… Đông
Đô… Thăng Long… Hà Nội… Sự thay đổi ấy làm cho nhà thơ cảm thấy buồn
và có chút gì đó như mất mát kèm theo những tiếng thở dài ngao ngán.


Thời gian thấm thốt cũng gần một thiên niên kỷ đã trơi qua, kinh thành xưa
một thời hoàng son là thế mà nay chỉ cịn lại phế tích, hoang tàn. Hai câu thực
sử dụng phép đối đã cho thấy sự thay đổi đến đau lòng của kinh thành Thăng
Long:


<i>“Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,</i>
<i>Nền cũ lâu đài bóng tịch dương”</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Dù vật đổi sao dời nhưng tàn “nước” và “đá” vẫn cịn đó như những chứng
nhân của lịch sử, của phế tích hoang tàn:


<i>“Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,</i>
<i>Nước còn cau mặt với tang thương”</i>


Trong hai câu luận, nhà thơ đã sử dụng biện pháp nhân hóa, trong đó “đá” và
“nước” cũng giống như con người, mang tình người và hồn người. Nền đá cũ
vẫn cịn đó, vẫn thách thức cùng năm tháng, vẫn buồn thương đau đớn. Nơi bến
cũ, hồ xưa, nước còn cau mặt với những đau thương, mất mát. Qua những hình


ảnh ấy, tác giả đã gửi gắm nỗi niềm tiếc nuối, buồn thương cho một thời vàng
son chói lọi của kinh thành Thăng Long – nơi nhà thơ sinh ra và lớn lên. Với
cách sử dụng phép đối và từ hán việt (tuế nguyệt, tang thương) một cách tinh tế
đã làm tăng chất xúc cảm cho vần thơ.


Cảm xúc hoài cổ dồn nén dâng lên ở hai câu trong phần kết:
<i>“Ngàn năm gương cũ soi kim cổ,</i>
<i>Cảnh đấy người đây luống đoạn trường”</i>


Gương cũ ở đây ý muốn nói đến chuyện đời, giữa quá khứ và hiện tại hay cụ
thể hơn chính là Thăng Long xưa và Hà Nội ngày nay. “Cảnh đấy” chính là
những cảnh mà nhà thơ đã nêu ở trên: lối xưa, nền cũ, hồn thu thảo, bóng tịch
dương, đá và nước… Trước những cảnh vật như thế, nữ sĩ không khỏi đau xót
trước cảnh hoang tàn của kinh thành Thăng Long.


</div>

<!--links-->

×