Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ HẠCH TOÁN LAO ĐỘNG TIỀN LƯƠNG CÁC KHOẢN TRÍCH THEO LƯƠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (233.54 KB, 36 trang )

LÝ LUẬN CHUNG VỀ HẠCH TOÁN LAO ĐỘNG TIỀN LƯƠNG CÁC
KHOẢN TRÍCH THEO LƯƠNG
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TIỀN LƯƠNG
1. Bản chất tiền lương
Lao động là hoạt động cơ bản nhất của loài người, là bản năng của loài
người. Lao động là hoạt động có ý thức, có mục đích của con người tác động vào
giới tự nhiên nhằm biến những vật chất trong tự nhiên thành những vật phẩm có
ích cho họ.
Nền sản xuất xã hội được cấu thành từ 3 yếu tố cơ bản là: tư liệu lao động,
đối tượng lao động và sức lao động. Trong đó sức lao động là yếu tố quan trọng
nhất vì nó mang tính chủ động, quyết định. Các yếu tố này không phải là vô cùng,
vô tận mà muốn sử dung lại chúng, ta phải tái tạo hay tái sản xuất lại. Với tư liệu
lao động và đối tượng lao động thì việc tái tạo lại nghĩa là mua sắm cái mới nhưng
sức lao động gắn liền với hoạt động sống của con người, là thể lực và trí lực của
con người nên muốn tái tạo lại phải thông qua hoạt động sống của con người khi
tiêu dùng một lượng vật chất, tinh thần nhất định. Phần vật chất, tinh thần này do
người sử dụng lao động trả cho người lao động dưới hình thức hiện vật hay giá trị
gọi là tiền lương.
Khái niệm tiền lương đã có từ lâu nhưng chỉ đến khi chủ nghĩa tư bản ra đời
nó mới trở thành một khái niệm mang tính phổ thông. Trong chủ nghĩa tư bản, tiền
lương được coi là giá cả của lao động. Chúng ta đã biết giá trị hàng hoá do người
lao động sáng tạo ra gồm: c + v + m.
C: giá trị tư liệu sản xuất chuyển vào hàng hoá.
V + M: giá trị mới do người công nhân sáng tạo ra.
Nhà tư bản trích một phần (v) để trả lương cho người công nhân còn phần
kia (m) nhà tư bản hưởng. Điều đó chứng tỏ rằng chính giai cấp công nhân tạo ra
quỹ tiêu dùng nuôi sống bản thân mình và cũng tạo ra giá trị thặng dư đủ nuôi sống
và làm giàu cho tư bản. Như vậy, trong chủ nghĩa tư bản, tiền cong che dấu sự bóc
lột của nhà tư bản đối với công nhân làm thuê mà nhìn bề ngoài tỏ ra rất sòng
phẳng.
Trong XHCN, tiền lương là một phần giá trị trong tổng sản phẩm sã hội


dùng để phân phát cho người lao động theo nguyên tắc làm theo năng lực, hưởng
theo lao đông. Tiền lương đã mang một ý nghĩa tích cức tạo ra sự công bằng trong
phân phối thu nhập quốc dân. Khái niệm tiền lương trên đã thừa nhận ssức lao
động là hàng hoá đặc biệt và đòi hỏi phải trả cho người lao động theo sự đóng góp
và hiệu quả cụ thể.
Tại Việt nam, thời bao cấp, một phần thu nhập quốc dân được tách ra làm
quỹ lương và phân phối cho người lao động theo kế hoạch. Tiền lương chịu tác
động của quy luật phát triển cân đối có kế hoạch, chịu sự chi phối trực tiếp của
Nhà nước thông qua các chế độ, chính sách lương. Theo cơ chế này tiền của Nhà
nước thông qua các chế dộ, chính sách lương. Theo cơ chế này tiền lương không
gắn chặt với số lượng và chất lượng người lao động, không phản ánh đúng giá trị
sức lao động vì vậy không tạo ra động lực phát riển sản xuất. Từ khi tiến hành
công cuộc đổi mới, khi thị trường, giá cả, ... được thừa nhận một cách rộng rãi thì
“tiền lương là biểu hiện ằng tiền của giá trị sức lao đôngk, là giá cả của sức lao
động mà người cung ứng sức lao động tuân theo nguyên tắc cung, cầu, giá cả thị
trường và luật pháp hiện hành của Nhà nước. Tiền lương bây giờ vừa là phạm trù
của phân phối vừa là phạm trù trao đổi tiêu dùng.
Có rất nhiều quan niệm về tiền lương, đôi khi các quan niệm này còn rất
khác nhau. Hiểu một cách chung nhất thì tiền lương là biểu hiện bằng tièn của hao
phí lao động cần thiết mà doanh nghiệp trả cho người lao động theo thời gian và
khả năng công viềc mà người lao động đã cống hiến cho doanh nghiệp. Như vậy,
dưới những góc độ khác nhau thì nhìn nhận tiền lương cũng khác.
Khi tiền lương danh nghĩa tăng chậm hơn chỉ số giá cả hàng hoá tiêu dùng
và dịch vụ thì giá trị sức lao động của người lao động giảm. Để đảm bảo đầy đủ
yêu cầu của tổ chức tiền lương cho người lao đông.
* Chức năng cơ bản của tiền lương:
+Chức năng tái sản xuất sức lao động: sức lao động là toàn bộ thể lực và trí
lực tạo nên cho con người khả năng sáng tạo ra của cải vật chất và tinh thần cho xã
hội. Sức lao động chỉ có thể duy trì và phát triển được nhờ có tái sản xuất sức lao
động. Tiền lương đảm bảo cung cấp cho người lao động nguồn vật chất cần thiết

để thực hiện quá trình tái sản xuất sức lao động.
+ Chức năng đòn bẩy kinh tế: với người lao động, tiền lương là thu nhập
chính đảm bảo cho cuộc sống của họ. Vì vậy, đồng lương là động lực thu hút họ,
kích thích họ phát huy tối đa năng lực của mình, gắg trách nhiệm của mình với
doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp biết dùng công cụ tiền lươgn một cách hợp lý thì
sẽ phát huy được khả năng, trách nhiệm của người lao động, tăng năng suất, hiệu
quả lao động thúc đẩy sản xuất phát triển.
+ Chức năng công cụ quản lý của Nhà nước: với doanh nghiệp lợi nhuận là
mục tiêu cao nhất vì vậy họ luôn tìm cách để giảm chi phí nhân công, chi phí sản
xuất đôi khi dẫn đến tình trạng bóc lột quá mức nhân công. Ngược lại người lao
động luôn muốn nhận được mức tiền công cao nhất. Để đảm bảo cho quyền lợi của
người lao động mà vẫn khuyến khích sản xuất ở các doanh nghiệp. Nhà nước ban
hành chính sách lao động, tiền lương phù hợp buộc cả hai bên phải tuân theo.
+ Chức năng thước đo hao phí lao động xã hội: tiền lương là giá cả sức lao
động. Khi tiền lương trả cho người lao động ngang giá với giá trị sức lao động mà
họ bỏ ra để thực hiện công việc, người ta có thể xác định hao phí lao động của toàn
xã hội thông qua tổng quỹ lương rrả cho người lao động.
+ Chức năng điều tiết lao đông: trình độ lao động, thù lao lao động, nhu cầu
sử dụng lao động ở các vùng, các nghành là không giống nhau. Để tạo sự cân đối
giữa các vùng, các nghành trong nền kinh tế quốc dân nhằm khai thác tối đa các
nguồn lực. Nhà nước phải điều tiết nguồn lao động thông qua chế độ, chính sách
tiền lương như mức lương tối thiểu, bậc lương, phụ cấp ...
* Các nguyên tắc cơ bản trong tiền lương.
-Phải giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa lao động và tiền lương theo nguyên tác
ghi ở điều 55 trong bộ luật lao động của Việt Nam gồm:
+Mức lương được hình thành trên cơ sở thoả thuận giữa người lao động và
người sử dụng lao động.
+ Mức lương ở hợp đồng lao động phải lớn hơn mức lương tối thiểu do Nhà
nước quy định.
- Lương tối thiểu là mức lương thấp nhất do Nhà nước ấn định để đảm bảo cho

người lao động làm công việc giản đơn nhất trong điều kiện bình thường ở trình độ
bình thường bù đắp được sức lao động giản đơn và một phần tích luỹ để tái sản
xuất sức lao động mở rộng. (Điều 56 bộ luật lao động)
+ Người lao động được hưởng theo năng suất lao động, chất lượng lao động
và kết quả lao động.
- Trong việc tín lương và trả lương phải tuân thủ các nguyên tắc đã ghi ở điều 8-
NĐ/1997/CP ngày 31/12/1994 và văn bản hướng dẫn kèm theo công văn số
4320/LĐTBXH-TL ngày 29/12/1998.
+Thực hiện phân phối theo lao động, tiền lương phụ thuộc vào kết quả cuối
cùng của từng người, từng bộ phận, làm công việc gì, chức vụ gì thì hưởng theo
công việc chức vụ đó mà không phân biệt giới tính, dân tộc, tôn giáo, tuổi tác, ...
Trả lương ngang nhau cho những người lao động như nhau về trình độ, khối lượng
và chất lượng công việc.
+Chống phân phối bình quân, hệ số giãn cách giữa người có tiền lương cao
nhất và thấp nhất do doanh nghiệp lựa chọn, quyết định nhưng tối đa không quá
hai lần so với hệ số mức lương cao nhất theo quy định tại NĐ26/CP ngày
23/5/1993 của chính phủ và thấp nhất bằng hệ số mức lương quy định tại NĐ26/CP
nói trên.
+Đảm bảo tốc độ tăng năng suất cao hơn tốc độ tăng của tiền lương. Đó là
nhân tố cơ bản trong sản xuất kinh doanh do tiền lương là một bộ phận cấu thành
nên giá thành sản phẩm và giá cả hàng hoá. Muốn hạ giá thành sản phẩm, tăng tích
luỹ thì không còn con đường nào khác là đảm bảo tăng năng suất lao động nhanh
hơn tốc độ tăng của tiền lương bình quân. Vi phạm nguyên tắc này sẽ dẫn đến nguy
cơ bị phá sản.
+Bảo đảm mối quan hệ hợp lý về tiền lương giữa những người lao động
khác nhau trong nền kinh tế quốc dân. Thực hiện nguyên tắc này giúp Nhà nước
tạo sự cân đối giữa các nghành, khuyến khích sự phát triển nhanh chóng nghành
mũi nhịn đồng thời đảm bảo lợi ích của người lao động làm việc trong các nghành
khác nhau.
2.Vai trò của hạch toán tiền lương trong các doanh nghiệp

Tiền lương là nguồn thu nhập chủ yếu của người lao động vì vậy các doanh
nghiệp có thể sử dụng tiền lương làm đòn bẩy kinh tế để khuyến khích người lao
động hăng say làm việc để tăng năng suất lao động. Đối với doanh nghiệp, tiền
lương là một bộ phận cấu thành nên giá trị sản phẩm nên doanh nghiệp phải sử
dụng tiền lương một cách có hiệu quả để tiết kiệm chi phí tiền lương.
Quản lý tiền lương là một nội dung quan trọng trong công tác quản lý kinh
doanh của doanh nghiệp, nó là nhân tố giúp doanh nghiệp hoàn thành và hoàn
thành vượt mức kế hoạch sản xuất của mình. Hạch toán tốt lao động tiền lương
giúp doanh nghiệp hoạt động có nền nếp, thúc đẩy và hiêu quả công tác. Đồng thời
hạch toán tốt lao động, tiền lương, tính lương đúng theo nguyên tắc phân phối theo
lao động, quản lý tốt quỹ lương, đảm bảo trả lương theo đúng chế độ, phân bổ
đúng chi phí nhân công vào đúng đối tượng.
3.Yêu cầu quản lý lao động tiền lương
Để hạch toán tốt lao động tiền lương, doanh nghiệp phải đảm bảo các yêu cầu sau:
- Doanh nghiệp phải xây dựng được định mức lao động, lao động định biên
cho từng công việc, từng khâu từ đó có kế hoạch tuyển dụng, quản lý số lao động
đó có hiệu quả.
- Phải ban hành chế độ, kỷ luật lao động buộc người lao động phải tuân theo,
đưa hoạt động của công ty vào nền nếp.
- Phải xây dựng được đơn giá tiền lương cho doanh nghiệp của mình, đơn
giá tiền lương này đã phải được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xét duyệt.
- Phải xác định được hình thức trả lương hợp lý.
- Phải luôn quán triệt chính sách lao động, tiền lương của Nhà nước. Tất cả
các khâu trong qúa trình quản lý, hạch toán lao động, tiền lương đều phải dựa vào
các chế độ, chính sách Nhà nước ban hành.
4. Nhiệm vụ của hạch toán lao động và tiền lương trong doanh nghiệp
Chính vì những vai trò to lớn trên của hạch toán lao động tiền lương mà hạch toán
lao động tiền lương có những nhiệm vụ sau:
+ Tính toán chính xác, kịp thời, đúng chế độ các khoản tiền lương, tiền
thưởng, các khoản phụ cấp, trợ cấp, ... cho người lao động, phản ánh kịp thời đầy

đủ, chính xác thanh toán các khoản tiền cho người lao động tình hình chấp hành
các chế độ do Nhà nước ban hành.
+ Tính toán phân bổ đúng đối tượng các khoản tiền lương, trích theo lương
vào chi phí sản xuất kinh doanh. Hướng dẫn, kiểm tra các bộ phận, đơn vị trong
doanh nghiệp, thực hiện đầy đủ đúng chế độ ghi chép ban đầu về lao động tiền
lương, các khoản trích theo lương; mở sổ, thẻ kế toán hạch toán lao động tiền
lương đúng chế độ, phương pháp.
+ Lập báo cáo về lao động, tiền lương và các khoản trích theo lương thuộc
trách nhiệm của kế toán.
+ Phân tích tình hình quản lý, sử dụng thời gian lao động, chi phí nhân công,
năng suất lao động, quỹ lương, các quỹ khác, đề xuất các biện pháp nhằm khai
thác, sử dụng triệt để, có hiệu quả mọi tiềm năng lao động sẵn có trong doanh
nghiệp, chống hành vi vô trách nhiệm, vi phạm kỷ luật lao động, chế độ.
Ngoài tiền lương, người lao động còn được hưởng các khoản thu nhập khác
như phụ cấp lương, tiền thưởng.
5. Phụ cấp lương
Phụ cấp lương là khoản mà doanh nghiệp trả thêm cho người lao động khi họ làm
việc ở những điều kiện đặc biệt. Theo điều 4 thông tư liên bộ số 20/LB-TT ngày
2/6/1993 của liên bộ lao động – thương binh và xã hội – tài chính thì có 7 loại phụ
cấp sau:
- Phụ cấp khu vực: áp dụng đối với những nơi xa xôi, hẻo lánh, có nhiều khó
khăn và điều kiện khí hậu khắc nghiệt. Có các mức phụ cấp với hệ số: 0,1; 0,2; 0,3;
0,4; 0,5; 0,6; 0,7 và 1,0 so với mức lương tối thiểu.
- Phụ cấp độc hại, nguy hiểm chưa xác định trong mức lương: khi người lao
động làm việc trong điều kiện độc hại, nguy hiểm.
- Phụ cấp trách nhiệm cao hoặc phải kiêm nhiệm công tác quản lý không
thuộc chức vụ lãnh đạo.
-Phụ cấp làm đêm: áp dụng đối với công nhân viên chức làm việc ca ba (từ
22h đến 6h sáng).
Phụ cấp này gồm hai mức:

30% tiền lương cấp bậc hoặc chức vụ đối với công việc không thường xuyên
làm vào ban đêm.
40% tiền lương cấp bậc hoặc chức vụ đối với công việc thường xuyên làm
theo ca.
- Phụ cấp thu hút: áp dụng đối với công nhân viên chức đến làm ở những
vùng kinh tế mới, cơ sở kinh tế và các đảo xa đất liền có điều kiện sinh hoạt đặc
biệt khó khăn, chưa có cơ sở hạ tầng.
- Phụ cấp đắt đỏ: áp dụng đối với những nơi có chỉ số giá cả sinh hoạt
(lương thực, thực phẩm, dịch vụ) cao hơn chỉ số giá sinh hoạt bình quân chung cả
nước từ 10% trở lên.
- Phụ cấp lưu động: áp dụng đối với những nghề hoặc công việc phải thường
xuyên thay đổi địa điểm làm việc hoặc ở nơi ở.
6. Tiền thưởng
Tiền thưởng thực chất là một khoản tiền lương bổ sung nhằm quán triệt đầy đủ hơn
nguyên tắc phân phối theo lao động. Trong cơ cấu thu nhập của người lao động thì
tiền lương có tính ổn định thường xuyên còn tiền lương chỉ là phần thêm và phụ
thuộc vào chỉ tiêu tiền thưởng, vào kết quả sản xuất kinh doanh.
Các khoản tiền thưởng gồm:
+Thưởng thường xuyên (có tính chất lương): thực chất là một phần quỹ
lương được tách ra để trả cho người lao động dưới hình thức tiền lương theo một
tiêu chí nhất định.
+Tiền thưởng về chất lượng sản phẩm: áp dụng khi nhân công có sáng kiến
làm nâng cao chất lượng sản phẩm. Khoản tiền thưởng này có tính trên cơ sở tỷ lệ
chung không quá 40% phân chênh lệch giá giữa sản phẩm có phẩm chất coa với
sản phẩm có phẩm chất thấp.
+Tiền thưởng về tiết kiệm vật tư: áp dụng khi người lao động có sáng kiến,
biện pháp và làm việc tiết kiệm được vật tư, hàng hóa. Khoản tiền thưởng này tính
trên cơ sở giá trị vật tư người lao động tiết kiệm được so với định mức và tỷ lệ quy
định không quá 40%.
+ Tiền thưởng không thường xuyên: khoản tiền thưởng này không thuộc quỹ

lương mà được trích từ quỹ khen thưởng, khoản tiền thưởng này thường được trả
cho người lao động dưới hình thức phân loại người lao động trong một kỳ (quý,
nửa năm, một năm), khoản tiền thưởng này không thuộc chi phí của doanh nghiệp
nhưng thuộc thu nhập của người lao động
Thưởng một cách đúng đắn, hợp lý là cần thiết, nó như một đòn bẩy kinh tế
kích thích tăng năng suất và tiết kiệm chi phí. Vì vậy, chế độ tiền thưởng cần tôn
trọng các nguyên tắc sau:
* Phải xuất phát từ đặc điểm, yêu cầu, tầm quan trọng của sản xuất hay công
việc mà áp dụng hình thức hay chế độ thưởng thích hợp.
* Phải đảm bảo quan hệ giữa chỉ tiêu số lượng và chất lượng.
* Đảm bảo mức thưởng hợp lý công bằng với người lao động.
* Tiền thưởng không vượt quá số tiền làm lợi.
7. Chế độ và hình thức trả lương
a. Chế độ trả lương
Để quản lý lao động tiền lương Nhà nước quy định chế dộ tiền lương gồm hai loại
là tiền lương cấp bậc và tiền lương chức vụ.
- Chế độ tiền lương cấp bậc.
Chế độ tiền lương cấp bậc thường áp dụng tính lương cho công nhân được
xây dựng trên cơ sở lượng và chất lượng lao động. Mỗi loại công việc có yêu cầu,
điều kiện lao động khác nhau. ... Tiền lương cấp bậc thể hiện sự khác biệt của các
công việc. Như vậy, tiền lương cấp bậc giúp điều chỉnh tiền lương giữa các nghành
nghề một cách hợp lý giảm đi sự bình quân trong lao động.
- Chế độ tiền lương cấp bậc gồm 3 cấp độ sau:
+ Thang lương: là bảng xác định quan hệ tỷ lệ về tiền lương giữa các công
nhân cùng nghề, hoặc nhóm nghề giống nhau theo trình độ cấp bậc của họ. Mỗi
thang lương có các bậc lương và hệ số lương tương ứng. Hệ số này do Nhà nước
quy định.
+ Mức lương: là số lượng tiền tệ trả cho công nhân lao động trong một đơn
vị thời gian phù hợp với các bậc trong thang lương, trong đó mức lương thấp nhất
cũng phải lớn hơn hoặc bằng mức lương tối thiểu quy định.

+ Tiêu chuẩn cấp bậc kỹ thuật: Là văn bản quy định về mức độ phức tạp
công việc, tay nghề của công nhân ở mức độ nào đó. Tiêu chuẩn này xác định mức
độ lành nghề của công nhân và làm căn cứ để xác định mức lương.
Tuy nhiên, chế độ lương cấp bậc chỉ phù hợp với công nhân trực tiếp sản xuất.
- Chế độ tiền lương theo chức vụ.
Chế độ này áp dụng với nhân viên hưởng lương thời gian và được thực hiện
thông qua bảng lương do Nhà nước ban hành.
Hình thức trả lương
Tiền lương của người lao đông do hai bên thoả thuận trong hợp đồng lao
động. Nó cũng được trả theo năng suất, chất lượng và hiệu quả lao động. Có các
hình thức trả lương sau:
Trả lương theo thời gian.
Trả lương theo sản phẩm.
Hình thức khoán thu nhập
Trong đó hai hình thức đầu là hay được dùng hơn cả. Nó được kết hợp hoặc không
trong việc trả lương sao cho phù hợp với đặc điểm sản xuất, đặc biệt là tạo sự
công bằng trong phân phối thu nhập.
Hình thức trả lương theo thời gian: gồm hai loại:
Trả lương theo thời gian đơn giản.
Trả lương theo thời gian có thưởng.
Hình thức trả lương theo sản phẩm bao gồm 6 loại:
+ Trả lương theo sản phẩm trực tiếp cá nhân.
+ Trả lương theo sản phẩm tập thể.
+ Trả lương theo sản phẩm gián tiếp.
+ Trả lương theo sản phẩm có thưởng.
+ Trả lương theo sản phẩm luỹ tiến.
+ Trả lương khoán.
* Hình thức trả lương theo thời gian.
Đây là hình thức căn cứ vào thời gian lao động thực tế và mức lương cấp bậc (trình
độ thành thạo, điều kiện làm việc, mức độ trách nhiệm của người lao động)

+ Trả lương theo thời gian đơn giản.
Đây là hình thức trả lương cho người lao động căn cứ vào bậc lương và thời
gian lao động thực tế mà không xét đến thái độ làm việc.
Chế độ trả lương này chỉ áp dụng cho người lao động không thể định mức và
tính toán chặt chẽ được đơn giá tiền lương, hoặc công việc của người lao động chỉ
đòi hỏi đảm bảo chắt lượng sản phẩm mà không đòi hỏi năng suất lao động. Có các
hình thức cụ thể sau:
* Lương tháng: được quy định sẵn với từng bậc lương trong các thang
lương. Lương tháng thường được dùng để trả lương cho công nhân viên làm công
tác quản lý hành chính, quản lý kinh tế và các nghành hoạt động ít mang tính sản
xuất.
Tiền lương = Lương cấp bậc công việc + phụ cấp (nếu có).
* Lương ngày
Đối tượng chủ yếu như
lương tháng. Một ưu
điểm của lương ngày là
nó khuyến khích người
lao động đi làm đều.
=
Lương cấp
bậc công việc
theo ngày
x
Hệ số
phụ cấp
(nếu có)
x
Số ngày
làm việc
thực tế

Hoặc tính theo công thức:
Lương
ngày
=
Lương tháng
x
Số ngày
làm việc
thực tế
Số ngày làm việc theo chế độ trong
tháng
Trong doanh nghiệp, lương ngày dùng để tính lương cho công nhân sản xuất trong
thời gian nghỉ việc tròn ngày vì lý do thuộc về doanh nghiệp. Lương ngày cũng là
căn cứ để tính trợ cấp BHXH cho cán bộ công nhân viên khi họ được hưởng trợ
cấp theo chế độ quy định.
* Lương giờ
Áp dụng đối với người làm việc tạm thời đối với từng công việc
Lương giờ =
Lương ngày
x Số giờ làm việc thực tế
8 giờ làm việc thực tế
Lương giờ được dùng để tính lương cho người lao động khi họ nghỉ việc
không trọn ngày vì lý do thuộc về doanh nghiệp. Nó còn là cơ sở quan trọng để xây
dựng đơn giá tiền lương.
Ở nước ta mới chỉ tính lương ngày và lương tháng. Tuy chế độ trả lương này
dễ tính, dễ trả lương cho người lao động nhưng nhược điểm lớn nhất của nó là
mang tính bình quân nên không khuyến khích được người lao động tích cực trong
công việc và không quán triệt được nguyên tắc phân phối theo lao động. Bởi vậy
xu hướng chung là chế độ trả lương này ngày càng giảm bớt.
+ Trả lương theo thời gian có thưởng.

Thực chất của chế độ trả lương này là sự kết hợp giữa trả lương theo thời
gian đơn giản với chế độ tiền thưởng khi công nhân vượt mức những chỉ tiêu số
lượng và chất lượng quy định.
Tiền lương = Lương theo thời gian giản đơn + Tiền thưởng.
Hình thức này có nhiều ưu điểm hơn so với hình thức trả lương theo thời
gian đơn giản, vừa phản ánh được trình độ thành thạo vừa khuyến khích được
người lao động có trách nhiệm với công việc. Nhưng việc xác định tiền lương, tiền
thưởng bao nhiêu là rất khó khăn. Vì vây, nó vẫn chưa đảm bảo phân phối theo lao
động.
Như vậy, lương theo thời gian dễ tính, dễ trả nhưng nó mang tính bình quân,
không đánh giá đúng kết quả lao động, không đảm bảo nguyên tắc “làm theo năng
lực hưởng theo lao động”.
* Hình thức trả lương theo sản phẩm.
Tiền lương trả theo sản phẩm là một hình thức lương cơ bản đang được áp
dụng phổ biến trong khu vực sản xuất hiện nay. Tiền lương mà người lao động
nhận được phụ thuộc vào đơn giá tiền lương một đơn vị sản phẩm, một công đoạn
chế biến sản phẩm và số lượng sản phẩm mà người lao động làm được với chất
lượng theo tiêu chuẩn quy định. Hình thức trả lương này có nhiều ưu điểm so với
hình thức trả lương theo thời gian. Vì thế, một trong những phương thức cơ bản
của côang tác tổ chức tiền lương ở nước ta là không ngường mử rộng diện trả
lương theo sản phẩm trong các đơn vị sản xuất hiện nay. Trả lương theo sản phẩm
có các ưu điểm sau:
* Quán triệt nguyên tắc phân phố theo lao động. Gắn thu nhập về tiền lương
với kết quả sản xuất của người lao động. Do đó kích thích được công nhân nâng
cao năng suất lao động
* Khuyến khích người lao động ra sức học tập văn hoá, kỹ thuật, nghiệp vụ
để nâng cao tình độ lành nghề, ra sức phát huy sáng tạo, cải tiến kỹ thuật, cải tiến
phương pháp lao động, sử dụng tốt máy móc thiết bị để nâng cao năng suất lao
đông, chất lượng sản phẩm.
* Góp phần thúc đẩy việc cải tiến quản lý doanh nghiệp nhất là công tác lao

động và thực hiện tốt kế hoạch kinh tế. Cụ thể: khi một doanh nghiệp bố trí lao
động chưa hợp lý, dẫn đến năng suất lao động thấp, thu nhật của người lao động
không cao. Do quyền lợi thiết thực bị ảnh hưởng người lao động sẽ kiến nghị để ải
tiến lại những bất hợp lý.
Tuy nhiên để phát huy đầy đủ tác dụng của công tác trả lương theo sản phẩm
nhằm đem lại hiểu quả kinh tế cao phải có những điều kiện cơ bản sau:
Xây dựng được một hệ thống định mức lao động có căn cứ khoa học, chính xác
dựa trên việc đánh giá sức lao động đã hao phí. Đay là yếu tố quan trọng bởi nó
ảnh hưởng trực tiếp đến lưọi ích của người lao động, đến giá thành sản phẩm, đến
ngân sách nhà nước và sự công bằng xã hội.
Thực hiện tốt công tác thống kê, kiểm tra, nghiệm thu sản phẩm sản xuất ra để đảm
bảo chất lượng sản phẩm tránh làm bừa, làm ẩu để chạy theo số lượng.
Khuyến khích người lao động làm chủ tập thể, phát huy tinh thần làm chủ tập
thể, dám nghĩ, dám làm, đoàn kết, phối hợp làm việc trong tập thể.
Tổ chức sắp xếp cơ cấu bộ máy lao động hợp lý, ổn định tạo cho người lao
động một môi trường làm việc tốt.
Có các cơ chế trả lương sau:
+ Chế độ trả lương theo sản phẩm trực tiếp cá nhân.
Cách trả lương này được áp dụng rộng rãi với công nhân trực tiếp sản xuất
trong điều kiện quy trình lao động của ngưòi công nhân mang tính độc lập tương
đối, có thể định mức kiểm tra và nghiệm thu sản phẩm một cách riêng biệt. Đơn
giá tiền lương của cách trả lương này là cố định trong một khoảng thời gian nào đó
và tính theo công thức:
ĐG =
L
= L x T
đm
Q
đm
Trong đó:

ĐG: đơn giá tiền lương.
L: Lương cấp bậc công nhân làm công việc tương ứng.
Q
đm
: mức sản lượng định mức
T
đm
: mức thời gian định mức
Tiền lương của công nhân được tính theo công thức:
L = ĐG x Q
Q: mức sản lượng thực tế.
Ưu điểm: mối quan hệ giữa tiền lương của công nhân nhận được và kết quả
lao động thể hiện rõ ràng, người lao động xác định ngay được tiền lương của mình
do đó khuyến khích quan tâm đến chất lượng sản phẩm của họ.
Nhược điểm: người công nhân ít quan tâm đến máy móc, chất lượng sản
phẩm, tinh thần tập thể tương trợ lẫn nhau trong sản xuất dẫn đến tình trạng dấu
nghề, dấu kinh nghiệm.
+ Chế độ trả lương theo sản phẩm gián tiếp.
Áp dụng cho những công nhân phụ mà kết quả lao động của họ ảnh hưởng
nhiều đến kết quả hoạt động của công nhân chính hưởng lương theo sản phẩm như:
công nhân sửa chữa, công nhân điều chỉnh thiết bị trong nhà máy ...
Đặc điểm của chế độ trả lương này là thu nhập về tiền lương của công nhân
lại tuỳ thuộc vào kết quả sản xuất của công nhân chính.
Cách tính:
ĐG
p
=
Lc
bcnv
(lao động phụ)

+ Phụ cấp (nếu có)
M
slđm
(do lao động)
TL
p
= ĐG
p
x M
ls
(do lao động chính làm ra)
Tiền lương
p
: Tiền lương của lao động phụ.
M
lsđm
: Số sản phẩm định mức lao động chính làm ra.
Ưu điểm: Cách trả lương này đã khuyến khích công nhân phụ phục vụ tốt
hơn cho công nhân chính.
Nhược điểm: Do phụ thuộc vào kết quả của công nhân chính do vậy việc trả
lương chưa thật chính xác. Tiền lương của công nhân phụ phụ thuộc nhiều vào
trình độ, tay nghề của công nhân chính cho dù người lao động phụ có hoàn thành
công việc của mình đến đâu. Như vậy tiền lương chưa thực sự đảm bảo đúng hao
phí lao động mà công nhân phụ bỏ ra. Dẫn đến tình trạng những người có trình độ
như nhau, hoàn thành những công việc như nhau nhưng lại có mức lương khác
nhau.
+ Chế độ trả lương theo sản phẩm tập thể.
Chế độ trả lương này áp dụng đối với những công việc cần một tập thể công
nhân thực hiện như lắp ráp thiết bị, sản xuất ở các bộ phận lam việc theo dây
chuyền.

Tiền lương trước hết tính chung cho cả tập thể sau đó tính và chia cho từng
người trong tập thể đó.
Đơn giá cho một đơn vị sản phẩm
Đ
G
=
(L
cbcnv
+ phụ cấp)
M
sl
Trong đó:
L
cbcnv
: Lương cấp bậc công việc.
M
sl
: Định mức sản lượng
Xác định tiền lương cho cả tập thể.

×