Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CÔNGTÁC KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TẠI CÔNG TY TNHH THƯƠNG MẠI VÀ XÂY DỰNG TRUNG SƠN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.29 KB, 14 trang )

MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN CÔNGTÁC
KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TẠI
CÔNG TY TNHH THƯƠNG MẠI VÀ XÂY DỰNG TRUNG SƠN
3. Nhận xét về kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành ở Công ty
3.1 Về tổ chức hệ thống sổ sách, chứng từ
Hình thức kế toán "Nhật ký chung" mà Công ty đang áp dụng có nhiều đặc
điểm phù hợp và thuận lợi cho việc ghi chép các sổ kế toán có liên quan.
Phòng tài chính kế toán của Công ty đã xây dựng một hệ thống sổ sách khoa
học và phù hợp với yêu cầu của chế độ kế toán. Công ty đã mở sổ kế toán phản ánh
cho từng công trình, hạng mục công trình và mở sổ chi tiết các tài khoản cho từng
đội xây dựng, đảm bảo cho việc cung cấp thông tin kịp thời, chính xác.
Kế toán công trình thu thập chứng từ, lên bảng kê sau đó gửi về phòng tài
chính kế toán của Công ty, sau đó kế toán tại Công ty sẽ lên bảng tổng hợp rồi lưu
vào sổ. Việc này làm giảm bớt công việc cho nhân viên của phòng kế toán, thuận
tiện trong việc đối chiếu kiểm tra sổ sách giữa kế toán công trình và kế toán Công
ty, đồng thời phù hợp với đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh, phương pháp
kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp.
Tuy nhiên, mô hình tổ chức vừa tập trung vừa phân tán cũng dẫn đến việc tập
hợp chứng từ để kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp về
phòng tài chính kế toán của Công ty còn chậm trễ. Theo quy định thì hàng tháng kế
toán công trình phải tập hợp chứng từ rồi gửi về phòng tài chính kế toán nhưng
trên thực tế thì không phải lúc nào chứng từ cũng về vào cuối tháng, có thể do
nguyên nhân chủ quan hoặc khách quan nhưng điều này ảnh hưởng đến việc hạch
toán các nghiệp vụ kinh tế phát sinh cũng như ảnh hưởng đến việc nghiệm thu, bàn
giao, thanh toán cho các công trình.
3.1.2. Về đối tượng, phương pháp kế toán chi phí sản xuất và tính giá
thành
Do đặc điểm của sản phẩm là các công trình có kết cấu phức tạp, thời gian xây
dựng kéo dài, sản phẩm mang tính đơn chiếc... nên việc Công ty xác định đối
tượng tập hợp chi phí sản xuất, đối tượng tính giá thành sản phẩm là từng công
trình, hạng mục công trình là hoàn toàn phù hợp. Công ty áp dụng hình thức khoán


gọn xuống các đội xây dựng, quy định mức chi phí tối đa cho phép và thời hạn
hoàn thành công việc. Việc quy định mức chi phí tối đa hạn chế được những lãng
phí xảy ra trong quá trình xây dựng. Hàng tháng Công ty tiến hành cử nhân viên kỹ
thuật xuống các đội để kiểm tra do đó chất lượng công trình cũng được bảo đảm.
Phương pháp kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm ở Công ty là
phương pháp trực tiếp về cơ bản đã đáp ứng được yêu cầu kế toán chi phí sản xuất
của Công ty, phù hợp với chế độ kế toán áp dụng trong các doanh nghiệp xây lắp.
Chi phí sản xuất được phân theo 4 khoản mục chi phí riêng biệt tạo điều kiện thuận
lợi cho việc theo dõi hạch toán các chi phí của các đội xây dựng trong quá trình thi
công.
3.1.3. Về kế toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Công ty thực hiện khá đầy đủ các quy định về tập hợp chi phí nguyên vật liệu
trực tiếp theo quy định của Bộ Tài chính. Chứng từ về chi phí nguyên vật liệu trực
tiếp được kế toán các đội tập hợp rồi chuyển về phòng tài chính kế toán của Công
ty; kế toán Công ty kiểm tra tính hợp lý, hợp lệ rồi mới ghi sổ theo đúng chế độ
phù hợp. Phần lớn số nguyên vật liệu chính Công ty đều chủ động mua sắm và
chuyển thẳng tới chân từng công trình, điều này giúp giảm được chi phí kho bãi và
chi phí do thất thoát và hỏng vật tư.
Ngoài ra, Công ty cũng khoán gọn cho các đội tự tìm nguồn cung cấp mua
nguyên vật liệu tại địa phương thi công công trình. Việc làm này tạo điều kiện chủ
động nhưng cũng có thể khó khăn trong vấn đề kiểm soát nguyên vật liệu, nếu đội
xây dựng mua quá nhiều nguyên vật liệu sẽ làm tăng chi phí bảo quản nguyên vật
liệu, nhưng nếu mua ít quá thì lại ảnh hưởng đến tiến độ thi công công trình. Mặt
khác, thời gian phát sinh nghiệp vụ xuất kho và thời gian hạch toán không đồng
nhất làm các chứng từ lưu ở công trường lâu dễ bị thất lạc, ảnh hưởng đến việc kế
toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp.
3.1.4. Về kế toán chi phí nhân công trực tiếp
Công ty không chỉ sử dụng lao động trong biên chế mà còn tận dụng nguồn
lao động thuê ngoài sẵn có ở địa phương với hình thức trả lương phù hợp, điều này
góp phần làm tăng năng suất lao động và làm giảm chi phí nhân công trực tiếp.

Công ty thực hiện khoán lương theo công trình, các chứng từ về chi phí tiền
lương được kế toán tập hợp riêng cho từng công trình, hạng mục công trình, từ đó
giúp việc hạch toán chi phí nhân công trực tiếp cho từng công trình, hạng mục
công trình được thuận lợi hơn.
Tuy nhiên, trong kế toán chi phí nhân công trực tiếp, việc Công ty sử dụng tài
khoản 334- Phải trả người lao động để hạch toán cho cả hai đối tượng công nhân
thuê ngoài và trong biên chế là không cụ thể dẫn đến khó khăn cho kế toán trong
công tác hạch toán và tính các khoản trích theo lương. Mặt khác, việc theo dõi chi
phí nhân công trực tiếp tại các đội xây dựng chỉ được thực hiện thông qua Bảng
chấm công và Bảng kê chi phí nhân công trực tiếp; việc theo dõi này chỉ mang tính
phản ánh chính xác số công và và tình hình thanh toán tiền lương cho công nhân
mà chưa phản ánh được tiến độ thi công của công trình.
3.1.5. Về kế toán chi phí sử dụng máy thi công
Cũng như chi phí nhân công trực tiếp, các khoản trích KPCĐ, BHXH, BHYT
tính theo tiền lương phải trả công nhân sử dụng máy thi công không hạch toán vào
TK 623 mà phản ánh ở TK 627. Việc làm này là chính xác và đúng với chế độ.
Do địa bàn hoạt động rộng nên ngoài việc điều động các xe, máy của Công ty,
Công ty còn thuê ngoài máy thi công đối với các công trình ở xa với chi phí vừa
phải để đảm bảo tiến độ thi công. Điều này hoàn toàn hợp lý để nâng cao hiệu quả
lao động ở công trình, góp phần làm giảm đáng kể chi phí sử dụng máy thi công.
Tuy nhiên, với chi phí nhiên liệu phục vụ máy thi công, Công ty thực hiện
phân bổ chi phí này theo chi phí nhân công trực tiếp là chưa chính xác do có những
công trình có chi phí nhân công trực tiếp nhiều nhưng lại sử dụng ít chi phí nhiên
liệu cho máy thi công hơn những công trình khác có chi phí nhân công trực tiếp ít
hơn.
Bên cạnh đó, Công ty đã không tiến hành trích trước chi phí sửa chữa lớn máy
thi công. Khi phát sinh chi phí sửa chữa lớn, kế toán đội sẽ hạch toán hết vào tài
khoản chi phí máy thi công trong kỳ và phân bổ cho các đối tượng sử dụng. Điều
này sẽ làm cho khoản mục chi phí sử dụng máy thi công mất cân đối.
3.1.6. Về kế toán chi phí sản xuất chung

Chi phí sản xuất chung của Công ty được hạch toán chi tiết theo từng yếu tố
chi phí, chi phí sản xuất chung phát sinh ở công trình nào thì được hạch toán trực
tiếp vào công trình đó; với những chi phí phát sinh cho nhiều công trình thì được
kế toán tổng hợp lại và phân bổ theo tiêu thức thích hợp. Chủ nhiệm, kỹ thuật công
trình cần lên kế hoạch chi tiết cho từng loại dụng cụ, thiết bị cần mua, do đó tránh
được tình trạng lãng phí không cần thiết.
Để kế toán chi phí sản xuất chung, Công ty mở chi tiết TK 627 thành 5 tài
khoản là: TK 6271- chi phí lương nhân viên quản lý, TK 6272- chi phí khấu hao
TSCĐ, TK 6273- chi phí công cụ dụng cụ, TK 6277- chi phí dịch vụ mua ngoài và
TK 6278- chi phí bằng tiền khác. Việc làm này tạo điều kiện thuận lợi cho công tác
quản lý và hạch toán chi phí sản xuất chung được thực hiện hiệu quả.
Tuy nhiên, Công ty tiến hành phân bổ chi phí sản xuất chung theo chi phí
nhân công trực tiếp là chưa hợp lý vì hiện nay, khoa học kỹ thuật được ứng dụng
vào sản xuất ngày càng nhiều làm chi phí nhân công giảm đi nhiều. Do đó, việc
phân bổ theo tiêu thức này sẽ làm chi phí sản xuất chung phân bổ cho từng công
trình không được phản ánh chính xác dẫn đến sự sai lệch trong giá thành sản phẩm.
3.1.7. Về công tác đánh giá sản phẩm dở dang cuối kỳ
Cuối mỗi quý, Công ty tiến hành đánh giá sản phẩm dở dang cuối kỳ với
phương pháp đánh giá tùy thuộc vào quy mô mỗi công trình và phương thức thanh
toán với bên A. Với công thức tính toán có sẵn, kế toán tiến hành chạy máy tính
cho ra giá trị dở dang cuối kỳ. Sau đó thì việc tính giá thành sản phẩm được tiến
hành rất đơn giản theo phương pháp trực tiếp. Đây là phương pháp đơn giản và ít
có sai sót.
Việc Công ty đánh giá sản phẩm dở dang cuối kỳ theo phương thức thanh toán
theo điểm dừng kỹ thuật hợp lý có ưu điểm là nhanh gọn, không làm ảnh hưởng
đến giá thành của toàn bộ công trình, hạng mục công trình. Tuy nhiên, do dựa trên
giá trị dự toán nên nhiều khi các tính toán này lại không chính xác, không đúng với
thực tế.

×