Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ KẾ TOÁN BÁN HÀNG VÀ XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ TIÊU THỤ TRONG CÁC DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216.68 KB, 35 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ KẾ TOÁN BÁN HÀNG VÀ XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ TIÊU
THỤ TRONG CÁC DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI.
1.1: Những vấn đề cơ bản về kế toán bán hàng và xác định kết quả tiêu thụ trong
các doanh nghiệp thương mại.
Hoạt động thương mại hay kinh doanh hàng hoá là quá trình trao đổi hàng hoá
thông qua mua bán trên thị trường. Xét thực chất đó là quá trình trao đổi hàng hoá
của nền kinh tế xã hội.
Sự hình thành hoạt động kinh doanh hàng hoá là tất yếu do quá trình phân
công lao động xã hội và lợi thế so sánh giữa các vùng, các doanh nghiệp, các quốc
gia với nhau. Phân công lao động là sự định ra sự cần thiết nhằm vừa làm thoả mãn
nhu cầu lẫn nhau, vừa khai thác lợi thế so sánh lẫn tái đầu tư, tái sản suất (sức lao
động và các sản phẩm khác).
Thương mại có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân thể hiện ở chỗ:
- Trước hết nó là một bộ phận hợp thành của tái sản xuất. Thương mại nối
liền giữa sản xuất và tiêu dùng. Dòng vận động của sản phẩm hàng hoá qua khâu
thương mại để hoặc tiếp tục cho sản xuất hoặc đi vào tiêu dùng cá nhân. Ở vị trí
cấu thành của tái sản xuất xã hội thương mại được coi như hệ thống dẫn lưu bảo
đảm tính liên tục của quá trình tái sản xuất. Khâu này bị ách tắc sẽ dẫn đến sự
khủng hoảng của sản xuất và tiêu dùng.
- Thương mại là một phần của sản xuất hàng hoá, sản phẩm hàng hoá có mục
đích là thoả mãn nhu cầu của người khác để trao đổi, mua bán,. hoạt động thương
mại gắn liền với hoạt động sản xuất hàng hoá.
Thương mại là lĩnh vực kinh doanh cũng thu hút trí lực và tiền của nhà đầu tư
đưa lại lợi nhuận. Kinh doanh thương mại có những đặc thù của nó: Đó là quy luật
hàng hoá vận động từ nơi có giá trị thấp đến nơi có giá trị cao, quy luật mua rẻ bán
đắt, quy luật của người có hàng hoá bán cho người cần (quy luật cung-cầu). Bỏ tiền
mua hàng hoá, sau đó bán lại cũng có thu được lợi nhuận thậm chí siêu lợi nhuận.
Vì vậy kinh doanh thương mại cũng trở thành ngành sản xuất vật chất thứ hai.
Ở tầm vĩ mô thương mại là điều kiện tiền đề để thúc đẩy sản xuất hàng hoá
cùng các mối quan hệ hàng hoá tiền tệ. Qua hoạt động mua bán tạo ra động lực
kích thích những người sản xuất, thúc đẩy phân công lao động, tổ chức lại sản


xuất, hình thành các vùng chuyên môn hoá sản xuất các hàng hoá lớn.
Thương mại kích thích sự phát triển của lực lượng sản xuất, người sản xuất sẽ
tìm đủ mọi cách để cải tiến công tác, áp dụng khoa học và công nghệ mới, giảm
thiểu chi phí để thu được lợi nhuận. Đồng thời cạnh tranh trong thương mại bắt
buộc người sản xuất phải năng động, không ngừng nâng cao tay nghề, chuyên môn
hoá và tính toán, thực chất hoạt động kinh doanh tiết kiệm các nguồn lực và nâng
cao năng suất đem lại lợi nhuận cao nhất. Đó là những nhân tố tác động làm cho
lực lượng sản xuất phát triển.
Thương mại luôn kích thích nhu cầu và tạo ta nhu cầu mới. Thương mại một
mặt làm cho nhu cầu trên thị trường sát thực với nhu cầu thực tế hơn, mặt khác nó
còn làm bộ lộ tính đa dạng phong phú của nhu cầu trong kinh doanh thương mại.
Từ đó đã buộc các nhà sản xuất phải sản xuất đa dạng về loại hình sản phẩm, kiểu
dáng mẫu mã, chất lượng sản phẩm. Điều này đã tác động ngược lại người tiêu
dùng làm nổi bật những nhu cầu tiềm tàng trong thương mại. Tóm lại thương mại
làm tăng trưởng nhu cầu và đó là gốc rễ của sự phát triển sản xuất kinh doanh.
Thông qua phát triển của hoạt động thương mại làm cho nền kinh tế trong
nước gắn liền với kinh tế thế giới thực hiện chính sách kinh tế mở, góp phần mở
rộng và phát triển quan hệ quốc tế.
Nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung với nét đặc trưng nổi bật là từ sản xuất tới
tiêu thụ sản phẩm hoàn toàn do nhà nước quyết định, các doanh nghiệp không cần
quan tâm tới sản phẩm của mính có được thị trường chấp nhận tiêu dùng hay
không mà chỉ quan tâm tới việc sản xuất cái sẵn có. Theo chỉ tiêu kế hoạch nhà
nước giao cho, doanh nghiệp không quan tâm tới hiệu quả sản xuất kinh doanh
được hay mất lỗ hay lãi đã có nhà nước chịu.
Chính vì cơ chế quản lý như vậy nên các doanh nghiệp thường ỷ lại trông chờ
vào nhà nước làm mất đi tính tự chủ nhạy bén trong việc sản xuất cung cấp sản
phẩm-hàng hóa ra thị trường. đối với các doanh nghiệp thương mại thì họ thực hiện
nhiệm vụ mua bán lưu thông hàng hoá theo yêu cầu của nhà nước. Nhà nước độc
quyền trong việc phân phối hàng hoá thông qua các doanh nghiệp thương mại do
nhà nước làm chủ, điều này đã gây nên sự hạn chế, mất cân đối giữa cung và cầu

trên thị trường dẫn đến nền kinh tế bị trì trệ, kìm hãm lún sâu vào sự khủng
hoảngs. Chính sách kinh tế mới của nhà nước đã tạo ra môi trường kinh doanh
thuận lợi song cũng chứa đầy những khó khăn thử thách đòi hỏi những doanh
nghiệp thương mại phải có cái nhìn toàn diện trong hoạt động sản xuất kinh doanh
của mình. Các doanh nghiệp phải hoạt động với phương châm hạch toán kinh
doanh được ăn lỗ chịu và tự chịu trách nhiệm trước nhà nước và pháp luật về hoạt
động của mình. Vì vậy mỗi doanh nghiệp đều phải năng động nhạy bén thích nghi
với môi trường kinh doanh mới với mục tiêu hướng tới là thị trường, thị trường là
sản xuất và phát triển, là đích để các doanh nghiệp chinh phục và khai thác. Để đạt
được điều đó các doanh nghiệp phải làm tốt công tác bán hàng, tiếp cận thị trường
để tiêu thụ sản phẩm. Đối với các doanh nghiệp thương mại thì hoạt động bán hàng
cực kỳ quan trọng. Trong doanh nghiệp thương mại bán hàng là hoạt động chủ yếu
cuối cùng và quan trọng nhất, nó giúp cho vốn kinh doanh của doanh nghiệp nhanh
chóng chuyển từ hình thái hàng hoá sang hình thái tiền tệ và là cơ sở để xác định
kết quả kinh doanh sau này.
Đối với bản thân các doanh nghiệp: thực hiện tốt công tác bán hàng giúp
doanh nghiệp thu hồi vốn nhanh làm cho tốc độ chu chuyển vốn lưu động nhanh
làm cho doanh nghiệp bớt số vốn huy động từ bên ngoài từ đó giảm được chi phí
về vốn. Doanh nghiệp có tiêu thụ được hàng hoá thì mới có doanh thu để bù đắp
các chi phí, thực hiện được nghĩa với nhà nước và các đối tượng các có liên quan,
cao hơn nưa là thực hiện nghĩa vụ thặng dư, từ đó giúp các nhà quản trị lãnh đạo
biết được tinh hình hoạt động của doanh nghiệp mình và đưa ra các quyết định phù
hợp. Trên góc độ toàn bộ nền kinh tế quốc dân, doanh nghiệp đóng vai trò là một
đơn vị kinh tế cơ sở, sự lớn mạnh của doanh nghiệp góp phần ổn định và phát triển
của toàn bộ nền kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện mục tiêu chung của
quốc gia. Hàng hoá của doanh nghiệp thương mại được lưu thông trên thị trường
đồng nghĩa với việc xã hội thừa nhận kết quả lao động của doanh nghiệp và hơn
thế nữa doanh nghiệp đã khẳng định chỗ đứng của mình trên thị trường. Mặt khác
thực hiện được tốt quá trình bán hàng đã góp phần điều hoà quá trình sản xuất tiêu
dùng, giữa tiền hàng, giữa cung và cầu, là điều kiện đảm bảo sự phát triển cân đối

trong ngành cũng như toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
1.2: Các phương thức bán hàng.
1.2.1: Phương thức bán buôn.
Bán buôn là quá trình bán hàng cho các đơn vị thương mại, sản xuất để tiếp tục
các quá trình sản xuất hay chuyển bán. Như vậy đối tượng bán buôn là rất đa dạng.
Có thể là sản xuất, có thể là thương mại, có thể là trong nước hay nước ngoài.
Đặc trưng của buôn bán là hàng hoá vẫn nằm trong lĩnh vực lưu thông, bán hàng
theo phương thức này thường bán với khối lượng lớn và có nhiều hình thức để
thanh toán.
1.2.2:Phương thức bán lẻ
Bán lẻ là giai đoạn cuối cùng của sự vận động hàng hoá từ nơi sản xuất đến nơi
tiêu dùng, hàng hoá bán lẻ chuyển sang lĩnh vực tiêu dùng, khi đó giá trị hàng hoá
đã được thực hiện, bán lẻ là giai đoạn cuối cùng.
1.2.3: Giao hàng cho các đại lý ký gửi hàng hoá
Giao hàng gửi đại lý chính thức là phương thức biến tướng của phương thức bán
buôn, chuyển hàng. Hàng ký gửi được coi là hàng “gửi bán” và vẫn thuộc sở hữu
của doanh nghiệp đến khi tiêu thụ. Căn cứ vào hợp đồng đã ký kết, cán bộ phòng
kinh doanh lập phiếu xuất kho hay biên bản bàn giao hàng cho đại lý bán sẽ lập
quyết toán và gửi cho doanh nghiệp về số hàng đã bán, số tiền bán hàn trừ hoa
hồng đại lý. Khi đó hàng đã được coi là tiêu thụ và kết toán căn cứ vào biên bản
giao hàng cho đại lý, quyết toán đã lập để ghi sổ kế toán.
Phương thức bán hàng này giúp doanh nghiệp tiế cận và khoai thác thị trường
tốt, mở rộng phạm vi kinh doanh mà không phải đầu tư thêm vốn.
1.2.4: Bán hàng trả góp
Bán hàng trả góp là một biến tướng của phát triển bán hàng trả chậm khi giao
hàng cho người mua thì hàng được coi là tiêu thụ ngay và doanh nghiệp bị mất
quyền sở hữu hàng hoá đó. Doanh nghiệp lập hoá đơn bán hàng và hợp đồng thanh
toán để căn cứ giao hàng và nhận tiền lần đầu. Phần còn lại người mua chấp nhận
trả tiền ở kỳ tiếp theo nhưng không phải chịu mức lãi suất nhất định. Phần lãi suất
thu trên tiền hàng trả dần dùng để bù đắp chi phí tăng trong phần thanh toán và dự

phòng rủi ro có thể xảy ra. Thông thường số tiền phải trả ở các kỳ là bằng nhau bao
gồm một phần doanh thu gốc và một phần lãi suất trả chậm. Phương thức này giúp
doanh nghiệp khai thác triệt để mọi thị trường tiềm năng. Ngoài ra còn có một
phương thức tiêu thụ khác như: biếu tặng, cho, thưởng... bằng hàng hoá.
1.3: Một số khái niệm liên quan đến bán hàng và xác định kết quả tiêu thụ.
1.3.1: Khái niệm doanh thu bán và cung cấp dịch vụ và cách xác định doanh thu?
Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ là tổng giá trị các lợi ích kinh tế
doanh nghiệp thu được trong kỳ kế toán phát sinh từ các hoạtu động sản xuất kinh
doanh thông thường của doanh nghiệp góp phần làm tăng vốn chủ sở hữu.
Theo quy định tại điểm 10,16,24 của chuẩn mực kế toán Việt Nam số 14 vè
doanh thu và thu nhập khác ban hành theo quyết định số 149/2001/QĐ-BTC ngày
31 tháng 12 năm 2001 của Bộ Tài Chính cũng quy định hàng hoá hoặc dịch vụ
được trao đổi để lấy hàng hoá hoặc dịch vụ được trao đổi để lấy hàng hoá hoặc
dịch vụ khác không tương tự thì việc trao đổi đó được coi là một giao dịch tạo ra
doanh thu. Trường hợp này doanh thu được xác định bằng giá trị hợp lý của hàng
hoá hoặc dịch vụ nhận về, sau khi điều chỉnh các khoản tiền hoặc tương đương tiền
trả thêm hoặc thu thêm. Khi không xác định được giá trị hợp lý của hàng hoá hoặc
dịch vụ nhận về thì doanh thu được xác định bằng giá trị hợp lý của hàng hoá hoặc
dịch vụ đem trao đổi, sau khi điều chỉnh các khoản tiền hoặc tương đương tiền trả
nợ thêm hoặc thu thêm.
Chuẩn mực này cũng chỉ rõ, tiêu chuẩn nhận biết giao dịch tạo ra doanh thu
được áp dụng trong từng giao dịch. Trong một số trường hợp tiêu chuẩn nhận biết
giao dịch cần áp dụng tách biệt cho từng bộ phận của một giao dịch đơn lẻ để phản
ánh bản chất của giao dịch đó. Tiêu chuẩn nhận biết giao dịch còn được áp dụng
cho hai hay nhiều giao dịch đồng thời có quan hệ với nhau về mặt thương mại.
Trong trường hợp này phải xem xét chúng trong mối quan hệ tổng thể.
Doanh thu bán hàng được ghi nhận đồng thời thoả mãn tất cả 5 điều kiện sau:
- Doanh nghiệp đã chuyển giao phần lớn rủi ro và lợi ích gắn liền với quyền
hoặc hàng hoá cho người mua.
- Doanh nghiệp không còn nắm giữa quyền quản lý hàng hoá như người sở hữu

hàng hoá hoặc quyền kiểm soát hàng hoá.
- Doanh nghiệp được xác định tương đối chắc chắn.
- Doanh nghiệp đã thu được hoặc sẽ thu được lợi ích kinh tế từ giao dịch bán
hàng.
- Xác định được chi phí liên quan đến giao dịch bán hàng.
Thời điểm chuyển giao phần lớn rủi ro và lợi ích gắn liền với quyền sở hữu hàng
hoá cho người mua trong từng trường hợp cụ thể. Trong hầu hết các trường hợp,
thời điểm chuyển giao phần lớn rủi ro với quyền sở hữu thì doanh nghiệp không
được coi là hoạt động bán hàng và doanh thu không được ghi nhận. Doanh nghiệp
còn phải chịu rủi ro gắn liền với quền sở hữu hàng hoá dưới nhiều hình thức khác
nhau như:
- Doanh nghiệp còn phải chịu trách nhiệm để đảm bảo cho tài sản được hoạt
động bình thường mà điều này không nằm trong các điều khoản bảo hành thông
thường.
- Khi việc thanh toán tiền bán hàng còn chưa chắc chắn vì phụ thuộc vào người
mua hàng đó.
- Khi hàng hoá được giao còn chờ lắp đặt và việc lắp đặt là một phần quan trọng
của hợp đồng mà doanh nghiệp chưa hoàn thành.
- Khi người mua có quyền huỷ bỏ việc mua hàng vì một lý do nào đó được nêu
trong hợp đồng mua bán và doanh nghiệp chưa chắc chắn về khả năng bán hàng đó
bị trả lại hay không.
Nếu doanh nghiệp chỉ còn chịu một phần nhỏ rủi ro gắn liền với quyền sở hữu
hàng hoá thì việc bán hàng được xác định và doanh thu được ghi nhận.
Đối với việc giao dịch và cung cấp dịch vụ doanh thu được ghi nhận khi kết quả
của giao dịch đó được xác định một cách đáng tin cậy. Trong trường hợp giao dịch
về cung cấp dịch vụ liên quan đến nhiều kỳ thì doanh thu được ghi nhận trong kỳ
theo kết quả phân công việc đã hoàn thành vào ngày lập bảng cân đối kế toán của
kỳ đó. Kết quả của giao dịch cung cấp dịch vụ được thoả mãn 4 điều kiện sau:
- Doanh thu được xác định tương đối chắc chắn.
- Có khả năng thu được lợi ích kinh tế từ giao dịch cung cấp dịch vụ đó.

- Xác định được phần công việc đã hoàn thành vào ngày lập bảng cân đối kế
toán.
- Xác định được chi phí phá sinh cho giao dịch và chi phí để hoàn thành giao
dịch cung cấp dịch vụ đó.
Doanh nghiệp có thể ước tính doanh thu cung cấp dịch vụ khi thoả thuận được
với bên đối tác giao dịch những điều kiện sau;
- Trách nhiệm và quyền của mỗi bên trong việc cung cấp hoặc nhận dịch vụ.
- Giá thanh toán.
- Thời hạn và phương thức thanh toán.
Để ước tính doanh thu cung cấp dịch vụ, doanh nghiệp phải có hệ thống kế
hoạch tài chính và kế toán phù hợp. Khi cần thiết, doanh nghiệp có quyền xem xét
và sửa đổi cách tính doanh thu trong quá trình cung cấp dịch vụ. Phần công việc đã
hoàn thành được xác định theo ba phương pháp sau tuỳ thuộc vào bản chất của
dịch vụ:
- Đánh giá phần công việc đã hoàn thành.
- So sánh tỷ lệ % giữa khối lượng công việc đã hoàn thành với tổng công việc
phải hoàn thành.
- Tỷ lệ % chi phí phát sinh so với tổng chi phí để hoàn thành toàn bộ giao dịch
cung cấp dịch vụ.
Cần chú ý rằng, doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ được ghi nhận chỉ khi
đảm bảo doanh nghiệp đạt được lợi ích kinh tế từ giao dịch bán hàng hay cung cấp
dịch vụ còn phụ thuộc vào yếu tố không chắc chắn này đã xử lý xong. Nếu doanh
thu đã được ghi nhận trong trường hợp chưa thu được tiền thì khi xác định khoản
tiền nợ thu này là không thu được thì phải thanh toán vào chi phí sản xuất kinh
doanh trong kỳ và không được ghi giảm doanh thu. Khi xác định khoản phải thu là
không chắc chắn thu được thì phải lập dự phòng nợ phải thu khó đòi mà không ghi
giảm doanh thu. Các khoản nợ phải thu khó đòi khi xác định thật sự là không đòi
được thì được bù đắp bằng nguồn dự phòng nợ phải thu khó đòi.
Doanh thu và chi phí liên quan đến cùng một giao dịch phải được ghi nhận đồng
thời theo nguyên tắc phù hợp. Các chi phí bao gồm cả chi phí phát sinh sau ngày

giao hàng như chi phí bảo hành và chi phí khác thường được xác định chắc chắn
khi các điều kiện ghi nhận doanh thu được thoả mãn. Các khoản tiền nhận trước
của khách hàng không được ghi nhận là doanh thu mà phải ghi nhận là khoản nợ
tại thời điểm nhận tiền trước của khách hàng. Khoản nợ phải trở về số tiền phải
nhận trước của khách hàng chỉ được ghi nhận là khoản doanh thu khi đồng thời
thoả mãn các điều kiện ghi nhận về ghi nhận doanh thu. Khi kết quả của một giao
dịch hoặc cung cấp dịch vụ không được chắc chắn thì doanh thu được ghi nhận
tương ứng với chi phí đã được ghi nhận và có thể thu hồi. Trong giai đoạn đầu về
một giao dịch về cung cấp dịch vụ khi chưa xác định được kết quả một cách chắc
chắn thì doanh thu được ghi nhận bằng chi phí đã ghi nhận và có thể thu hồi được.
Nếu chi phí liên quan đến dịch vụ đó chắc chắn không thu hồi được thì không ghi
nhận doanh thu, và chi phí đã phát sinh được hạch toán vào chi phí các chi phí sẽ
phát sinh thì doanh thu sẽ được ghi nhận.
1.3.2: Các khoản giảm trừ doanh thu
Hàng bán bị trả lại: Là số sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ lao vụ đó tiờu thụ bị
khỏch hàng trả lại do cỏc nguyên nhân như vi phạm hợp đồng kinh tê, hàng bị mất,
kém phẩm chất không đúng chủng loại, quy cách.
Giảm giá hàng bán :là khoản tiền được người bán chấp nhận một cách đặc biệt
trên giá đó thỏa thuận vỡ lý do thuộc lỗi của người bán hàng kộm phẩm chất hay
không đúng quy cách ghi trong hợp đồng kinh tế.
Chiết khấu thương mại: là khoản tiền người mua được hưởng do mua hàng hóa,
sản phẩm với số lượng nhiều hay thường xuyên sử dụng nhiều dịch vụ lao vụ của
đơn vị.
1.3.3: Doanh thu thuần (DTT): là số chờnh lệch giữa doanh thu bán hàng với các
khoản giảm giá hàng bán, chiết khấu thương mại, doanh thu của số hàng bán trả
lại,thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu, thuế GTTT theo phương pháp trực tiếp.
DTT =
DT bán
hàng -
Chiết khấu

TM -
Giảm giá
hàng bán -
Hàng bán
trả lại -
Thuế
TTĐB,XNK,GTGT
1.3.4: Giá vốn hàng bán và các phương pháp tính giá vốn.
Giá vốn hàng bán: có thể là giá thành công xưởng thực tế của sản phẩm xuất
bỏn hay giỏ thành thực tế của lao vụ, dịch vụ cung cấp hoặc giỏ mua thực tế của
hàng húa tiờu thụ.
Trong doanh nghiệp giá vốn được xác định để làm căn cứ ghi sổ dựa trên quy
định theo từng đặc điểm kinh doanh của doanh nghiệp.
Các phương pháp tính giá vốn: Để cho việc giá vốn hàng hoá vừa đảm bảo độ
chính xác, tin cậy, vừa tiết kiệm chi phí, lại phù hợp với tình hình sản xuất kinh
doanh của hàng xuất bán trong kỳ theo các cách sau:
- Tính theo đơn giá thực tế từng loại hàng hoá theo từng lần nhập (giá đích
danh). Phương pháp này thích hợp với những doanh nghiệp có điều kiện bảo quản
riêng từng lô hàng nhập, vì vậy khi xuất lô hàng nào thì sẽ tính giá đích danh của lô
hàng đó.
- Tính giá thực tế bình quân gia quyền
Giá đơn vị bình
quân
= Trị giá thực
tế tồn đầu kỳ
+
Trị giá thực tế
nhập trong kỳ
Số lượng tồn + Số lượng nhập
đầu kỳ trong kỳ

Trong đó:
Trị giá mua
thực tế xuất
dùng
=
Số lượng hàng
xuất bán
x
Giá đơn vị
bình quân
Phương pháp này thích hợp với các doanh nghiệp có ít danh điểm hàng hoá,
tần suất nhập bán.
- Tính theo giá thực tế nhập trước xuất trước (FIFO): theo phương pháp này
trước hết phải xác định được đơn giá mua thực tế nhập kho của từng lần nhập và
giả thiết hàng nào nhập kho trước thì xuất kho trước. Sau đó căn cứ vào số lượng
hàng xuất kho để tính ra trị giá mua thực tế của hàng xuất kho theo nguyên tắc:
Tính theo đơn giá mua thực tế nhập trước đối với lượng xuất kho thuộc lần nhập
trước, số còn lại được tính theo đơn giá thực tế lần nhập tiếp ngay sau.
Trị giá
hàng thực
tế xuất kho
=
Trị giá hàng nhập
kho theo từng lần
nhập
X
Số lượng hàng hoá
xuất kho trong kỳ theo số
lượng lần nhập
Phương pháp này thích hợp với những mặt hàng có giá cả thường xuyên biến

động, cách tính như vậy đảm bảo tính kịp thời, sát với thưc tế vận động của hàng
hoá và giá cả, từng thời kỳ nhưng khối lượng công việc ghi sổ và tính toán các đơn
vị khó đáp ứng được điều kiện áp dụng phương pháp này.
- Tính theo giá nhập sau - xuất trước (LIFO): Phương pháp này cũng đòi hỏi
việc xác định được đơn giá mua thực tế của từng lần nhập và cũng giả thiết hàng
nào nhập kho sau thì được xuất kho trước. Sau đó căn cứ vào số lượng xuất kho
tính ta giá trị thực tế của lần nhập sau cùng hiện có trong kho đối với hàng xuất
kho thuộc lần nhập sau cùng, số còn lại được tính theo đơn giá mua thực tế của lần
nhập trước đó.
- Phương pháp giá thanh toán: Theo phương pháp này giá thực tế vật tư hàng
hoá xuất kho được tính vào cuối kỳ nhưng tính qua giá hạch toán. Giá hạch toán là
loại giá ổn định nào đó trong kỳ (có thể là giá kế hoạch, có thể là giá thực tế kỳ
trước) được dùng để ghi sổ kế toán chi tiết trong khi chưa tính được giá thực tế
nhưng đến cuối kỳ khi ghi sổ kế toán tổng hợp điều chỉnh từ giá hạch toán sang giá
thực tế.
Giá thực tế vật tư = Giá hạch toán của vật tư * Hệ số giá
hàng hoá xuất kho hàng hoá xuất kho
Giá thực tế tồn tại + Giá thực tế vật tư hàng hoá
đầu kỳ nhập trong kỳ
Hệ số giá =
Giá hạch toán tồn + Giá hạch toán của vật tư hàng
tại đầu kỳ hoá nhập trong kỳ
1.3.5: Lợi nhuận gộp: Là chênh lệch giữa doanh thu thuần với giá vốn hàng bán.
Lợi nhuận gộp = Doanh thu thuần - giá vốn
1.3.6: Chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp:
1.3.6.1: Chi phí bán hàng (CPBH).
Chi phí bán hàng là những khoản chi phí phát sinh có liên quan đến hoạt động
tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, lao vụ, dịch vụ trong kỳ.
Trong quá trình bán hàng doanh nghiệp phải bỏ ra các khoản chi phí bắt buộc
như: Chi phí bao gói sản phẩm, bảo quản hàng hoá, chi phí vận chuyển, chi phí

quảng cáo, tiếp thị…các chi phí đó được gọi chung là chi phí bán hàng. Theo quy
định hiện hành, CPBH của doanh nghiệp được chia thành các loại sau: CP nhân
viên, CP vật liệu, CP công cụ đồ dùng, CP khấu hao tài sản cố định, CP bảo hành,
CP dịch vụ mua ngoài và các chi phí bằng tiền khác.
Toàn bộ chi phí bán hàng phát sinh trong kỳ đã được tập hợp đến cuối kỳ thực
hiện kết chuyển hoặc phân bổ để xác định kết quả kinh doanh.
1.3.6.2 : Chi phí quản lý doanh nghiệp (CPQLDN):
Chi phí quản lý doanh nghiệp là những khoản chi phí có liên quan chung đến
toàn bộ hoạt động của cả doanh nghiệp mà không tách riêng ra được cho bất cứ
một hoạt động nào.
Theo quy định hiện hành CPQLDN chia thành các loại sau: CP nhân viên quản
lý, CP vật liệu quản lý,CP đồ dùng văn phòng, CP khấu hao tài sản cố định, thuế,
phí và lệ phí, CP dịch vụ mua ngoài và chi phí bằng tiền khác.
Hoạt động quản lý doanh nghiệp liên quan đến mọi hoạt động trong doanh
nghiệp, do vậy cuối kỳ cần được tính toán phân bổ, kết chuyển để xác định kết quả
kinh doanh.
1.3.7: Kết quả tiêu thụ :
Kết quả tiêu thụ sản phẩm hàng hoá, dịch vụ, lao vụ trong doanh nghiệp chính là
kết quả của hoạt động tiêu thụ mà doanh nghiệp tiến hành trong kỳ, kết quả đó
được tính bằng cách so sánh giữa một bên là doanh thu thuần với một bên là giá
vốn hàng tiêu thụ và chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp và được biểu
hiện qua chỉ tiêu lợi nhuận (hoặc lỗ) về tiêu thụ
1.4: Vai trò và nhiệm vụ của kê toán bán hàng và xác đinh kêt quả tiêu thụ :
1.4.1 : Vai trò của kế toán bán hàng và xác định kết quả tiêu thụ :
Việc chuyển hoá nền kinh tế nước ta từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang
nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường là một xu thế tất yếu, bao gồm việc mở
rộng quan hệ hàng hoá tiền tệ và quan hệ thị trường. Trong sự chuyển hoá này
ngành thương mại sẽ phải phát triển mạnh để mở rộng các quan hệ mua bán, mở
rộng giao lưu buôn bán hàng hoá phục vụ và hướng dẫn tiêu dùng góp phần tích
cực vào việc thúc đẩy nâng cao chất lượng hàng hoá, đáp ứng nhu cầu vật chất tinh

thần ngày càng tăng của mọi tầng lớp trong xã hội, thực hiện vai trò là cầu nối giữa
sản xuất và tiêu dùng. Kế toán có vai trò quan trọng trong hệ thống quản lý kinh
doanh. Vai trò được xác định xuất phát từ hoạt động thực tế khách quan, hoạt động
sản xuất kinh doanh và bản chất của kế toán. Để quản lý hiệu quả các sản xuất
kinh doanh và sử dụng vốn, sử dụng các khoản kinh phí ở các doanh nghiệp. Các
nhà quản lý doanh nghiệp cần biết những thông tin chính xác về hoạt động kinh
doanh của đơn vị mình. Chính công tác kế toán trong đơn vị sẽ thu thập một cách
hệ thống chính xác kịp thời và đầy đủ khoa học những thông tin đó, đồng thời thực
hiện kiểm tra xử lý phân tích các thông tin thu thập được cung cấp cho công tác
quản lý doanh nghiệp. Có thể nói kế toán như một phần hệ thống thông tin kinh tế
quan trọng cấu thành hệ thống thông tin kinh tế của đơn vị. Chính vì vậy mà hạch
toán được khẳng định một cách khách quan là công cụ quan trọng phục vụ công tác
điều hành và sản xuất kinh doanh. Sử dụng vốn đồng thời là nguồn thông tin tin
cậy cho nhà nước trong việc điều hành vĩ mô nền kinh tế thực hiện việc kiểm tra
giám sát hoạt động của các ngành, các lĩnh vực. Vì vậy đổi mới và hoàn thiện
không ngừng công tác kế toán thích ứng với yêu cầu quản lý trong cơ chế thị
trường thực sự là một yêu cầu bức xúc.
Trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần với xu thế quốc tế hoá thương
mại, khi Việt Nam ngày mở rộng quan hệ với nhiều quốc gia, các tập đoàn kinh tế

×