Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Nghiên cứu khả năng tái sinh và chuyển gen chỉ thị vào giống dưa chuột choka F1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (534.33 KB, 9 trang )

TNU Journal of Science and Technology

226(01): 83 - 91

STUDY IN VITRO REGENERATION AND TRANSFORMATION SYSTEMS OF
CUCUMBER VARIETY CHOKA F1 USING GUS REPORTER GENE
Hoang Thi Huyen Trang1, Hoang Khanh Linh4, Nguyen Thi Linh1, Trinh Dinh Duy1,
Le Thi Nhu Thao1,2,3, Pham Bich Ngoc1,2, Chu Hoang Ha1,2, Do Tien Phat1,2*
of Biotechnology – VAST, 2Graduate University of Sciences and Technology – VAST,
Bo Agriculture College, 4VNU - Foreign Language Specialized School

1Institute
3Nam

ARTICLE INFO

ABSTRACT

Received: 09/01/2021

This study was performed to establish and develop efficient procedures for
Agrobacterium-mediated transformation and regeneration of an inbred
cucumber cultivar, which provides a potential protocol to transfer gene of
interest into cucumber as well as further research on genome editing in
cucumber in Vietnam. In this procedure, cucumber seed sterilization was well
performed using 15% NaClO for 15 min. The frequency of multiple shoot
induction was 61.76% and the number of regenerated shoots per sample was
2.45 on MS basal medium added 1.5 mg/L BAP and 1 mg/L ABA. The
rooting frequency ranged from 45% to 85% and the whole regenerated plants
were formed on MS medium supplemented with 20 g/L sucrose. The in vitro
regenerated cucumber plants were successfully transferred and grown on


vermiculite under greenhouse conditions with a survival rate of 66.67%.
These medium components and the regeneration procedure were successfully
utilized to transfer gus reporter gene into the Choka F1 variety using the
Agrobacterium-mediated method. The GUS staining and PCR analysis using
specific primers demonstrated the presence and expression of gus gene in
transgenic cucumber lines. The transformation frequency was preliminary
recorded at 9.44%.

Revised: 18/01/2021
Published: 20/01/2021

KEYWORDS
Cucumber
Regeneration
A. tumefaciens
Transformation
Choka F1

NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG TÁI SINH VÀ CHUYỂN GEN CHỈ THỊ
VÀO GIỐNG DƯA CHUỘT CHOKA F1
Hoàng Thị Huyền Trang1, Hoàng Khánh Linh4, Nguyễn Thị Linh1, Trịnh Đình Duy1,
Lê Thị Như Thảo1,2,3, Phạm Bích Ngọc1,2, Chu Hồng Hà1,2, Đỗ Tiến Phát1,2*
1Viện

Cơng nghệ sinh học - Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
viện Khoa học và Công nghệ - Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam
3Trường Cao đẳng Nông nghiệp Nam Bộ, 4Trường THPT Chuyên Ngoại ngữ - ĐH Quốc gia Hà Nội
2Học

THÔNG TIN BÀI BÁO

Ngày nhận bài: 09/01/2021
Ngày hồn thiện: 18/01/2021
Ngày đăng: 20/01/2021

TỪ KHĨA
Dưa chuột
Tái sinh
A. tumefaciens
Chuyển gen
Choka F1

*

TÓM TẮT
Nghiên cứu này được tiến hành với mục đích phát triển quy trình tái sinh và
chuyển gen thông qua vi khuẩn A. tumefaciens ở cây dưa chuột tạo cơ sở cho
nghiên cứu chuyển các gen mục tiêu mang các tính trạng quý cũng như chỉnh
sửa hệ gen trên các giống dưa chuột tại Việt Nam. Trong quy trình này, điều
kiện khử trùng phù hợp là sử dụng NaClO 15% trong thời gian 15 phút. Tỉ lệ
mẫu tạo đa chồi đạt 61,76% và số chồi trung bình đạt 2,45 chồi/ cụm mẫu cấy
trên môi trường MS bổ sung 1,5 mg/L BAP và 1 mg/L ABA. Tỷ lệ chồi phát
sinh rễ và tạo cây hoàn chỉnh dao động từ 45% đến 85% trên môi trường cơ
bản MS với 20 g/L sucrose. Cây con được chuyển ra, thích nghi và sinh
trưởng trong điều kiện nhà lưới đạt tỷ lệ sống 66,67% trên giá thể vermiculite.
Thành phần môi trường và các bước tái sinh được sử dụng trong biến nạp gen
chỉ thị gus vào giống dưa chuột Choka F1 thông qua vi khuẩn A. tumefaciens.
Sự có mặt và biểu hiện của gen chỉ thị gus trong các dòng dưa chuột chuyển
gen được khẳng định thông qua phản ứng PCR với cặp mồi đặc hiệu và
phương pháp nhuộm GUS, tỷ lệ chuyển gen bước đầu ghi nhận đạt 9,44%.


Corresponding author. Email:



83

Email:


TNU Journal of Science and Technology

226(01): 83 - 91

1. Đặt vấn đề
Dưa chuột (Cucumis sativus L.) thuộc họ bầu bí Cucurbitaceae, là cây trồng đem lại giá trị
kinh tế cao và được trồng ở nhiều nước trên thế giới. Đây là một trong những họ thực vật quan
trọng cung cấp thực phẩm có giá trị dinh dưỡng cho con người. Theo FAOSTAT, dưa chuột được
trồng ở nhiều khu vực; trong đó, nhiều nhất là châu Á với diện tích canh tác hơn 1,4 triệu ha và
sản lượng đạt 70,6 triệu tấn, sản xuất lớn tập trung ở Trung Quốc và Ấn Độ [1]. Tại Việt Nam,
dưa chuột được trồng nhiều ở vùng đồng bằng sơng Hồng với diện tích hàng năm dao động
khoảng 10.000 ha và sản lượng bình quân đạt 300.000 tấn [2]. Đây là cây rau truyền thống, được
trồng lâu đời và chiếm vị trí quan trọng trong sản xuất ở nước ta [3].
Dưa chuột là cây trồng mẫn cảm với sương giá, yêu cầu khí hậu ấm áp để sản xuất, khó thích
ứng với các điều kiện bất thuận như hạn và úng [4], [5]. Điều này đã hạn chế tiềm năng phát triển
của cây dưa chuột. Cùng với đó, tình hình dịch bệnh trên cây trồng đang diễn biến phức tạp, sản
xuất dưa chuột phải đối mặt với nhiều bệnh hại gây ra bởi nấm, virus và vi khuẩn gây thiệt hạilớn
về năng suất cũng như hiệu quả kinh tế [6]. Vì vậy, việc tạo ra các giống dưa chuột có năng suất
cao, ổn định, khả năng thích nghi phổ rộng với điều kiện thời tiết, khí hậu là cần thiết, đặc biệt là
nhu cầu mở rộng đất canh tác tới những vùng có điều kiện tự nhiên không thuận lợi.
Ứng dụng công nghệ sinh học trong tạo giống cây trồng đang được ưu tiên phát triển hàng đầu

hiện nay, giúp nâng cao hiệu quả, đồng thời rút ngắn thời gian và chi phí cho quá trình chọn tạo
giống. Việc chuyển, tích hợp và chỉnh sửa thành công vật liệu di truyền vào hệ gen của cây dưa
chuột có thể cải thiện khả năng kháng bệnh cũng như tính chống chịu của các giống mục tiêu [7].
Điều này mở ra tiềm năng cải tiến những tính trạng quan trọng và tạo ra các tính trạng quý mới
trên dưa chuột mà khó có thể đạt được thông qua các phương pháp chọn tạo giống truyền thống
[8]. Để ứng dụng thành công công nghệ sinh học trong cải biến giống cây trồng, một yêu cầu cần
thiết và quan trọng là việc xây dựng và hoàn thiện một quy trình tái sinh và chuyển gen với hiệu
suất cao. Hiện nay, phương pháp chuyển gen thông qua vi khuẩn Agrobacterium tumefaciens
được xem là phương pháp hiệu quả trên nhiều đối tượng cây trồng khác nhau. Phương pháp này
đòi hỏi khả năng lây nhiễm của A. tumefaciens và khả năng tái sinh cây hồn chỉnh từ một tế bào,
mơ biến nạp riêng lẻ thông qua nuôi cấy in vitro [9]. Nhiều nghiên cứu đã công bố về việc
chuyển gen thành công trên cây dưa chuột nhưng chỉ một số ít đạt được hiệu suất chuyển gen cao
và thu được cây thế hệ tiếp theo [7]. Trulson đã tạo ra cây dưa chuột chuyển gen đầu tiên biểu
hiện gen nptII bằng cách lây nhiễm trụ dưới lá mầm với Agrobacterium rhizogenes, tuy nhiên
phương pháp này có tỉ lệ tái sinh thấp [10]. Hiện nay, mảnh lá mầm được sử dụng làm vật liệu
hiệu quả trong biến nạp gen thông qua vi khuẩn A. tumefaciens trên đối tượng dưa chuột [11].
Tuy nhiên, hiệu quả chuyển nạp gen được khẳng định phụ thuộc rất nhiều vào các giống dưa
chuột sử dụng.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi lựa chọn giống dưa chuột đang được sử dụng trong sản xuất
để xây dựng và phát triển quy trình tái sinh và chuyển gen. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu suất
tái sinh bao gồm cách thức khử trùng hạt, thành phần môi trường tái sinh, nồng độ các chất kích
thích sinh trưởng,… đã được tối ưu hóa và hệ thống tái sinh từ mảnh lá mầm dưa chuột được sử
dụng trong chuyển gen chỉ thị gus thông qua vi khuẩn A. tumefaciens vào giống dưa chuột nghiên
cứu. Kết quả đạt được trong nghiên cứu này là tiền đề cho việc ứng dụng công nghệ sinh học, đặc
biệt là công nghệ chỉnh sửa hệ gen trong công tác chọn tạo giống dưa chuột trong tương lai.
2. Vật liệu và phương pháp nghiên cứu
2.1. Vật liệu nghiên cứu
Thực vật: Sử dụng hạt giống dưa chuột Choka F1 do công ty C.H Việt Nam phân phối trên thị
trường Hà Nội phục vụ nghiên cứu. Đây là giống dưa chuột có nguồn gốc từ Nhật Bản với ưu
điểm là thời gian cho quả ngắn và thời gian thu hoạch kéo dài.




84

Email:


TNU Journal of Science and Technology

226(01): 83 - 91

Chủng vi khuẩn A. tumefaciens AGL1 và vector pZY102 mang gen chỉ thị gus do Đại học
Missouri, Hoa Kỳ cung cấp.
Môi trường nuôi cấy: Môi trường MS cơ bản, sucrose (30g/L), agar (7,5g/L) [12] và các chất
điều tiết sinh trưởng như BAP, ABA tùy theo giai đoạn nuôi cấy.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Nghiên cứu khả năng tái sinh in vitro thông qua mảnh lá mầm
Hạt dưa chuột thu về được khử trùng bằng NaClO 15% trong 15 phút, rửa lại 3 lần bằng nước
cất khử trùng. Ngâm hạt trong nước cất khử trùng từ 2 – 3 h giúp hạt hút nước dễ loại bỏ lớp vỏ
ngoài và đồng thời tăng sức nảy mầm của hạt. Dùng panh, dao khử trùng tách vỏ hạt và đặt lên
môi trường nảy mầm (MS + 30 g/L sucrose + 7,5 g/L agar, pH 5,8), nuôi trong điều kiện tối,
nhiệt độ 24 – 250C, trong 48 giờ. Các mảnh lá mầm 2 ngày tuổi được sử dụng làm nguyên liệu tái
sinh và chuyển gen.
Các mảnh lá mầm không chứa đỉnh sinh trưởng được đặt lên 4 cơng thức mơi trường có bổ sung
BAP và ABA với các nồng độ khác nhau, 2 tuần cấy chuyển 1 lần sang môi trường mới. Sau 2 – 4
lần cấy chuyển, những khối mô tốt (màu xanh đậm, không mọng nước) được chuyển sang môi
trường với nồng độ BAP, ABA tương ứng. Khi cụm đa chồi hình thành, tiếp tục chuyển lên môi
trường nảy mầm (MS + 30g/L sucrose), tái sinh cây và chăm sóc trong điều kiện nhà lưới.
2.2.2. Nghiên cứu khả năng tiếp nhận gen của dưa chuột

Tạo dịch huyền phù A. tumefaciens: Vi khuẩn được lấy từ -800C cấy vạch trên mơi trường YEP
(đặc) có bổ sung kháng sinh, đĩa khuẩn được nuôi ở 280C trong 48 giờ. Sau 48 giờ phục hồi trên đĩa
thạch, tiến hành thu sinh khối khuẩn và chuyển vào 5 ml mơi trường YEP lỏng có bổ sung kháng
sinh, ni lắc 200 vòng/ phút, 280C trong thời gian 5 – 6 giờ. Tiếp tục phục hồi kh̉n với thể tích
100ml, ni lắc qua đêm trong cùng điều kiện. Ly tâm thu sinh khối tế bào, hịa tan trong mơi
trường ½ MS có bổ sung AS 200 µM tạo dịch huyền phù sử dụng cho biến nạp.
Lá mầm từ hạt sau hai ngày cấy trên môi trường nảy mầm được tách bỏ phần đỉnh sinh trưởng
và cuống lá và tạo tổn thương. Các mảnh lá mầm được lây nhiễm với dịch huyền phù vi khuẩn A.
tumefaciens (OD600nm = 0,5) trong thời gian 15 phút, thấm bớt dịch khuẩn và đặt trên môi trường
đồng nuôi cấy trong thời gian 2 ngày. Tiếp theo, mẫu được rửa khuẩn và chuyển lên môi trường
1,5 mg/L BAP + 1 mg/L ABA có bổ sung kháng sinh diệt khuẩn và chất chọn lọc trong 6 – 8
tuần, cấy chuyển 2 tuần 1 lần. Đánh giá biểu hiện của gen chỉ thị sau 5, 10 ngày đồng nuôi cấy.
2.2.3. Đánh giá hiệu quả chuyển gen
Kiểm tra sự có mặt của gen gus trong cây theo phương pháp nhuộm tế bào học (nhuộm GUS)
của Jefferson và đồng tác giả [13]: Các mảnh lá được nhuộm với dung dịch 5-bromo-4-chloro-3indolyl glucoronide từ 10 – 12 giờ trong điều kiện tối, nhiệt độ 37 oC. Sau đó rửa bằng cồn 70%,
những vùng có biểu hiện của gen gus chuyển màu xanh lam. Hiệu quả chuyển gen được xác định
dựa trên các mẫu có biểu hiện màu xanh lam trên tổng số mẫu kiểm tra, mức độ tiếp nhận được
đánh giá thông qua màu sắc và vùng biểu hiện.
2.2.4. Kiểm tra sự có mặt của gen chuyển thơng qua phản ứng PCR
DNA tổng số được tách từ lá của các dòng dưa chuột ra rễ trên môi trường chọn lọc sử dụng
phương pháp CTAB có cải tiến dựa trên quy trình của Doyle and Doyle [14]. Sử dụng cặp mồi
đặc hiệu gus exon 2- F (5’- GTAGAAACCCCAACCCGTGA – 3’) và gus- R (3’GCTTTTTCTTGCCGTTTTCG- 5’) để xác định sự có mặt của gen gus trong các dòng dưa chuột
chuyển gen bằng phản ứng PCR. Sản phẩm PCR được điện di kiểm tra trên gel agarose 0,8%.



85

Email:



TNU Journal of Science and Technology

226(01): 83 - 91

2.2.5. Xử lý số liệu
Thí nghiệm bố trí hồn tồn ngẫu nhiên, mỗi công thức 30 mẫu với 3 lần nhắc lại. Số liệu thí
nghiệm được xử lý trên phần mềm Excel 2013.
3. Kết quả và thảo luận
3.1. Tạo vật liệu nghiên cứu
Quá trình khử trùng mẫu tạo nguyên liệu ban đầu cho tái sinh in vitro là bước quan trọng và
có ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng của nguyên liệu đầu vào. Do các loại mẫu khác nhau
mang các nguồn bệnh khác nhau (nấm, vi khuẩn…), thêm vào đó khả năng chống chịu với các
hóa chất và phương pháp khử trùng là khác nhau. Trong nghiên cứu này, nhóm nghiên cứu lựa
chọn 2 phương pháp khử trùng là dạng khí chlorine và dung dịch tẩy rửa (NaClO) với thời gian
khử trùng khác nhau. Các chế độ khử trùng khác nhau đã cho hiệu quả nảy mầm khác nhau rõ rệt
(Bảng 1).
Với phương pháp khử trùng bằng khí chlorine, các đĩa hạt được mở và đặt trong bình hút ẩm
bằng thủy tinh có chứa lọ dung dịch khử trùng gồm: 15 mL NaClO, bổ sung từ từ 2 mL HCl 12N,
đóng nhanh nắp bình, niêm phong bằng giấy nến và được đặt trong tủ hút an toàn sinh học. Hạt
giống được khử trùng trong thời gian từ 1 – 2 giờ, đĩa hạt sau khi khử trùng sẽ được đóng nắp và
chuyển vào tủ cấy vô trùng. Hạt được gieo trên môi trường MS, tại 24 – 25ºC, trong tối.
Bảng 1. Ảnh hưởng của phương pháp khử trùng đến khả năng nảy mầm của hạt
Hóa chất
HCl: NaClO
(2ml : 15ml)
NaClO (15%)

Phương pháp
KT1

KT2
KT3
KT4
KT5
KT6

Thời gian (phút)
60
90
120
5
15
30

Tỷ lệ nảy mầm (%)
76,67
73,33
56,67
83,33
86,67
80

Thời gian nảy mầm (ngày)
4
4
6
2
2
3


Phương pháp sử dụng khí Cl2 (HCl : NaClO) trong bình hút ẩm cho tỉ lệ nảy mầm đạt 56,67%
(KT3) đến 76,67% (KT1) với thời gian bắt đầu nảy mầm là 4 ngày sau gieo đối với KT1, KT2 và
6 ngày sau gieo (KT3). Khi sử dụng NaClO (15%) đã rút ngắn được thời gian nảy mầm của hạt
(2 – 3 ngày sau gieo) và tỉ lệ nảy mầm đạt trên 80%, cao nhất tại KT5 (86,67%, hạt nảy mầm sau
2 ngày). Tỉ lệ nảy mầm và thời gian nảy mầm có sự chênh lệch có thể do phương pháp sử dụng
dung dịch NaClO (15%) để lắc hạt đã làm lớp vỏ ngoài của hạt mềm hơn đồng thời hạt hút được
nhiều nước hơn.
3.2. Nghiên cứu ảnh hưởng của các chất điều tiết sinh trưởng đến khả năng tạo đa chồi của
dưa chuột
Quy trình tái sinh được thực hiện theo phương pháp của Zhenxian Zhang và cộng sự có cải
tiến [7]. Các mảnh lá mầm được loại bỏ đỉnh sinh trưởng và cắt thành mảnh (0,3*0,3 cm) đặt trên
môi trường MS có bổ sung BAP, ABA với các nồng độ khác nhau. Kết quả theo dõi được trình
bày ở bảng 2.
Bảng 2. Ảnh hưởng của các chất điều tiết sinh trưởng đến khả năng tạo đa chồi của mảnh lá mầm dưa chuột
Công thức
CT1
CT2
CT3
Đối chứng

Số
mẫu
170
170
170
40



BAP

(mg/L)
1,5
1,5
1,5
0

ABA
(mg/L)
0
1,0
1,5
0

Tỉ lệ tạo đa
chồi (%)
50,58±2,64
61,76±4,23
40±2,71

86

Số chồi/cụm đa
chồi
1,35±0,48
2,45±0,48
1,1±0,43

Tỉ lệ chồi ra rễ
(%)
72,5±5

85±5,78
45±5,78

Email:


TNU Journal of Science and Technology

226(01): 83 - 91

Kết quả thí nghiệm cho thấy khi đặt trên mơi trường tạo đa chồi: Sau khoảng 7 – 10 ngày các
mảnh lá bắt đầu tạo mơ sẹo tại các vị trí tổn thương tùy thuộc vào từng cơng thức thí nghiệm
CT1, 3 đa chồi tạo từ vị trí nách lá mầm cho tỉ lệ tạo đa chồi lần lượt 81,17 ± 2,64 và 65,29 ±
2,71; CT2 đa chồi tạo xung quanh mép lá có tỉ lệ tạo đa chồi cao nhất 88,82 ± 4,23. Các mảnh
hình thành mơ sẹo tiếp tục được chuyển sang môi trường mới tương ứng, sau 19 – 21 ngày các
chồi xanh bắt đầu xuất hiện, các chồi này dài ra nhanh chóng sau 3 – 5 ngày chồi đạt được chiều
cao khoảng 2 – 3 cm (Hình 1).
Các chồi đạt được chiều dài 2 – 3 cm thì bản thân cụm đa chồi cũng bắt đầu xuất hiện rễ, hiện
tượng này xảy ra có thể do hoạt động của hooc môn nội sinh. Tiếp theo, các chồi được cắt ra và
chuyển lên môi trường MS + 20 g/L sucrose, sau 3 – 5 ngày rễ bắt đầu xuất hiện, khi các cây đạt
chiều cao từ 5 – 7 cm sẽ được đưa ra ngồi huấn luyện thích nghi với môi trường trước khi đưa
cây ra nhà lưới. Tỷ lệ chồi tạo rễ cao nhất (85%) với các chồi tạo được từ công thức nhân CT2.
Như vậy chất điều tiết sinh trưởng có ảnh hưởng đặc biệt quan trọng trong cảm ứng tạo đa chồi,
nhưng khả năng tạo đa chồi không tỉ lệ thuận theo nồng độ chất điều tiết sinh trưởng, đặc biệt khi
tăng nồng độ ABA (1,5 mg/L – CT3) có ảnh hưởng không tốt đến tỉ lệ tạo đa chồi cũng như số
chồi/cụm đa chồi. Nồng độ các chất điều tiết sinh trưởng không chỉ tác động đến giai đoạn tạo đa
chồi mà còn tác động kéo dài đến giai đoạn ra rễ của các chồi trong thí nghiệm dẫn đến khả năng
phát sinh rễ của các chồi trên mỗi công thức là khác nhau (Bảng 2).

Hình 1. Ảnh hưởng của các chất điều tiết sinh trưởng đến khả năng tạo đa chồi của mảnh lá mầm dưa chuột

a. Hạt nảy mầm sau 2 ngày, b. Mảnh lá mầm kích thước 0,3*0,3 cm, c. Đối chứng, d. CT1, e. CT2, f. CT3

3.3. Huấn luyện cây con
Với mục đích hồn thiện quy trình tái sinh, tạo cây hoàn chỉnh nhằm phục vụ cho các nghiên
cứu tiếp theo, hệ thống tái sinh không chỉ dừng lại ở giai đoạn tạo cây in vitro mà tiếp tục được
hoàn thiện chuyển cây ra nhà lưới.
Cây dưa chuột trước khi đưa ra ngồi mơi trường phải trải qua giai đoạn huấn luyện trong
buồng sinh trưởng bằng cách trồng trên 3 loại giá thể 100% giá thể trơ (vermiculite), 50% Tribat :
50% giá thể trơ, 50% Tribat : 25% giá thể trơ : 25% xơ dừa.



87

Email:


TNU Journal of Science and Technology

226(01): 83 - 91

Bảng 3. Tỉ lệ cây con sống trên ba công thức giá thể
Giá thể
100% giá thể trơ
50% Tribat : 50% giá thể trơ
50% Tribat : 25% giá thể trơ :25% xơ dừa

Số mẫu
45
45

45

Tỉ lệ cây sống (%)
66,67±6,67
33,33±3,84
20±3,85

Từ 135 cây dưa chuột hoàn chỉnh đưa ra giá thể, kết quả thu được cho thấy khi sử dụng 100%
giá thể trơ cho tỷ lệ cây sống sót là cao nhất đạt 66,67%. Việc bổ sung Tribat và xơ dừa vào giá thể
giúp cho giá thể có khả năng giữ nước tốt hơn, tuy nhiên lại gây hiện tượng váng đọng nước khiến tỉ
lệ cây sống thấp nhất (Bảng 3). Cây non sau 3 tuần huấn luyện đã có bộ rễ phát triển hoàn chỉnh được
chuyển sang bầu chứa đất phù sa và chăm sóc trong điều kiện nhà lưới (Hình 2). Cây sinh trưởng và
phát triển tốt trong điều kiện nhà lưới, đạt tỷ lệ sống sót trên 90% (84/90 cây sống).

Hình 2. Cây dưa chuột hồn chỉnh
a. Chồi dưa chuột trên mơi trường ra rễ MS 3 ngày b. Chồi dưa chuột trên môi trường ra rễ MS 10 ngày
c. Cây dưa chuột ngoài nhà lưới

3.4. Kết quả chuyển gen gus
Hoàn thiện quy trình tái sinh là bước đầu tiên trong quy trình chuyển gen, nhưng để kiểm tra
hiệu quả chuyển gen vào trong đối tượng thực vật thì việc tạo dựng quy trình chuyển gen là nhân
tố then chốt. Do vậy, nhóm nghiên cứu đã thí nghiệm sử dụng chủng vi khuẩn A. tumefaciens
AGL1 chứa vector pZY102 mang gen chỉ thị gus và gen chọn lọc bar để chuyển vào cây dưa
chuột nhằm tạo dựng một quy trình chuyển gen hiệu quả cho giống dưa chuột ở Việt Nam.
Từ kết quả nghiên cứu về tái sinh dưa chuột, nhóm nghiên cứu áp dụng tương tự nguyên liệu
và môi trường nuôi cấy trong việc chuyển gen gus vào trong mảnh lá mầm. Vật liệu sử dụng biến
nạp là các mẫu lá mầm 2 ngày tuổi, được loại bỏ đỉnh sinh trưởng và cắt thành từng mảnh có kích
thước 0,3 * 0,3 cm. Lây nhiễm với dịch huyền phù vi khuẩn A. tumefaciens (OD600nm = 0,25)
trong thời gian 30 phút, mỗi 10 phút lắc nhẹ mẫu 1 lần, gạt bớt dịch khuẩn và chuyển lên môi
trường đồng nuôi cấy có bổ sung AS 200 µM trong thời gian 48 giờ tại nhiệt độ 24 – 25 oC, trong

điều kiện tối hoàn toàn. Sau đồng nuôi cấy, mẫu được loại bỏ khuẩn bề mặt và chuyển sang môi
trường tái sinh chọn lọc. Kết quả thống kê tỷ lệ tái sinh cây trên môi trường chọn lọc có bổ sung
PPT 3 mg/L được thể hiện qua bảng 4.
Bảng 4. Kết quả chuyển gen gus
Thí
nghiệm

Số
mẫu

Mẫu tạo đa chồi
(%)

Mẫu tái sinh chồi
(%)

Pzy102
Đối
chứng

180

39,44±2,55

20,56±4,19

30

83,33±5,67


66,67±4,23



88

Tỉ lệ mẫu biểu hiện GUS (%)
Sau đồng nuôi cấy 10
Tỉ lệ chuyển
ngày
gen
50,56±2,55
9,44±1,23
0

0

Email:


TNU Journal of Science and Technology

226(01): 83 - 91

Trên môi trường chọn lọc, tỷ lệ mẫu cảm ứng tạo đa chồi đạt 39,44% (Bảng 4). Sau 5 tuần
chọn lọc, tỷ lệ mẫu phát sinh chồi hoàn chỉnh đạt 20,56%. Những chồi tái sinh hoàn chỉnh được
kiểm tra biểu hiện gen gus bằng phương pháp nhuộm X-gluc. Các mẫu lá và thân dưa chuột
chuyển gen có biểu hiện màu xanh đặc trưng (Hình 3). Tỷ lệ chuyển gen chỉ thị dựa trên kết quả
nhuộm GUS đạt 9,44%. Để khẳng định một lần nữa sự có mặt của gen gus, chúng tôi tiến hành
thu mẫu ngẫu nhiên các dòng dưa chuột tái sinh hồn chỉnh trên mơi trường chọn lọc, tách DNA

và kiểm tra với mồi đặc hiệu. Kết quả điện di sản phẩm PCR với các cặp mồi đặc hiệu cho thấy
sự xuất hiện băng vạch đặc trưng của gen gus với kích thước khoảng 1003 bp ở các dòng dưa
chuột chuyển gen. Mẫu thân lá của các dòng này tiếp tục được sử dụng để nhuộm GUS và kết
quả cho thấy tồn bộ mẫu dương tính PCR với mồi đặc hiệu đều có màu xanh đặc trưng. Kết quả
này một lần nữa khẳng định sự ưu việt của môi trường chọn lọc cũng như hiệu quả chuyển gen
của quy trình mà chúng tơi tạo được (Hình 3).

Hình 3. Kiểm tra sự có mặt và biểu hiện của gen gus trong các dòng dưa chuột chuyển gen
a. Kết quả nhuộm GUS mảnh lá sau 10 ngày biến nạp, b. Kết quả nhuộm GUS chồi, c. Kết quả PCR kiểm
tra sự có mặt của gen gus. Giếng (-): đối chứng âm (WT); Giếng (+): đối chứng dương (plasmid); Giếng
0- 2.2: các dòng dưa chuột chuyển gen; Giếng M: Marker DNA 1kb.

Từ những kết quả trên có thể thấy, chúng tơi đã xây dựng và hồn thiện quy trình tái sinh cho
giống dưa chuột Choka F1. Quy trình đã được sử dụng để chuyển thành công gen chỉ thị gus vào
cây dưa chuột thông qua vi khuẩn A. tumefaciens. Việc sử dụng nguyên liệu là lá mầm làm vật
liệu ban đầu giúp đơn giản công tác khử trùng và chủ động nguồn mẫu. Quy trình sử dụng mơi
trường MS cơ bản [12] giúp đơn giản hóa q trình tái sinh và thời gian chuẩn bị so với công bố
trước đây của Zhenxian Zhang và cộng sự [7]. Trong nghiên cứu đó, nhóm nghiên cứu đã phải
phối hợp đồng thời hai loại môi trường MS và B5 trong suốt quy trình (môi trường B5 gieo hạt,
môi trường MS tái sinh). Tuy nhiên tỷ lệ tạo đa chồi và số chồi hoàn chỉnh chỉ đạt lần lượt
61,76±4,23 và 2,45±0,48. Điều này cũng có thể lý giải bởi phản ứng khác nhau giữa các giống


89

Email:


TNU Journal of Science and Technology


226(01): 83 - 91

với môi trường nuôi cấy. Bên cạnh đó, trong các nghiên cứu chuyển gen trên cây dưa chuột trước
đó cũng cho thấy ảnh hưởng của giống tới hiệu quả chuyển gen [7],[15]. Với thử nghiệm đầu tiên
trên giống Choka F1, chúng tôi thu được hiệu suất chuyển gen 9,44±1,23%. Sự có mặt và biểu
hiện của gen chuyển đã được kiểm chứng thông qua phản ứng PCR khuếch đại gen chỉ thị gus và
biểu hiện gus ở các cây phân tích. Mặc dù vậy, cần có thêm các nghiên cứu trong thời gian tới
nhằm phân tích và tối ưu các điều kiện chuyển gen để nâng cao hơn nữa hiệu suất chuyển gen với
giống Choka F1 làm cơ sở để mở rộng nghiên cứu với các giống dưa chuột khác.
4. Kết luận
Trong nghiên cứu này, chúng tơi đã xây dựng và hồn thiện quy trình tái sinh cây dưa chuột
giống Choka F1 trong điều kiện in vitro với các điều kiện phù hợp bao gồm: Sử dụng NaClO
15%, trong thời gian 15 phút để khử trùng mẫu; môi trường tạo đa chồi được lựa chọn là MS
bổ sung BAP, ABA ở các nồng độ lần lượt là 1,5 mg/L, 1 mg/L; môi trường MS + 20 g/L
sucrose được dùng trong tạo cây hoàn chỉnh. Quy trình tái sinh này đã được thử nghiệm thành
công trong chuyển gen chỉ thị vào cây dưa chuột giống Choka F1 với tỷ lệ chuyển gen đạt
9,44%. Đây là cơ sở cho các nghiên cứu tiếp theo trong nghiên cứu chuyển gen và chỉnh sửa hệ
gen trên cây dưa chuột.
Lời cảm ơn
Kinh phí dùng trong nghiên cứu được hỗ trợ bởi Đề tài Độc lập trẻ “Nghiên cứu nâng cao
hàm lượng đường và amino acid trong quả cà chua (solanum lycopersicum) thông qua đột biến
gen bằng hệ thống CRISPR/Cas9”, chủ nhiệm đề tài TS. Đỗ Tiến Phát và Đề tài Nghiên cứu viên
cao cấp “Phân tích trình tự nhóm gen mã hóa cho protein MLO liên quan đến tính kháng phấn
trắng trên một số giống dưa chuột tại Việt Nam”, mã số NCVCC 08.06-20-20, chủ nhiệm đề tài
PGS. TS. Chu Hồng Hà. Nghiên cứu có sử dụng máy móc, trang thiết bị của Phịng Cơng nghệ
tế bào thực vật, Viện Công nghệ sinh học.
TÀI LIỆU THAM KHẢO/ REFERENCES
[1] FAOSTAT, 2018. [Online]. Available: [Accessed Sept. 14,
2020].
[2] General Statistics Office of Vietnam, "Statistical yearbook", 2019. [Online]. Available:

[Accessed Sept. 14,
2020].
[3] T. T. Cuc, H. H. An, and N. T. B. Ha, The vegetable curriculum. Agricultural Publishing House, Hanoi,
2000, pp. 262-233.
[4] N. Gupta, M. Rathore, and D. Goyary, "Marker-free transgenic cucumber expressing Arabidopsis cbf1
gene confers chilling stress tolerance," Biologia plantarum, vol. 56, pp. 57-63, 2012.
[5] T. K. Thi, "Research on characteristics of some cucumber varieties and their application in the breeding
work in the Red River Delta," Doctoral thesis in Agriculture, Vietnam Agricultural Technical
University, 1985.
[6] Y. Tabei, S. Kitade, and Y. Nishizawa, "Transgenic cucumber plants harboring a rice chitinase gene
exhibit enhanced resistance to gray mold (Botrytis cinerea)," Plant Cell Reports, vol. 17, pp. 159-164,
1998.
[7] Z. Zhang, X. Li, and S. Ma, "A Protocol for Agrobacterium-mediated Transformation of Cucumber
(Cucumis sativus L.) from cotyledon explants", Protocol Exchange, 2017. [Online]. Available:
[Accessed Sept. 14, 2020].
[8] R. C. Gardner, "Gene transfer into tropical and subtropical crops," Scientia horticulturae, vol. 55, pp.
65-82, 1993.
[9] G. Fang, and R. Grumet, "Agrobacterium tumefaciens mediated transformation and regeneration of
muskmelon plants," Plant cell reports, vol. 9, pp. 160-164, 1990.



90

Email:


TNU Journal of Science and Technology

226(01): 83 - 91


[10] A. J. Trulson, R. B. Simpson, and E. A. Shahin, "Transformation of cucumber (Cucumis sativus L.)
plants with Agrobacterium rhizogenes," Theoretical and applied genetics, vol. 73, pp. 11-15, 1986.
[11] S. Wang, S. S. Ku, and X. Ye, "Current status of genetic transformation technology developed in
cucumber (Cucumis sativus L.)," Journal of Integrative Agriculture, vol. 14, pp. 469-482, 2015.
[12] T. Murashige, and F. Skoog, "A revised medium for rapid growth and bio assays with tobacco tissue
cultures," Physiologia Plantarum, vol. 15, pp. 473-497, 1962.
[13] R. A. Jefferson, T. A. Kavanagh, and M. W. Bevan, "GUS fusions: beta-glucuronidase as a sensitive
and versatile gene fusion marker in higher plants," EMBO J., vol. 6, pp. 3901-3907, 1987.
[14] J. J. Doyle, and J. L. Doyle, "Isolation of plant DNA from fresh tissue," Focus, vol. 12, pp. 39-40,
1990.
[15] P. T. Quyen, N. T. T. Thao, and H. N. M. Nghia, "Optimization of factors affecting Agrobacteriummediated transformation of Cucumber (Cucumis sativus L.)," Conference proceedings of National
Biotechnology Conference 2020, 2020, pp. 29-34.



91

Email:



×