Tải bản đầy đủ (.pdf) (174 trang)

Cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 174 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

PHẠM HỒNG PHONG

CƠ CHẾ PHÁP LÝ
KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC GIỮA
CƠ QUAN THỰC HIỆN QUYỀN HÀNH PHÁP
VÀ QUYỀN TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

HÀ NỘI – 2021


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

PHẠM HỒNG PHONG

CƠ CHẾ PHÁP LÝ
KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC GIỮA
CƠ QUAN THỰC HIỆN QUYỀN HÀNH PHÁP
VÀ QUYỀN TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
Mã số: 9 38 01 06

Người hướng dẫn khoa học: GS,TS. TRẦN NGỌC ĐƯỜNG

HÀ NỘI - 2021




LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Đề tài luận án
được tôi nghiên cứu, sử dụng các số liệu, trích dẫn có nguồn gốc rõ ràng và tuân
theo quy định về thực hiện đề tài luận án. Tôi chịu trách nhiệm về các nội dung
trình bày trong luận án.
Tác giả

Phạm Hồng Phong


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU

1

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
1.2. Đánh giá chung và những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu

8
8
25

Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CƠ CHẾ PHÁP LÝ KIỂM SOÁT QUYỀN
LỰC NHÀ NƯỚC GIỮA CƠ QUAN THỰC HIỆN QUYỀN HÀNH PHÁP VÀ
QUYỀN TƯ PHÁP


29

2.1. Một số khái niệm cơ bản, đặc điểm, cơ cấu, vai trò cơ chế pháp lý kiểm
soát quyền lực nhà nước giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và
quyền tư pháp
2.2. Các yếu tố cấu thành và mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành cơ chế
pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước giữa cơ quan thực hiện quyền hành
pháp và quyền tư pháp
2.3. Cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước giữa cơ quan thực hiện
quyền hành pháp và quyền tư pháp ở một số quốc gia và giá trị tham khảo
cho Việt Nam
Chương 3: SỰ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ THỰC TRẠNG CƠ CHẾ
PHÁP LÝ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC GIỮA CƠ QUAN THỰC
HIỆN QUYỀN HÀNH PHÁP VÀ QUYỀN TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM

29

55

62
66

3.1. Khái quát sự hình thành và phát triển cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực
nhà nước giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp ở
Việt Nam
3.2. Thực trạng cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước giữa cơ quan
thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp ở Việt Nam hiện nay
3.3. Thực trạng vận hành cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước giữa
các cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp ở Việt Nam

3.4. Đánh giá chung về cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước giữa cơ
quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp ở Việt Nam

104

Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN CƠ
CHẾ PHÁP LÝ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC GIỮA CƠ QUAN
THỰC HIỆN QUYỀN HÀNH PHÁP VÀ QUYỀN TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM

121

4.1. Quan điểm xây dựng và hoàn thiện cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực
nhà nước giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp ở
Việt Nam
4.2. Giải pháp hồn thiện cơ chế pháp lý kiểm sốt quyền lực nhà nước giữa cơ
quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp ở Việt Nam
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CƠNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CƠNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

66
78
91

121
124
154
155

156
163


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CQĐP

: Chính quyền địa phương

CQNN

: Cơ quan nhà nước

HĐND

: Hội đồng nhân dân

QLNN

: Quyền lực nhà nước

TAND

: Tòa án nhân dân

UBND

: Uỷ ban nhân dân

UBTVQH


: Uỷ ban thường vụ Quốc hội

VAHC

: Vụ án hành chính

VBPL

: Văn bản pháp luật

VKS

: Viện Kiểm sát

VKSND

: Viện Kiểm sát nhân dân

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Quyền lực nhà nước (QLNN) là thuộc tính của nhà nước, khẳng định ưu thế
và tầm quan trọng của nhà nước so với các tổ chức khác của hệ thống chính trị
trong quản lý xã hội. Tuy nhiên, QLNN bên cạnh khả năng vượt trội bởi tính hướng

đích hiệu quả, sức mạnh bắt buộc trong điều chỉnh các quan hệ xã hội để thiết lập,
duy trì trật tự xã hội thì cịn có yếu tố cấu thành khách quan gắn liền với sự tồn tại
và phát triển của nó là sự tha hóa của QLNN. Sự tha hóa của QLNN ln có nguy
cơ đe dọa phá hủy tất cả các thành quả của chính nó, thơng qua việc phá vỡ các giới
hạn trật tự, nền tự do dân chủ và thành tựu nhân quyền mà QLNN tạo ra.
Ở nước ta, một trong những nguyên tắc nền tảng của công cuộc xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân
dân là nguyên tắc “Tất cả QLNN thuộc về Nhân dân” [42]. Nguyên tắc này đã được
ghi nhận trong các Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Việt Nam và được thể chế hóa
bằng quy định của Hiến pháp và pháp luật. Nguyên tắc “Tất cả QLNN thuộc về
Nhân dân” xuất phát từ bản chất QLNN có nguồn gốc từ Nhân dân. Nhân dân thành
lập nên Nhà nước, ủy quyền cho Nhà nước, các cơ quan nhà nước (CQNN) thực
hiện quyền lực nhân dân. Để bảo đảm cho QLNN không bị lũng đoạn, các CQNN
không thể lạm dụng quyền lực được giao, cần phải xây dựng một cơ chế kiểm soát
việc thực hiện QLNN một cách minh bạch và chặt chẽ. Đây cũng là đòi hỏi tất yếu
của nguyên tắc tất cả QLNN thuộc về Nhân dân, bảo đảm ngăn chặn sự lạm dụng
QLNN, xâm phạm chủ quyền nhân dân, bảo đảm cho Nhân dân luôn ở vị thế là chủ
thể tối cao của QLNN. Chính vì thế, Hiến pháp năm 2013 khẳng định “QLNN là
thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp, kiểm soát giữa các CQNN trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” (khoản 3 Điều 2).
Trong các cơ chế kiểm soát giữa các CQNN trong việc thực hiện QLNN thì cơ
chế kiểm sốt giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp đóng vai
trị quan trọng, bởi vì:
Thứ nhất, quyền hành pháp với chức năng nhiệm vụ của mình, hoạch định
chính sách và tổ chức thi hành pháp luật trong mọi lĩnh vực của cuộc sống xã hội,
có tác động đến quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Do vậy,


2
việc lạm dụng quyền hành pháp có nguy cơ xâm phạm trực tiếp đến quyền, lợi ích

hợp pháp của người dân. Trong khi đó, quyền tư pháp với chức năng bảo vệ công
lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, có khả năng tác động, ngăn chặn
quyền hành pháp trong việc ban hành, thực hiện những chính sách gây ảnh hưởng
đến quyền con người, quyền công dân.
Thứ hai, các chính sách do quyền hành pháp hoạch định được chuyển hóa
thành quy định của pháp luật để đưa vào cuộc sống xã hội. Tuy nhiên, pháp luật
khơng bao giờ có thể dự liệu được tất cả mọi tình huống phát sinh trong thực tiễn
của đời sống. Vì vậy, về nguyên tắc, trong quá trình tổ chức thực hiện pháp luật, cơ
quan thực hiện quyền hành pháp phải thực hiện một cách chủ động, sáng tạo để
thích ứng kịp thời với những diễn biến đa dạng và sinh động của thực tiễn đời sống.
Tuy nhiên, để bảo đảm cho việc thực hiện quyền hành pháp khơng đi q giới hạn,
địi hỏi cần xây dựng cơ chế ngăn cản sự lạm quyền của cơ quan thực hiện quyền
hành pháp. Trong đó, cơ quan thực hiện quyền tư pháp phải đóng vai trị là chốt
chặn, ngăn cản sự lạm quyền của cơ quan thực hiện quyền hành pháp.
Thứ ba, nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân
của cơ quan tư pháp được thực hiện thông qua chức năng xét xử của tòa án. Tòa án
căn cứ vào quy định của pháp luật, thực hiện chức năng xét xử. Tức là, cơ quan tư
pháp, căn cứ vào chính sách do cơ quan hành pháp hoạch định được chuyển hóa
thành quy định của pháp luật để thực hiện chức năng của mình. Để bảo vệ chính
sách đã được luật hóa, cơ quan hành pháp cần kiểm sốt hoạt động của cơ quan tư
pháp. Tuy nhiên, do tính chất đặc thù của quyền tư pháp là độc lập, cơ quan hành
pháp không thể tác động trực tiếp vào hoạt động xét xử của tịa án, mà thơng qua
khả năng tác động đến tổ chức nhân sự của tòa án, bảo đảm việc lựa chọn thẩm
phán của tòa án đáp ứng được các yêu cầu về phẩm chất đạo đức và trình độ chun
mơn, nghiệp vụ.
Để bảo đảm cho việc kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành
pháp và quyền tư pháp có hiệu lực và hiệu quả, trước hết, địi hỏi xây dựng cơ chế
pháp lý kiểm sốt hoạt động thực hiện QLNN giữa các cơ quan này. Tuy nhiên, kể
từ khi Hiến pháp năm 2013 được thông qua, chưa có nhiều thay đổi trong các thể
chế pháp lý cũng như thực tế thực hiện cơ chế pháp lý kiểm sốt QLNN giữa hai

nhóm cơ quan nêu trên. Điều đó dẫn đến cơ chế pháp lý kiểm sốt QLNN nói
chung, kiểm sốt QLNN giữa các cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư


3
pháp nói riêng chưa hình thành và phát huy hiệu quả. Trong bối cảnh đó, việc
nghiên cứu đề tài: “Cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước giữa cơ quan
thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp ở Việt Nam” có ý nghĩa cấp thiết cả
về lý luận và thực tiễn.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu của luận án
Mục đích của luận án là nghiên cứu, làm sáng tỏ cơ sở lý luận về cơ chế pháp
lý kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp;
đồng thời, nghiên cứu, xây dựng luận cứ thực tiễn cho việc đề xuất giải pháp hoàn
thiện cơ chế pháp lý kiểm soát QLNN giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền
hành pháp và quyền tư pháp ở Việt Nam.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
Để thực hiện được mục đích trên đây, luận án có những nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, nghiên cứu cơ sở lý luận về cơ chế pháp lý kiểm soát QLNN giữa
cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp trên các phương diện làm rõ
khái niệm, đặc điểm, nội dung cơ chế pháp lý về kiểm soát QLNN giữa cơ quan
thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp.
Thứ hai, nghiên cứu vận dụng lý luận trong và ngoài nước về cơ chế pháp lý
kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp để làm
sáng rõ cơ sở lý luận cơ chế pháp lý về kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện
quyền hành pháp và quyền tư pháp ở nước ta.
Thứ ba, phân tích, đánh giá thực trạng cơ chế pháp lý về kiểm soát QLNN
giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp ở nước ta hiện nay trên
các phương diện những kết quả đạt được, hạn chế, bất cập và chỉ ra nguyên nhân
của hạn chế, bất cập.

Thứ tư, đề xuất những quan điểm, luận giải tính khả thi của các giải pháp hoàn
thiện cơ chế pháp lý về kiểm soát QLNN giữa các cơ quan trong việc thực hiện
quyền hành pháp và quyền tư pháp ở nước ta hiện nay.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu của luận án
Luận án nghiên cứu các quan điểm lý luận khoa học với những tư tưởng, quan
điểm về tổ chức QLNN; cơ chế kiểm sốt QLNN nói chung, cơ chế pháp lý về
kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp nói


4
riêng; các quy định của Hiến pháp và luật về tổ chức cơ quan thực hiện quyền hành
pháp, quyền tư pháp; thực tiễn kiểm soát quyền lực giữa cơ quan thực hiện quyền
hành pháp và quyền tư pháp.
3.2. Phạm vi nghiên cứu của luận án
- Về nội dung nghiên cứu: Luận án nghiên cứu các nội dung những vấn đề liên
quan đến việc xác định cơ sở lý luận về cơ chế pháp lý kiểm soát QLNN giữa cơ
quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp; nghiên cứu thực tiễn cơ chế
pháp lý về kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư
pháp và hoàn thiện cơ chế này.
Việc nghiên cứu so sánh cơ chế pháp lý kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực
hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp ở một số nước trên thế giới nhằm mục đích
tham khảo và làm tăng tính thuyết phục cho những lập luận, phân tích, đánh giá và
kiến nghị hồn thiện cơ chế pháp lý kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền
hành pháp và quyền tư pháp ở nước ta hiện nay.
- Về phạm vi thời gian: Luận án tập trung nghiên cứu cơ chế pháp lý kiểm soát
QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp từ khi Hiến pháp
năm 2013 có hiệu lực đến nay. Bên cạnh đó, với mục đích so sánh, tham khảo, luận
án có nghiên cứu khái quát cơ chế pháp lý kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện
quyền hành pháp và quyền tư pháp theo quy định của các Hiến pháp năm 1946,

Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 và Hiến pháp
1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001).
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Phương pháp luận nghiên cứu của luận án
Việc nghiên cứu đề tài luận án được tiếp cận dựa trên cơ sở lý luận sau:
- Cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường
lối, quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà
nước và pháp luật; quan điểm của Đảng về tổ chức, kiểm soát QLNN, tổ chức
bộ máy nhà nước.
- Các học thuyết chứa đựng những tư tưởng, quan điểm về nền dân chủ pháp
quyền, về tổ chức QLNN, tổ chức bộ máy nhà nước. Những học thuyết, triết lý này
được trình bày trong tác phẩm của các nhà tư tưởng, chính trị, luật học, được vận
dụng để phân tích ngun tắc kiểm sốt QLNN, kiểm soát QLNN giữa cơ quan


5
thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp; vị trí, vai trị, nhiệm vụ của các thiết
chế thực hiện quyền hành pháp, quyền tư pháp.
- Các quan điểm, chủ trương cải cách bộ máy nhà nước của Đảng định hướng
cho việc tìm kiếm các giải pháp hồn thiện cơ chế pháp lý kiểm soát QLNN giữa cơ
quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp.
- Các quan điểm của Đảng về cơng cuộc đổi mới tồn diện đất nước, đổi mới
tổ chức và hoạt động nhà nước theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân.
4.2. Phương pháp nghiên cứu của luận án
Phương pháp luận nghiên cứu của luận án là chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử. Các quy luật và các phạm trù của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử được vận dụng để nghiên cứu về quá trình phát
triển nhận thức của xã hội về QLNN, kiểm sốt QLNN nói chung, cơ chế pháp lý
kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và tư pháp nói riêng.

Luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau đây:
Phương pháp nghiên cứu tài liệu thứ cấp: Phương pháp này được sử dụng
trong nghiên cứu các tài liệu phục vụ quá trình xây dựng tổng quan tình hình nghiên
cứu ở Chương 1; nghiên cứu các vấn đề lý luận và kinh nghiệm của các nước ở
Chương 2; nghiên cứu thực trạng cơ chế pháp lý kiểm soát QLNN giữa cơ quan
thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp ở Việt Nam tại Chương 3.
Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phương pháp này được sử dụng trong suốt
quá trình nghiên cứu đề tài luận án. Thực hiện mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu,
phương pháp này hệ thống hóa và làm sáng tỏ cơ sở khoa học của cơ chế pháp lý
kiểm soát QLNN giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền hành pháp và quyền
tư pháp; phân tích, làm rõ thực trạng cơ chế pháp lý kiểm soát QLNN giữa cơ quan
thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp ở Việt Nam; đánh giá các kết quả đạt
được, những hạn chế, bất cập và chỉ rõ nguyên nhân của thực trạng này. Trên cơ sở
đó, luận án phân tích quan điểm và giải pháp hoàn thiện cơ chế pháp lý kiểm soát
QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp ở Việt Nam.
Phương pháp đánh giá, tổng kết thực tiễn: Phương pháp này được sử dụng
chủ yếu ở Chương 3, khi nghiên cứu thực trạng thể chế, thiết chế tổ chức bộ máy để
đánh giá các kết quả đạt được, những hạn chế, bất cập của cơ chế pháp lý kiểm soát


6
QLNN giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp ở
Việt Nam và chỉ rõ nguyên nhân của thực trạng này.
Phương pháp so sánh và dự báo: Phương pháp này được sử dụng giúp cho việc
nhận diện chuẩn xác về những điểm tương đồng và khác biệt của cơ chế pháp lý kiểm
soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp ở Việt Nam
trong từng thời kỳ phát triển, từng giai đoạn lịch sử cụ thể; giữa cơ chế pháp lý kiểm
soát QLNN ở Việt Nam với một số nước trong khu vực và trên thế giới; sự đồng
hành hay bất cập giữa cơ sở lý thuyết và pháp lý với thực tiễn cơ chế pháp lý kiểm
soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp ở Việt Nam.

Trên cơ sở đó, luận án xác định những thiếu vắng và yêu cầu hoàn thiện cơ chế pháp
lý kiểm soát QLNN trong xu thế vận động, phát triển để dự báo và chọn lọc những tri
thức khoa học từ thực tiễn nhằm đề xuất quan điểm và giải pháp hoàn thiện cơ chế
pháp lý kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp
ở Việt Nam. Phương pháp này được sử dụng chủ yếu ở Chương 4 của luận án.
5. Những đóng góp mới của luận án
Việc nghiên cứu đề tài luận án góp phần triển khai, thực hiện nguyên tắc kiểm
soát QLNN mới được Hiến pháp năm 2013 ghi nhận. Đây là một trong số cơng
trình khoa học nghiên cứu chun sâu, tồn diện, có hệ thống và chun biệt về cơ
chế pháp lý kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư
pháp ở Việt Nam trên cả phương diện lý luận, pháp lý và thực tiễn. Dưới góc độ
tiếp cận của Lý luận và lịch sử Nhà nước và pháp luật, đề tài luận án có những đóng
góp mới sau:
Một là, luận án kế thừa, tổng hợp các cơng trình đi trước và bổ sung vào hệ
thống lý luận, các khái niệm về cơ chế kiểm soát QLNN; cơ chế pháp lý kiểm soát
QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp; các lý thuyết
liên quan đến tổ chức thực hiện QLNN, cơ chế kiểm sốt về QLNN nói chung, cơ
chế pháp lý về kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền
tư pháp nói riêng phù hợp với Việt Nam.
Hai là, luận án cũng đã chỉ ra và phân tích đặc điểm, cơ cấu, vai trò, các yếu tố
cấu thành và mối quan hệ giữa các yếu tố cấu thành cơ chế pháp lý về kiểm soát
QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp.
Ba là, luận án đã phân tích, đánh giá một cách đồng bộ, chi tiết thực trạng cơ
chế pháp lý về kiểm soát QLNN giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền hành


7
pháp và quyền tư pháp ở Việt Nam từ khi Hiến pháp năm 2013 có hiệu lực cho đến
nay. Từ đó, chỉ rõ những kết quả đạt được, hạn chế, bất cập và nguyên nhân của
thực trạng này. Đây là những đóng góp mới về phương diện thực tiễn.

Bốn là, luận án đã xây dựng được hệ thống những quan điểm và giải pháp
hoàn thiện cơ chế pháp lý về kiểm soát QLNN giữa các cơ quan trong việc thực
hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp ở nước ta hiện nay. Những kiến nghị này
có ý nghĩa cho hoạt động lập pháp, thực thi pháp luật và khoa học pháp lý.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận của luận án
Về mặt lý luận, luận án đã nghiên cứu, làm sáng tỏ cơ sở lý luận về cơ chế
pháp lý kiểm soát QLNN giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền hành pháp và
quyền tư pháp ở nước ta. Kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm phong phú
thêm lý luận về tổ chức thực hiện QLNN, về kiểm soát QLNN, cơ chế pháp lý về
kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận án
Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu của luận án có thể dùng làm tài liệu tham
khảo hữu ích cho các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp trong quá trình xây
dựng, hồn thiện Bộ máy nhà nước ta. Kết quả nghiên cứu của luận án cũng là tài
liệu tham khảo bổ ích cho việc giảng dạy, học tập và nghiên cứu trong lĩnh vực
khoa học pháp lý.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung luận án gồm 4 chương, 11 tiết.
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài và những vấn
đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu
Chương 2: Cơ sở lý luận về cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước giữa
cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp
Chương 3: Sự hình thành, phát triển và thực trạng cơ chế pháp lý kiểm soát
quyền lực nhà nước giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp ở
Việt Nam
Chương 4: Quan điểm và giải pháp xây dựng và hoàn thiện cơ chế pháp lý
kiểm soát quyền lực nhà nước giữa cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư
pháp ở Việt Nam



8
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
LUẬN ÁN

1.1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu trong nước
Sự quan tâm của các nhà khoa học về vấn đề kiểm sốt QLNN nói chung và
kiểm sốt thực hiện QLNN giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền (trong
đó có quyền hành pháp và quyền tư pháp) được phản ánh qua nhiều cơng trình
nghiên cứu. Có thể phân chia các cơng trình nghiên cứu tiêu biểu thành các nhóm
sau đây:
Một là, các cơng trình nghiên cứu về QLNN, quyền hành pháp, quyền tư pháp
Trong cuốn sách: “Quyền lực nhà nước và quyền công dân” của PGS.TS
Đinh Văn Mậu [31] đã trình bày về QLNN và khẳng định thực chất QLNN là
quyền lực của nhân dân. Với những đặc thù vốn có, QLNN cần phải được thực hiện
bởi những cơ quan nhất định. Tuy nhiên, cơ quan đó phải bảo đảm nhận và thể hiện
ý chí của chính nhân dân - nguồn gốc của QLNN. Về bản chất, ý chí, lợi ích của
nhân dân phải được bảo đảm trong quá trình thực hiện QLNN. Nhà nước phải bảo
đảm quyền con người, quyền công dân và bảo vệ các quyền ấy, thông qua các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Trong cuốn sách: “Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong thời
kỳ đổi mới” của tác giả Trần Ngọc Đường, Chu Văn Thành [19]; và “Một số vấn đề
về phân cơng, phối hợp và kiểm sốt quyền lực trong xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam” do GS.TS Trần Ngọc Đường chủ biên [20], các tác giả đã
phân tích, lập luận trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn nhằm làm sáng tỏ
các mối liên hệ cơ bản. Đó là quan hệ giữa chủ thể QLNN với chủ thể có vai trị

lãnh đạo nhà nước và mối quan hệ giữa các CQNN với nhau. Một trong những
đóng góp quan trọng của các tác giả được trình bày trong các cuốn sách trên là đã
tiếp cận khoa học và lý giải cụ thể vấn đề nguồn gốc, đặc điểm, bản chất xu hướng
của QLNN.


9
Sách chuyên khảo: “Cải cách tư pháp vì một nền tư pháp liêm chính”, do
Viện Chính sách cơng và pháp luật xuất bản là một tài liệu phân tích về quyền tư
pháp trong nhà nước pháp quyền, cải cách tư pháp trong xây dựng nhà nước pháp
quyền XHCN và một vấn đề quan trọng trong xã hội hiện nay là sự liêm chính trong
các hoạt động tư pháp [62]. Đây là những nền tảng lý luận quan trọng cho việc tổ
chức nghiên cứu về vị trí, vai trị của hệ thống Tòa án trong việc thực hiện quyền tư
pháp và sự gắn kết giữa cải cách tư pháp và xây dựng nhà nước pháp quyền. Tuy
nhiên, sách được viết dưới dạng tập hợp các chuyên đề nên chưa có hệ thống đầy đủ
và toàn diện, chưa đề cập nhiều đến cải cách của hệ thống Tòa án.
Trong cuốn sách: “Tổng kết một số vấn đề lý luận - Thực tiễn 30 năm đổi mới
(1986-2016) về phòng, chống tham nhũng, lãng phí”, do Ban Nội chính Trung
ương phát hành [3] đã tập trung vào ba vấn đề quan trọng là tư pháp, nội chính và
phịng, chống tham nhũng. Trong đó, về lĩnh vực tư pháp, cuốn sách đã nêu lên
những thành tựu 30 năm đổi mới (1986-2016), cụ thể là làm rõ q trình đổi mới và
hồn thiện hệ thống tư pháp. Từ đó, tổng kết, đánh giá những kết quả đạt được,
những nhược điểm, hạn chế cần tiếp tục khắc phục trong thời gian tới. Đây là cuốn
sách có những đánh giá mang tính tổng quan, tồn diện về một thời kỳ dài thực hiện
các cải cách về hoạt động của các cơ quan tư pháp, trong đó có Tịa án; qua đó, chỉ
rõ những nhược điểm cần phải khắc phục khi tiến hành nghiên cứu về đổi mới hệ
thống Tòa án nhân dân (TAND).
Tác giả Bùi Ngọc Sơn nêu vấn đề “Quyền tư pháp trong chính thể hiện đại”
thơng qua khẳng định việc xác định một mơ hình chính thể cần phải dựa vào cả ba
loại quyền lực [46]. Tác giả đã đi sâu phân tích sự khác nhau của quyền tư pháp

trong các chính thể hiện đại (chính thể cộng hịa tổng thống, chính thể đại nghị,
chính thể cộng hồ lưỡng tính, chính thể của các nhà nước XHCN). Kết luận của tác
giả về vấn đề này là quyền tư pháp “một cành QLNN khơng chỉ mang tính chất tố
tụng mà cịn mang yếu tố chính trị”.
Bài viết: “Một số vấn đề về quyền tư pháp, hoạt động tư pháp, cơ quan tư
pháp, kiểm sát hoạt động tư pháp” của PGS.TS Trần Đình Nhã [33]. Tác giả đã đưa
ra quan niệm về quyền tư pháp là quyền xét xử và cơ quan tư pháp là Tòa án; hoạt
động tư pháp là hoạt động của quyền tư pháp trong đời sống xã hội, đó là hoạt động


10
xét xử; cơ quan tư pháp - cơ quan nhân danh QLNN thực hiện quyền tư pháp - là cơ
quan xét xử.
Trong bài viết: “Bàn về quyền hành pháp trong Hiến pháp năm 2013”, TS
Nguyễn Văn Cương [5] đã phân tích về khái niệm quyền hành pháp theo quan điểm
lịch sử. Tác giả viện dẫn quyền hành pháp trong quan niệm của Montesquieu; trình
bày quan niệm về quyền hành pháp ở Việt Nam hiện nay dưới cách đánh giá, lập
luận của các nhà khoa học, cho thấy sự đa dạng trong quan niệm về quyền hành
pháp ở Việt Nam. Tác giả cũng gợi mở góc nhìn so sánh về vấn đề này, nhằm cung
cấp cách đánh giá khách quan về quyền hành pháp.
Tác giả Nguyễn Ngọc Tốn trình bày quan điểm về quyền hành pháp trong bài
viết: “Quyền hành pháp của Chính phủ theo Hiến pháp năm 2013” [57]. Trong đó,
tác giả trình bày q trình hiến định quyền hành pháp cho Chính phủ trên cơ sở làm
rõ quan niệm về quyền hành pháp, quá trình hiến định quyền hành pháp cho Chính
phủ. Bên cạnh đó, tác giả cũng đưa ra quan điểm xác định nội dung và phạm vi
quyền hành pháp của Chính phủ trong Hiến pháp năm 2013, cấu trúc tương thích
của Chính phủ để thực hiện quyền hành pháp, kiểm sốt quyền hành pháp của
Chính phủ trong Hiến pháp.
Bài viết: “Tòa án thực hiện quyền tư pháp, bảo vệ công lý” của GS.TS
Nguyễn Đăng Dung [10]. Tác giả nhấn mạnh chức năng, nhiệm vụ của Tòa án là

phải bảo vệ công lý, sự công bằng, nêu rõ sự tiến bộ vượt bậc của Hiến pháp năm
2013 khi ghi nhận Tòa án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp, bảo vệ công lý, bảo
vệ quyền con người và bảo vệ quyền cơng dân. Tác giả cịn cho rằng, Tịa án phải
nhân danh cơng lý trong xét xử, chứ khơng phải nhân danh nước Cộng hịa XHCN
Việt Nam.
Bài viết: “Quyền hành pháp theo Hiến pháp năm 2013: những vấn đề cần tiếp
tục hoàn thiện” của PGS.TS Bùi Xuân Đức [18]. Tác giả đã phân tích về quyền
hành pháp và tổ chức quyền hành pháp theo Hiến pháp năm 2013; sự thể hiện
quyền hành pháp trong mơ hình tổ chức QLNN theo Hiến pháp năm 2013. Tác giả
đề xuất trong thời gian tới cần có các quy định pháp luật xác định đúng tính chất, vị
trí của Chính phủ, xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm và mối quan hệ qua lại giữa
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ với các thiết chế quyền lực khác; xác định rõ tính


11
chất, vai trị và các mối quan hệ giữa Chính phủ và các Bộ. Xác định rõ mối quan
hệ giữa Chính phủ (Trung ương) với chính quyền địa phương (CQĐP) (địa phương)
và quy định rõ cơ chế chịu trách nhiệm của Chính phủ và các thành viên Chính phủ.
Hai là, các cơng trình nghiên cứu về kiểm sốt QLNN, kiểm soát quyền hành
pháp, quyền tư pháp
Cuốn sách: “Sự hạn chế QLNN” của tác giả Nguyễn Đăng Dung [6]. Cuốn
sách giải thích lý do giới hạn và chỉ rõ nội dung giới hạn QLNN. Những trình bày
của tác giả tập trung làm rõ tính pháp quyền và địi hỏi của tính pháp quyền đối với
hạn chế QLNN. Vấn đề cốt lõi là khâu tổ chức thực hiện, nghĩa là phải xác định rõ
ràng sự phân cơng QLNN. Tuy nhiên, sẽ khó có thể có hiệu quả nếu sự phân cơng
đó khơng gắn liền với sự giám sát QLNN. Những mơ hình và giá trị của việc thực
hiện các mơ hình tổ chức QLNN trên thế giới sẽ là chỉ dẫn quan trọng cho Việt
Nam tham khảo kinh nghiệm. Gợi ý của tác giả liên quan đến nhiều vấn đề (bao
gồm cả sự tổ chức QLNN cũng như thực hiện QLNN); nhưng chưa bao hàm kiểm
soát QLNN với việc thể hiện rõ nét vai trò của từng loại CQNN.

Cuốn sách: “QLNN và quyền công dân” của PGS.TS Đinh Văn Mậu [31].
Trên cơ sở khẳng định trách nhiệm bảo đảm quyền con người, quyền công dân của
nhà nước, tác giả nhấn mạnh việc bảo đảm, bảo vệ các quyền này được thực hiện
thông qua ba quyền (lập pháp, hành pháp, tư pháp). QLNN có khả năng bắt buộc cư
dân phải phục tùng ý chí của nhà nước, điều này sẽ xảy ra xu hướng dễ lạm quyền.
Vì vậy, phải kiểm sốt đối với các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp để bảo đảm
quyền, tự do, lợi ích hợp pháp của cơng dân khơng bị xâm phạm. Mặc dù có đề cập
tới nhu cầu phải kiểm sốt QLNN nhưng cơng trình này khơng đi sâu phân tích về
vấn đề này.
Cơng trình khoa học: “Nhà nước và trách nhiệm của nhà nước” của tác giả
Nguyễn Đăng Dung, đề cập tới một số phương thức kiểm soát QLNN [8]. Trên cơ
sở luận chứng về sự cần thiết của nhà nước đối với xã hội và khẳng định nhà nước
ln ln có xu hướng lạm quyền, sự tha hoá của QLNN. Để tránh sự lạm quyền,
phải chế ước quyền lực bằng cơ chế của hiến pháp, pháp luật và phân chia quyền
lập pháp, hành pháp, tư pháp thành ba nhánh quyền lực để chế ước lẫn nhau, bảo
đảm các nhánh quyền lực không được lạm quyền, thực hiện “quyền lực giám sát


12
quyền lực”. Vì vậy, để thực hiện “quyền lực giám sát quyền lực” có hiệu quả, bắt
buộc phải xây dựng mơ hình nhà nước pháp quyền và giám sát xã hội đối với
QLNN. Trên cơ sở lý luận cũng như thực tiễn hệ thống chính trị Hoa Kỳ, tác giả đã
khảo cứu và đưa ra các kiến nghị về chế ước QLNN Việt Nam. Tuy nhiên dưới góc
độ chủ yếu phân tích về chế độ trách nhiệm của nhà nước, tác giả chú tâm nghiên
cứu về phân chia quyền lực và quyền lực chế ước quyền lực trong bộ máy nhà
nước, chưa đi sâu nghiên cứu cơ chế pháp lý kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực
hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp ở Việt Nam.
Sách chuyên khảo: “Kiểm soát QLNN một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt
Nam hiện nay” của TS Trịnh Thị Xuyến [68]. Tác giả tiếp cận vấn đề kiểm soát
QLNN dưới góc độ chính trị học. Trên phương diện này, nhiều nội dung đã được

tác giả phân tích, liên quan trực tiếp tới kiểm soát QLNN như làm rõ vấn đề lý luận
(có đối chiếu, so sánh với vấn đề tương tự của một số nước); thực trạng (bao gồm cả
thành tựu và hạn chế); phương hướng, giải pháp chủ yếu trong kiểm sốt QLNN ở
Việt Nam. Mặc dù đã trình bày tương đối cụ thể về vấn đề này, song tác giả cũng
chưa đề cập một cách rõ ràng nội dung, yêu cầu của cơ chế kiểm soát QLNN giữa
cơ quan thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp ở Việt Nam.
Cơng trình khoa học: “Cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của hệ thống
chính trị trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của nhóm tác giả,
do Lê Minh Thơng làm chủ biên [52]. Trên cơ sở kết quả cơng trình khoa học cấp
Nhà nước, các tác giả chỉ rõ tính gắn bó chặt chẽ, mật thiết giữa đổi mới hệ thống
chính trị với đổi mới các mối quan hệ cơ bản trong hệ thống chính trị đó. Điểm mấu
chốt của tất cả các hoạt động đổi mới là phải phục vụ cho lợi ích của nhân dân và
chủ thể tối cao trong giám sát QLNN khơng ai khác cũng chính là nhân dân. Từ
thực trạng, đặc biệt là những hạn chế về tổ chức và hoạt động của hệ thống chính
trị, các tác giả khẳng định những giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả giám sát,
kiểm soát QLNN trong thời gian tới.
Cuốn sách: “Xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong thời kỳ
đổi mới” của Trần Ngọc Đường và Chu Văn Thành [19] và “Một số vấn đề về phân
cơng, phối hợp và kiểm sốt quyền lực trong xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam” do GS.TS Trần Ngọc Đường chủ biên [20]. Trong hai cuốn sách


13
trên, các tác giả đề cập đến hai nhóm vấn đề có mối liên hệ mật thiết với nhau. Một
là, vấn đề phân cơng, phối hợp, kiểm sốt QLNN và hai là, điều kiện xây dựng nhà
nước pháp quyền XHCN Việt Nam đòi hỏi đối với việc tổ chức QLNN. Sự tham
gia của các chủ thể, với vị trí, vai trị nhất định trong hệ thống chính trị, sẽ khẳng
định mức độ phân cơng, phối hợp và kiểm sốt QLNN. Tuy nhiên, nghiên cứu trực
tiếp và sâu sắc về vấn đề cơ chế kiểm soát QLNN giữa các cơ quan, nhất là cơ quan
thực hiện quyền hành pháp và quyền tư pháp thì chưa được phản ánh trong hai cuốn

sách trên.
Sách chuyên khảo: “Tổ chức và kiểm soát QLNN” của PGS. TS Thái Vĩnh
Thắng [51]. Đây là một trong những cơng trình chun sâu về vấn đề tổ chức, kiểm
sốt QLNN. Cơng trình sử dụng phương pháp nghiên cứu lịch sử với việc đánh giá
cách thức tổ chức và kiểm soát QLNN của các kiểu nhà nước, từ nhà nước phong
kiến tới nhà nước tư sản. Bên cạnh đó, tác giả đã giải thích khá rõ về vấn đề tổ chức,
kiểm sốt QLNN ở Việt Nam từ khi có Hiến pháp đầu tiên năm 1946 cho đến Hiến
pháp hiện hành năm 2013. Những khuyến nghị của tác giả có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn đối với việc xây dựng, hồn thiện Nhà nước Việt Nam nói chung và tổ
chức, hoạt động của từng loại cơ quan trong bộ máy nhà nước nói riêng. Tuy nhiên,
trong cơng trình khoa học này, tác giả chưa phân tích sâu về vấn đề kiểm soát
QLNN của cơ quan hành pháp và bảo đảm tính độc lập của cơ quan tư pháp khi
thực hiện các hoạt động xét xử đối với các vi phạm của cơ quan hành pháp.
Luận án tiến sỹ luật học: “Kiểm soát đối với quyền lực hành pháp ở Việt Nam
hiện nay” của tác giả Bùi Huy Tùng [60]. Luận án là cơng trình nghiên cứu chun
sâu về kiểm sốt đối với quyền lực hành pháp ở Việt Nam. Luận án đi sâu phân tích
cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng, hoàn thiện cơ chế pháp lý nhằm bảo
đảm sự kiểm soát của lập pháp đối với quyền lực hành pháp dưới hình thức các thủ
tục pháp lý như: Thủ tục bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ các chức vụ
do Quốc hội bầu và phê chuẩn; cách thức tổ chức các phiên họp giải trình tại Hội
đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội; cách thức hoặc bộ phận chuyên môn giám
sát văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, các Bộ, ngành thuộc Chính phủ và
CQĐP; cách thức thành lập và nhiệm vụ, quyền hạn của các Ủy ban điều tra do
Quốc hội thành lập...; cơ chế xét xử của Tòa án đối với các văn bản quy phạm pháp


14
luật của Chính phủ, các Bộ, ngành ban hành. Tuy nhiên, luận án không đi sâu
nghiên cứu cơ chế pháp lý kiểm soát QLNN giữa cơ quan thực hiện quyền hành
pháp và quyền tư pháp.

Luận án tiến sỹ luật học: “Cơ chế pháp lý kiểm soát QLNN đối với việc thực
hiện quyền hành pháp ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Hồi An [1]. Luận án là
cơng trình nghiên cứu chuyên sâu về cơ chế pháp lý kiểm soát QLNN đối với việc
thực hiện quyền hành pháp. Trên cơ sở làm rõ lý luận, đánh giá thực trạng, luận án
cũng đã đề xuất được hệ thống các giải pháp hồn thiện cơ chế pháp lý kiểm sốt
QLNN đối với việc thực hiện quyền hành pháp ở Việt Nam. Mặc dù luận án có đề
cập đến phương thức kiểm sốt quyền hành pháp từ phía cơ quan tư pháp; tuy
nhiên, luận án không nghiên cứu cơ chế pháp lý kiểm soát QLNN của cơ quan hành
pháp đối với cơ quan tư pháp.
Bài viết: “Kiểm soát giữa các CQNN trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp” của GS.TS Phạm Hồng Thái [49]. Nội dung bài viết đã
phân tích vấn đề kiểm sốt (chủ yếu và trực tiếp là kiểm soát QLNN) giữa các
CQNN trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, tác giả bài
viết đã đề xuất một số kiến nghị khắc phục những hạn chế của Hiến pháp và các
luật về tổ chức bộ máy nhà nước liên quan đến vấn đề này.
Bài viết: “Hiến pháp phải là văn bản kiểm soát QLNN” của GS.TS Nguyễn
Đăng Dung [9]. Bài viết đã phân tích sự cần thiết phải kiểm sốt QLNN xuất phát
từ sự tham lam của con người và mức độ nguy hiểm của QLNN. Từ đó, tác giả cho
rằng, kiểm sốt QLNN phải được thể hiện về hình thức và nội dung. Với quy định
của Hiến pháp năm 2013 đã cho thấy quyết tâm về việc kiểm soát QLNN, tuy nhiên
vấn đề kiểm soát quyền lực theo Hiến pháp năm 2013 vẫn còn hai hạn chế lớn là
phải đặt trong khung cảnh tập quyền và kiểm soát quyền lực chủ yếu nằm ở trạng
thái phòng ngừa.
Bài viết: “QLNN là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp, kiểm sốt giữa các
CQNN trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp trong Hiến
pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam” của tác giả GS.TS Trần Ngọc Đường [23].
Bài viết đã chỉ ra rằng QLNN là thống nhất và được ghi nhận trong Hiến pháp năm
2013. Tuy nhiên, để bảo đảm cho quyền lực được thống nhất, được thực hiện đúng



15
theo yêu cầu, nguyện vọng của Nhân dân thì một yêu cầu nảy sinh tự nhiên là sự
kiểm soát QLNN.
Bài viết: “Về phân công, phối hợp giữa các CQNN trong việc thực hiện quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp theo Hiến pháp năm 2013” của Vũ Duy Tú [58].
Trong bài viết, tác giả đã khẳng định việc kế thừa những giá trị tiến bộ của Hiến
pháp năm 2013 trong việc quy định vấn đề phân công, phối hợp giữa các CQNN
thực hiện ba quyền trên. Tác giả đã so sánh, phân tích, từ đó làm rõ một số vấn đề
cơ bản về QLNN, các quy định có liên quan về sự phân cơng, phối hợp và kiểm
sốt QLNN. Tác giả nhấn mạnh cần phải chú ý cả hai phương diện, bao gồm kiểm
soát bên trong Nhà nước và kiểm sốt bên ngồi Nhà nước.
Bài viết: “Kiểm sốt quyền tư pháp của Tòa án Việt Nam” của Phạm Hồng
Phong. Tác giả đã khẳng định “kiểm soát quyền tư pháp là hệ thống cơ chế, thể chế
được thực hiện bởi nhà nước và xã hội để xem xét, giám sát tính hợp pháp, tính
đúng đắn của cơ quan thực hiện quyền tư pháp” [35]. Trên cơ sở khái quát về kiểm
soát quyền tư pháp của Tòa án, tác giả nêu rõ cơ chế, hình thức kiểm sốt và đưa ra
một số kiến nghị tăng cường hiệu quả kiểm soát quyền tư pháp. Tác giả nhấn mạnh
việc quyền tư pháp phải được kiểm soát trực tiếp bằng quyền hành pháp và tăng
cường cơ chế tự kiểm sốt của Tịa án.
Bài viết: “Phân cơng, phối hợp, kiểm sốt giữa các cơ quan trong thực hiện
quyền hành pháp” của TS Hoàng Thị Ngân [34]. Tác giả nêu khái quát các quy
định của pháp luật (gồm quy định của Hiến pháp năm 2013 và các luật có liên
quan) về quyền hành pháp, cơ quan thực hiện quyền hành pháp; nguyên tắc về
mối quan hệ giữa các CQNN trong thực hiện QLNN. Tác giả cũng đã đi sâu phân
tích vấn đề phân cơng, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện
quyền hành pháp; theo các phương diện: Tổ chức thi hành pháp luật, hoạch định
chính sách và QLNN.
Bài viết: “Nguyên tắc kiểm soát việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp” của PGS.TS Vũ Hồng Anh [2]. Tác giả nêu lên các hạn chế, bất cập của quy
định của pháp luật và việc thực hiện quy định của pháp luật về kiểm sốt việc thực

hiện quyền lập pháp, hành pháp. Từ đó, tác giả xác định cần phải cụ thể hóa nguyên
tắc kiểm sốt quyền lực giữa Quốc hội và Chính phủ theo tinh thần của Hiến pháp


16
năm 2013, coi đó là một trong những biện pháp cơ bản để kiểm soát tốt việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp.
Ba là, các cơng trình nghiên cứu về cơ chế kiểm soát QLNN, kiểm soát quyền
hành pháp, quyền tư pháp
Cuốn sách: “Giám sát và cơ chế giám sát thực hiện QLNN ở nước ta hiện
nay” do GS.TSKH Đào Trí Úc và PGS.TS Võ Khánh Vinh đồng chủ biên [61]. Với
những lập luận vững chắc từ cơ sở lý luận và thực tiễn, các nhà khoa học khẳng
định tính tất yếu, tích cực của việc giám sát QLNN và sự hình thành cơ chế giám sát
thực hiện QLNN ở Việt Nam. Điều cần nhấn mạnh là tác giả đã làm rõ cơ chế giám
sát bên trong và cơ chế giám sát bên ngoài với những đặc trưng riêng biệt, làm căn
cứ đánh giá và đưa ra những giải pháp phù hợp với điều kiện Việt Nam. Đối với cơ
quan thực hiện quyền hành pháp và tư pháp, tác giả chưa luận giải cụ thể về cơ chế
kiểm soát QLNN giữa các cơ quan này.
Luận án tiến sĩ luật học của PGS.TS Trương Thị Hồng Hà về “Hoàn thiện cơ
chế pháp lý đảm bảo chức năng giám sát của Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt
Nam” [25]. Trên cơ sở tiếp cận hệ thống, tác giả đã đi từ vấn đề cơ chế, đến cơ chế
pháp lý và cơ chế pháp lý đảm bảo chức năng giám sát của Quốc hội - cơ quan
quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hịa XHCN Việt Nam. Qua đó, tác giả
đề xuất giải pháp hoàn thiện cơ chế pháp lý nêu trên. Những giá trị tham khảo của
cơng trình cần được ghi nhận, đặc biệt là về mặt lý luận.
Luận án tiến sĩ luật học của Nguyễn Chí Dũng “Cơ chế pháp lý giám sát hoạt
động tư pháp ở Việt Nam” [12]. Trong cơng trình này, tác giả tập trung làm rõ một
vấn đề cụ thể. Đó là cơ chế pháp lý trong giám sát hoạt động tư pháp ở Việt Nam,
với giới hạn chủ thể là các CQNN và phạm vi hoạt động của chính BMNN. Vì thế,
vấn đề giám sát, kiểm soát giữa quyền tư pháp và quyền hành pháp thì chưa được

làm rõ.
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ: “Xây dựng cơ chế kiểm soát QLNN ở Việt
Nam hiện nay” do Lưu Văn Quảng làm chủ nhiệm [45]. Đề tài đã được tập thể tác
giả nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận về cơ chế kiểm sốt QLNN nói chung
và đánh giá thực trạng về cơ chế kiểm sốt QLNN Việt Nam, qua đó đặt ra những
vấn đề về kiểm soát QLNN trong thời gian tới. Trong đó, tác giả nhấn mạnh việc


17
xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực hiệu quả - một nội dung trọng tâm của xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam, đổi mới nhận thức về kiểm soát
QLNN, xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực theo hướng bảo đảm và mở rộng các
quyền tự do, dân chủ cho nhân dân. Về các giải pháp cụ thể, nhóm tác giả đã đề
xuất nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật trong
Đảng; đổi mới phương thức Nhân dân thực hiện QLNN thông qua hoạt động bầu
cử; đổi mới tổ chức và hoạt động của từng hệ thống cơ quan chịu trách nhiệm thực
hiện QLNN và tăng cường sự phản biện của Nhân dân thơng qua hoạt động báo chí
và hoạt động khiếu nại, tố cáo.
Cuốn sách: “Phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực với việc sửa đổi
Hiến pháp năm 1992” của GS.TS Trần Ngọc Đường [21]. Là nhà khoa học luôn
giành sự quan tâm đặc biệt tới việc nghiên cứu về tổ chức thực thi QLNN nên tác
giả trình bày rất sâu sắc về các nội dung liên quan. Trong cuốn sách này, tác giả đã
nêu rõ cơ sở lý luận về vấn đề phân công, phối hợp kiểm soát QLNN trong mối
quan hệ với nhu cầu, địi hỏi của việc sửa đổi đạo luật có giá trị pháp lý cao nhất đó
là Hiến pháp. Với những giải pháp khoa học được công bố, cùng với những lập luận
chặt chẽ, sẽ trở thành nguồn tư liệu quan trọng cho nghiên cứu sinh tham khảo khi
triển khai tiếp cận các vấn đề cụ thể của đề tài luận án.
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng, hoàn
thiện cơ chế kiểm soát QLNN đối với việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp,
tư pháp ở nước ta” do GS.TS Trần Ngọc Đường làm chủ nhiệm đề tài [22]. Đây là

một cơng trình nghiên cứu cơng phu của tập thể tác giả, qua đó đã làm rõ cơ sở lý
luận xây dựng và hồn thiện cơ chế kiểm sốt QLNN trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Phân tích về cơ sở thực tiễn xây dựng và
hồn thiện cơ chế kiểm sốt quyền lực này trong quá trình nhận thức và thực tiễn
vận hành trong 30 năm tiến hành cơng cuộc đổi mới, từ đó làm rõ những điểm
mới và những vấn đề đặt ra để kiểm soát QLNN trong Hiến pháp năm 2013,
phương thức và giải pháp để hồn thiện. Đây là cơng trình nghiên cứu gần nhất
với đề tài luận án vì các nội dung nghiên cứu có phân tích đến Hiến pháp năm
2013. Tuy nhiên, cơng trình chưa nêu rõ những vấn đề về cơ sở pháp lý và hoàn
thiện cơ sở pháp lý cho việc kiểm soát quyền hành pháp và quyền tư pháp; chưa đi


18
sâu phân tích về cơ cấu tổ chức và thực hiện các quyền hành pháp và tư pháp. Từ
đó cho thấy tính độc lập của quyền tư pháp và cần phải kiểm sốt quyền tư pháp,
tính năng động, thực thi các quy định pháp lý của quyền hành pháp và kiểm soát
quyền hành pháp.
Luận án tiến sĩ Luật học “Kiểm soát quyền lực tư pháp trong Nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam” của tác giả Nguyễn Quốc Hùng [30]. Tác giả đã trình bày
về những vấn đề lý luận, thực trạng và đưa ra quan điểm, giải pháp bảo đảm kiểm
soát quyền lực tư pháp trong Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Đáng chú ý
là tác giả đã trình bày một cách toàn diện về các quan điểm khoa học liên quan đến
kiểm soát quyền lực tư pháp trong nhà nước pháp quyền, các quy định của Hiến
pháp và pháp luật Việt Nam về kiểm sốt QLNN nói chung, kiểm sốt quyền lực tư
pháp nói riêng, thực tiễn vận hành của mơ hình kiểm sốt quyền lực tư pháp ở Việt
Nam hiện nay.
Cuốn sách: “Cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước của các cơ quan
nhà nước ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Minh Đoan [15]. Nội dung
cuốn sách đã đề cập đến những vấn đề lý luận về cơ chế pháp lý kiểm soát quyền
lực nhà nước của các cơ quan nhà nước ở Việt Nam; thực trạng cơ chế pháp lý kiểm

soát quyền lực nhà nước của các cơ quan nhà nước ở Việt Nam; quan điểm, giải
pháp hoàn thiện cơ chế pháp lý kiểm soát quyền lực nhà nước của các cơ quan nhà
nước ở Việt Nam.
Cuốn sách:“Thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam”
của tác giả Nguyễn Long Hải [27]. Cuốn sách trình bày hệ thống thể chế pháp lý về
kiểm soát QLNN ở nước ta hiện nay với những nội dung về khái niệm, đặc điểm,
vai trị, nội dung, hình thức, các bộ phận hợp thành thể chế pháp lý về kiểm soát
QLNN. Ngoài ra, những kinh nghiệm rút ra từ nghiên cứu vấn đề tương tự trên thế
giới cùng với sự đánh giá khách quan, toàn diện thực trạng thể chế pháp lý kiểm
soát QLNN ở Việt Nam thời gian qua, giúp cho tác giả có căn cứ để đề xuất các giải
pháp có tính khả thi.
Bài viết: “Tiếp tục xây dựng và hồn thiện cơ chế kiểm sốt QLNN ở nước ta”
của GS.TS Trần Ngọc Đường [24]. Tác giả cho rằng, kiểm soát QLNN ở nước ta là
một vấn đề mới. Do đó, xây dựng cơ chế kiểm sốt QLNN, một mặt, bảo đảm


19
phịng, chống sự lạm dụng QLNN có hiệu lực, hiệu quả; đồng thời, bảo đảm tính
năng động, sáng tạo, mềm dẻo cần phải có để tiến hành các cơng việc nhà nước.
Theo đó, cơ chế kiểm sốt QLNN phải là một tổng thể bao gồm: Cơ chế kiểm soát
QLNN bên ngồi do các chủ thể khơng phải là nhà nước thực hiện; cơ chế kiểm
soát QLNN bên trong do các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp kiểm soát lẫn
nhau; và cơ chế kiểm soát QLNN một cách độc lập do Hiến pháp và luật quy định.
Bài viết: “Cơ chế kiểm soát quyền lực ở nước ta hiện nay” của PGS.TS
Nguyễn Xuân Tế [48]. Tác giả nêu lên sự cần thiết của việc thiết lập cơ chế kiểm
soát việc thực thi quyền lực đối với người có chức vụ, quyền hạn; đồng thời, phân
tích về quyền lực, cơ chế kiểm soát quyền lực đối với bộ máy nhà nước. Tác giả
cũng khẳng định cơ quan giám sát quyền lực phải độc lập và nêu ra yêu cầu hoàn
thiện cơ chế kiểm sốt QLNN. Mục đích cơ bản, quan trọng nhất của kiểm soát
QLNN là ngăn ngừa, triệt tiêu sự lạm quyền và mọi biểu hiện vi phạm khác.

Bài viết: “Tuân thủ quy luật khách quan trong xây dựng cơ chế kiểm soát
QLNN ở Việt Nam” của PGS.TS Nguyễn Hữu Đổng [17]. Khẳng định tuân thủ quy
luật khách quan là yêu cầu tất yếu của việc xây dựng cơ chế kiểm sốt QLNN, tác
giả phân tích về quy luật khách quan và cơ chế kiểm soát QLNN và thực tế việc
tuân thủ quy luật khách quan trong cơ chế kiểm soát QLNN ở Việt Nam và một số
kiến nghị về xây dựng thể chế, hoạt động của bộ máy nhà nước.
Bài viết: “Cơ chế pháp lý kiểm soát việc thực hiện QLNN đối với CQĐP:
Thực trạng và giải pháp” của TS Hoàng Minh Hội [28]. Tác giả đi sâu phân tích về
khái niệm, vai trị, cấu trúc của cơ chế pháp lý kiểm soát việc thực hiện QLNN đối
với CQĐP; đánh giá thực trạng cơ chế pháp lý kiểm soát việc thực hiện QLNN của
CQĐP ở Việt Nam hiện nay và đề xuất một số giải pháp góp phần hồn thiện cơ
chế pháp lý kiểm soát việc thực hiện QLNN của CQĐP hiện nay. Trong đó, tác giả
tập trung vào hai nhóm giải pháp là hồn thiện thể chế pháp lý và hoàn thiện các
thiết chế thực hiện hoạt động kiểm soát.
Bài viết: “Kiểm soát QLNN theo Hiến pháp Việt Nam” của PGS.TS Vũ Văn
Phúc [36]. Tác giả trình bày một cách có hệ thống vấn đề kiểm sốt QLNN trong
các bản Hiến pháp Việt Nam (năm 1959, năm 1980, năm 1992 (sửa đổi, bổ sung
năm 2001) và năm 2013). Tác giả nhấn mạnh vấn đề kiểm soát QLNN thể hiện sự


20
phát triển về lý luận và thực tiễn xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta
thông qua các nội dung cụ thể về phân công, phối hợp và kiểm soát thực hiện quyền
lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Thực trạng cơ chế kiểm soát QLNN ở
Việt Nam hiện nay bên cạnh những ưu điểm thì còn nhiều khuyết điểm với những
biểu hiện lộng quyền, lạm quyền, lợi dụng quyền lực.
Ngoài những tài liệu là sách, cơng trình nghiên cứu nêu trên, sự quan tâm tới
cơ chế pháp lý kiểm sốt QLNN cịn được thể hiện qua nhiều bài báo khoa học của
các tác giả là các nhà khoa học có uy tín trong nước. Tiêu biểu là các nhà khoa học:
GS.TS Trần Ngọc Đường, GS.TSKH Đào Trí Úc, GS.TS Hồng Thị Kim Quế,

GS.TS Nguyễn Đăng Dung, PGS.TS Hoàng Thế Liên, PGS.TS Vũ Hồng Anh,
PGS.TS Võ Khánh Vinh, PGS.TS Chu Hồng Thanh… Nhiều nhà khoa học với
cơng trình nghiên cứu của mình thể hiện sự tâm huyết, trách nhiệm cao, đóng góp to
lớn cho việc xây dựng cơ sở lý luận và đề xuất những nhóm giải pháp có ý nghĩa
quan trọng trong thực tiễn xây dựng Nhà nước Việt Nam.
Nội dung của các bài viết được cơng bố trong các tạp chí khoa học đã nghiên
cứu, giải quyết nhiều vấn đề về QLNN, kiểm soát QLNN, cơ chế kiểm soát
QLNN từ Trung ương đến địa phương với nhiều phương diện và cách tiếp cận
khác nhau. Có rất nhiều bài viết phân tích vấn đề kiểm sốt QLNN, bảo đảm thực
hiện QLNN có hiệu quả nhất, những yêu cầu đặt ra đối với vấn đề kiểm soát
QLNN, cơ chế kiểm soát, giám sát thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp, nhằm đáp ứng nhu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền trong điều kiện của
Việt Nam hiện nay…
1.1.2. Tình hình nghiên cứu ngồi nước
Bàn về cơ chế kiểm soát QLNN, ngay từ thời cổ đại, Aristotle đã khẳng định
cần phải có sự phân chia quyền lực bởi đó là yếu tố để quyền lực có thể kiểm sốt
quyền lực. Quan điểm này được trình bày khá rõ trong tác phẩm “The Polictics”
(Nền chính trị). Đồng thuận với quan điểm trên, trong thời cận đại, nhà tư tưởng J.
Locke luận giải sự cần thiết của việc phải phân chia quyền lực tối cao cho các tổ
chức và cá nhân; tránh sự tập trung quyền lực trong tay một cá nhân hoặc tổ chức.
Quan điểm này thể hiện trong tác phẩm“Two treasures of government” (Khảo luận
thứ hai về chính trị). Sự phát triển tư tưởng này được đánh giá ở tầm cao hơn là


×