Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Chuyên đề "Bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn 9 –phần Văn học trung đại "

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.46 KB, 17 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Phần I: ĐẶT VẤN ĐỀ</b>


Trong các nhà trường THCS hiện nay, việc nâng cao chất lượng học sinh mũi
nhọn đang là một vấn đề cấp bách. Với bộ môn Ngữ văn để có một học sinh giỏi
vịng huyện, vịng tỉnh địi hỏi rất nhiều yếu tố. Đầu tiên yêu cầu học sinh phải có
năng khiếu bởi vì Ngữ văn là một mơn học mang đặc trưng của một môn nghệ
thuật, nếu không có năng khiếu thì khó có thể viết hay được. Bên cạnh yếu tố chủ
quan đó thì kinh nghiệm, nhiệt tình của người thầy dạy văn cũng là một nguyên
nhân khá quan trọng để giúp cho học sinh biết cách xử lí các kiến thức vào bài văn
của mình. Chất lượng học sinh giỏi bộ môn Văn của trường THCS Nguyễn Trãi
chúng tơi nói riêng và của huyện Tam Đảo nói chung chưa thực sự ngang tầm với
các trường bạn, huyện bạn. Vì vậy, chúng tơi đã tổ chức một số buổi thảo luận,
<i>thực hiện một số các chuyên đề Hướng dẫn việc bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ</i>
<i>văn để chia sẻ kinh nghiệm, cùng nhau tìm ra những giải pháp phù hợp cho từng</i>
giáo viên.


Văn học trung đại là một mảng văn học có nhiều giá trị xuất sắc. Trong các tác
phẩm được trích học ở chương trình Ngữ văn 9 thì có nhiều tác phẩm nổi tiếng như
<i>"Chuyện người con gái Nam Xương"; "Truyện Kiều"; "Truyện Lục Vân Tiên".</i>
Ngoài ra, chương trình tồn cấp cũng cung cấp cho học sinh một số văn bản trung
đại khác. Trong khuôn khổ bài viết nhỏ này, chúng tôi lựa chọn một số kiến thức
cơ bản của văn bản trung đại để ôn tập cho cho các em học sinh giỏi lớp 9 theo một
số dạng đề cụ thể. Rất mong được sự chia sẻ của bạn bè, đồng nghiệp cho chuyên
<i><b>đề "Bồi dưỡng học sinh giỏi môn Ngữ văn 9 –phần Văn học trung đại " của</b></i>
chúng tôi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<b> Phần II: NỘI DUNG CỤ THỂ</b>
<b>I. Hệ thống kiến thức sử dụng trong chuyên đề: </b>


Từ những kiến thức được cung cấp trong sách giáo khoa về các tác giả, tác
phẩm phần Văn học trung đại vận dụng vào việc giải các dạng đề thi học sinh giỏi


môn Ngữ văn 9.


<b>II. Một số dạng đề cơ bản:</b>


<i><b>1. Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam qua một số tác phẩm Văn học trung đại từ</b></i>


<i><b>thế kỉ XVI -> XIX.</b></i>


<i><b>2. Vẻ đẹp ngôn từ nghệ thuật trong"</b><b>Truyện Kiều" của Nguyễn Du (qua một số</b></i>
<i><b>đoạn trích đã học).</b></i>


<i><b>3. Nghệ thuật miêu tả nhân vật trong"</b><b>Truyện Kiều" .</b></i>
<i><b>4. Tâm và tài của Nguyễn Du .</b></i>


<i><b>5. Nghệ thuật tả cảnh trong"</b><b>Truyện Kiều"</b><b> .</b></i>


<i><b>6. Có ý kiến cho rằng: "</b><b>Nguyễn Du – một trái tim lớn, một nghệ sĩ lớn"</b><b>. Bằng một</b></i>
<i><b>số tác phẩm đã học và đọc thêm của Nguyễn Du em hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.</b></i>
<i><b>7. Chủ nghĩa nhân đạo trong Văn học trung đại.</b></i>


<i><b>8. Giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của"</b><b>Chuyện người con gái Nam Xương"</b><b>.</b></i>


(Nguyễn Dữ).


<i><b>9. Trong "</b><b> Truyện Kiều"</b><b> nhà thơ nguyễn Du có viết:</b></i>
<i><b>Đau đớn thay phận đàn bà</b></i>
<i><b>Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.</b></i>


<i><b>Em hiểu hai câu thơ trên như thế nào? Lấy đẫn chứng trong các tác</b></i>
<i><b>phẩm đã học và đọc thêm để làm sáng tỏ ý kiến trên.</b></i>



<b>III. Hệ thống các phương pháp cơ bản, đặc trưng để giải các bài tập trong</b>
<b>chuyên đề:</b>


- Hướng dẫn học sinh xác định thể loại của đề bài.


- Hướng dẫn học sinh xác định phạm vi kiến thức đề bài yêu cầu.
- Hướng dẫn học sinh lập dàn ý cụ thể cho đề bài.


- Học sinh viết bài theo dàn ý đã lập.
- GV chấm, chữa lỗi cho học sinh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<i><b>1. Đề 1: Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam qua một số tác phẩm văn học trung </b></i>
<i><b>đại từ thế kỉ XVI -> XIX.</b></i>


* Hướng dẫn học sinh:- Xác định thể loại của bài: Nghị luận- chứng minh.
- Xác định phạm vi kiến thức: một số tác phẩm từ thế kỉ
<i>XVI -> XIX như các tác phẩm "Chuyện người con gái Nam Xương"; "Truyện </i>
Kiều"; "Truyện Lục Vân Tiên";...


* Hướng dẫn học sinh lập dàn ý cho đề văn:
<i> a. Mở bài: </i>


Người phụ nữ trong văn học trung đại là đề tài được khá nhiều tác giả quan
tâm. Khai thác đề tài này, nhiều nhà văn, nhà thơ đã ghi tên mình vào những trang
sử vàng của văn học dân tộc. Tiêu biểu cho đề tài này là các tác giả Nguyễn Dữ,
Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu (Văn học 9) và một số tác giả Hồ Xuân Hương,
Bà huyện Thanh Quan, Đoàn Thị Điểm (Văn học 7).


<i>b. Thân bài: </i>



- Người phụ nữ trong văn học trung đại trước hết là những người phụ nữ đẹp
cả về hình thức và nhân phẩm. Nét đẹp của họ là sự tiếp nối cái đẹp của người phụ
nữ Việt Nam trong thời kì đầu dựng nước của dân tộc: Âu Cơ, Mị Nương, cơ
Tấm,...Nhưng ở mỗi tác phẩm, mỗi tác giả lại có cách thể hiện cái đẹp riêng của
từng nhân vật khác nhau nhưng cũng rất hoàn mĩ và đặc sắc:


<i> + "Chuyện người con gái Nam Xương" (Nguyễn Dữ): Hình ảnh nàng Vũ Thị</i>
Thiết "thùy mị, nết na, tư dung tốt đẹp" đã khiến bao người đọc cảm mến. Nàng
ln hết lịng vì mẹ chồng, vì chồng, nuôi con chờ chồng chung thủy, sắt son. Vũ
Nương đã giữ đúng bổn phận của người vợ, người mẹ và người con dâu trong mọi
hoàn cảnh. Nguyễn Dữ đã rất trân trọng nét đẹp trọng tính cách thủy chung ấy của
Vũ Nương. Ông đã dành cho nàng những lời tốt đẹp nhất, cũng để cho nàng được
trở về trong kiệu hoa rực rỡ, lung linh, huyền ảo ở phần cuối truyện.


<i> + "Truyện Kiều" của Nguyễn Du: Thúy Kiều, Thúy Vân là những trang tuyệt </i>
sắc giai nhân có mặt trong tác phẩm của Nguyễn Du. Họ là những người con gái
<i>đẹp "nghiêng nước, nghiêng thành", “chim sa, cá lặn”:</i>


<i>Vân xem trang trọng khác vời</i>
<i>Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<i>Kiều càng sắc sảo mặn mà</i>
<i>So bề tài sắc lại là phần hơn</i>


<i>Làn thu thủy, nét xuân sơn</i>


<i>Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh</i>


Nghệ thuật ước lệ, tượng trưng đã giúp Nguyễn Du thành công trong miêu tả


vẻ đẹp của người phụ nữ. Khơng chỉ đẹp ở nhan sắc, Kiều cịn đẹp ở tài năng:


<i>Thơng minh vốn sẵn tính trời</i>
<i>Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm</i>


Đủ cả tài thi, ca, nhạc, họa rồi Kiều cò đẹp ở tấm lòng hiếu thảo:
<i>Hạt mưa sá nghĩ phận hèn</i>


<i>Liều đem tấc cỏ quyết đền ba xuân</i>


Quyết định bán mình chuộc cha là một hành động báo hiếu cao cả của người
con gái. Và trong những ngày tháng bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, Kiều vẫn ln
xót xa cho cha mẹ:


<i>Xót người tựa cửa hơm mai</i>
<i>Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?</i>


<i>Sân Lai cách mấy nắng mưa</i>
<i>Có khi gốc tử đã vừa người ôm</i>


Ngồi nhan săc, tài năng, tấm lịng hiếu thảo, Kiều còn đẹp ở tấm lòng thủy
chung, son sắt. Đó là tình cảm đối với chàng Kim:


<i>Tưởng người dưới nguyệt chén đồng</i>
<i>Tin sương luống những rày trông mai chờ</i>


<i>Bên trời góc bể bơ vơ</i>


<i>Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.</i>



Nét đẹp của nàng Kiều là nét đẹp của người phụ nữ Việt Nam đã được Nguyễn
Du phát hiện, ngợi ca và trân trọng.


+ "Truyện Lục Vân Tiên" của Nguyễn Đình Chiểu:


Với Nguyễn Đình Chiểu tun ngơn về vẻ đẹp đạo đức được khẳng định rất
rõ ràng:


<i>Trai thời trung hiếu làm đầu</i>
<i>Gái thời đức hạnh làm câu trau mìn.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<i>Làm con đâu dám cãi cha</i>
<i>Ví dầu ngàn dặm đàng xa cũng đành</i>
Đến vẻ đẹp của sự thủy chung, son sắt:


<i>Vân Tiên anh hỡi có hay</i>


<i>Thiếp nguyện một tấm lịng ngay với chàng.</i>
+ "Bánh trôi nước" của Hồ Xuân Hương.


Người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương có nét đẹp mềm mại, tha thiết, yêu kiều
<i>của người con gái: "Thân em vừa trắng lại vừa tròn" lại vừa có cái mạnh mẽ</i>
ngang tàng của người anh hùng thời đại:


<i>Ví đây đổi phận làm trai được</i>
<i>Thì sự anh hùng há bấy nhiêu</i>


<i> (Đề đền Sầm Nghi Đống)</i>


Khơng chỉ có nét đẹp hình thể mà ở họ vẫn luôn hiện lên vẻ đẹp của nhân


<i>phẩm đáng quý: "Mà em vẫn giữ tấm lòng son" Đó là sự thủy chung đức hạnh,</i>
nhân cách đáng khâm phục và trân trọng.


=> Dù được miêu tả trực tiếp hay gián tiếp, miêu tả nội tâm hay bề ngoài hình thức
thì người phụ nữ trong các tác phẩm văn học trung đại cũng hiện lên vẻ đẹp hoàn
mĩ. Họ đã tiếp nối được nét đẹp của người phụ nữ truyền thống và là nhịp cầu nối
với người phụ nữ hiện đại sau này. Họ hiện lên trong các trang viết của các nhà
văn, nhà thơ thật đẹp và sinh động. Họ đã mang đến cho ngươì đọc niềm tự hào về
người phụ nữ Việt Nam.


- Ngoài nét đẹp về hình thể và phẩm chất, người phụ nữ trong văn học trung đại
cịn có cuộc đời được phản ánh khá sinh động và chân thực trong các tác phẩm. Đó
là những số phận éo le, ngang trái, những cuộc đời khổ đau bị chà đạp tàn nhẫn. Số
phận của họ cũng là số phận chung cho những người phụ nữ sống dưới xã hội
phong kiến.


<i>+ "Chuyện người con gái Nam Xương". (Nguyễn Dữ).</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

phụ nữ nết na, xinh đẹp lại phải chịu một kết cục bi thảm. Đó là một bi kịch tố cáo
xã hơi nam quyền đầy bất công đương thời.


<i> + "Bánh trôi nước " của Hồ Xuân Hương. </i>


Người phụ nữ trong thơ Hồ Xuân Hương phải chịu cuộc sống bấp bênh, lận
đận, long đong, phụ thuộc vào người khác, không được làm chủ cuộc đời mình:


<i>...Bảy nổi ba chìm với nước non</i>
<i> Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn...</i>


Tương lai của họ mù mịt, số phận cũng đầy éo le, trắc trở. Người phụ nữ ấy vì


vậy ln khao khát một cuộc sống hạnh phúc, tự chủ, ln muốn tự khẳng định
mình. Họ muốn cởi bỏ những ràng buộc của xã hội phong kiến để sống cho chính
mình song đó mãi chỉ là ước mơ xa vời. Và phải đến nhiều thế kỉ sau người phụ nữ
mới thực sự được sống như mong muốn của mình.


<i> +"Chinh phụ ngâm" –Đặng Trần Cơn+ Đồn Thi Điểm:</i>


<i> Nỗi đau mà người phụ nữ trong "Chinh phụ ngâm" phải chịu đó là cảnh chia li</i>
với người chồng:


<i>Chàng thì đi cõi xa mưa gió</i>
<i>Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn</i>


<i>Đối trông theo đã cách ngăn</i>
<i>Tuôn màu mây biếc trải ngàn núi xanh</i>


Đợi chờ trong mòn mỏi, tuổi thanh xuân qua đi trong lẻ loi, đơn chiếc. Có
người chinh phu đi mãi khơng trở về thì ở q nhà người chinh phụ vẫn mỏi mịn
ngóng đợi. Cả cuộc đời họ chất chứa những nỗi niềm, những sầu bi, ai oán. Chiến
tranh phi nghĩa đã cướp đi của người phụ nữ niềm vui, hạnh phúc nhỏ nhoi. Xã hội
phong kiến đã cột chặt họ vào những ràng buộc của cuộc đời mà họ khơng thể
thốt ra được.


+ Thơ Bà huyện Thanh Quan:


Là người làm thơ không nhiều nhưng những vần thơ của Bà huyện Thanh
Quan đã để lại cho hậu thế một niềm cảm thông sâu sắc. Người phụ nữ trong thơ
Bà huyện Thanh Quan có những tâm sự chất chứa trong lịng mà chỉ có thể biểu lộ
một cách kín đáo, tế nhị trước thiên nhiên mà thôi:



</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

<i> (Qua đèo Ngang)</i>
Một nỗi niềm riêng không thể chia sẻ cùng người khác, một tâm sự khơng
thể thổ lộ với ai, và cũng chẳng có ai để thổ lộ. Người phụ nữ ấy cô đơn, lẻ loi biết
chừng nào, cái tốt đẹp thời vàng son đã qua đi mà người phụ nữ chưa hết bàng
hoàng. Giờ đây, chỉ còn lại trong họ là nỗi niềm tiếc nuối, nhớ thương cảnh cũ
người xưa và mượn những lời thơ để gửi gắm tâm sự, nỗi niềm:


<i>Kẻ chốn Chương Đài, người lữ thứ</i>
<i>Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn?</i>


<i> (Chiều hôm nhớ nhà)</i>
<i>+ "Truyện Kiều" của Nguyễn Du :</i>


<i>Bức tranh hiện thực về người phụ nữ trong xã hội phong kiến ở " Truyện</i>
<i>Kiều" hết sức chân thực và sinh động. Một cô Kiều đẹp nghiêng nước nghiêng</i>
thành với một tài năng nghệ thuật hoàn hảo ấy vậy lại phải chịu một cuộc sống đầy
<i>bi kịch. Nguyễn Du từng có quan niệm "tài sắc tương đố" nên Kiều cũng chính là</i>
minh chứng cho điều đó. Nàng Kiều tài năng và xinh đẹp đã bị xô đẩy vào 15 năm
dâu bể, bị chà đạp nhân phẩm, bị tước mất quyền sống, quyền làm chủ bản thân.
Cuộc đời Kiều là một chuỗi các bi kịch:


Bi kịch tình yêu tan vỡ:


<i> Ôi Kim Lang, hỡi Kim Lang</i>
<i>Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây</i>


Bi kịch nhân phẩm bị chà đạp: Hai lần rơi vào lầu xanh, bị đánh những trận
đòn khủng khiếp để rồi nàng phải thốt lên:


<i>Thân lươn bao quản lấm đầu</i>


<i>Tấm lòng trinh bạch từ sau xin chừa</i>


Bi kịch hạnh phúc gia đình tan vỡ: Kiều nhiều lần bị gả chồng nhưng rồi
cuối cùng nàng vẫn đau khổ, cô đơn. Đau đớn nhất là cảnh:


<i>Giết chồng mà lại lấy chồng</i>
<i>Mặt nào còn sống ở trong cõi đời</i>


Đau đớn về thể xác và tinh thần Kiều đã tự vẫn ở sông Tiền Đường, kết thúc
quãng đời 15 năm lưu lạc.Số phận Kiều cũng là số phận chung của những người
phụ nữ dưới chế độ phong kiến. Nguyễn Du đã thể hiện sự cảm thông, chia sẻ, xót
xa, đau đớn của mình cho Kiều cũng là thể hiện tầm lòng nhân đạo với người phụ
nữ trong xã hội đương thời.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Hình ảnh Kiều Nguyệt Nga chính là hình ảnh người phụ nữ Việt Nam những
năm cuối thế kỉ XIX. Lúc này xã hội phong kiến có những mâu thuẫn nảy sinh nên
cuộc sống của người phụ nữ cũng luân lạc, lao đao. Nàng Kiều Nguyệt Nga đẹp
người, đẹp nết ấy cũng gặp hết trắc trở này đến trắc trở khác: bị cướp dọc đường
đi, không chịu lấy con trai Thái sư nên bị đưa đi cống giặc Ô Qua, nàng đã tự vẫn
nhưng lại dạt vào nhà Bùi Kiệm, bị Bùi Kiệm ép kết hôn, nàng phải trốn đi…Xã
hội phong kiến lũng loạn đã đẩy người phụ nữ vào cảnh lầm than, trôi nổi mà ước
mơ về một cuộc sống hạnh phúc vẫn đang còn ở phía trước.


<i>c. Kết bài:</i>


Với đề tài hình ảnh người phụ nữ, các tác giả văn học trung đại đã góp một
cái nhìn cụ thể về nhiều khía cạnh của cuộc đời người phụ nữ. Họ đã làm hoàn
chỉnh thêm tính cách tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam và phản ánh trung thực
những đau khổ mà người phụ nữ phải gánh chịu. Dù ở thời kì nào, xã hội nào,
người phụ nữ vẫn là người phải chịu nhiều thiệt thịi nhất. Vì vậy, đấu tranh để bảo


vệ người phụ nữ và chia sẻ những đau khổ, mất mát của họ chính là thơng điệp mà
các nhà văn, nhà thơ đã gửi gắm vào tác phẩm của mình. Mỗi học sinh tự rút ra
cho mình một bài học và trách nhiệm phải làm trong tương lai.


* Học sinh cụ thể hóa thành bài văn hồn chỉnh.


<i><b>2. Đề 2: “Vẻ đẹp ngôn từ nghệ thuật trong Truyện Kiều của Nguyễn Du”.</b></i>


* Hướng dẫn học sinh xác định yêu cầu của đề:


- Thể loại: Phân tích – Chứng minh – Bình luận.


- Phạm vi kiến thức: Qua một số trích đoạn Truyện Kiều đã học và
các đoạn thơ khác trong Truyện Kiều.


* Hướng dẫn học sinh lập dàn ý cho đề bài:
<i>a. Mở bài:</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

<i>đại. Riêng về phương diện ngôn từ ông từng được mệnh danh là: “Nghệ sĩ bậc</i>
<i>nhất về ngôn từ trong văn học trung đại Việt Nam”.</i>


<i>b. Thân bài:</i>


* Thành công đầu tiên về nghệ thuật ngơn từ trong thơ Nguyễn Du phải nói
đến cách sử dụng từ rất “đắt”. Đó là cách sử dụng từ hay, tinh tế mà lại vơ cùng
chính xác.


+ Khi miêu tả nhân vật Thúy Vân, Nguyễn Du viết:
<i>Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang</i>



<i>Hoa cười ngọc thốt đoan trang</i>
<i>Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da</i>


<i>Các từ “đầy đặn, nở nang” không đơn thuần miêu tả khuôn mặt tròn trịa,</i>
đầy đặn như mặt trăng đêm rằm của nàng Vân mà đó cịn là sự đầy đặn, mĩ mãn
<i>của số phận, của cuộc đời nàng. Hai chữ “thua, nhường” nghĩa là tạo hóa đã chịu</i>
<i>“thua” vẻ đẹp của Thúy Vân để “nhường” bước cho nàng đi trên con đường bằng</i>
phẳng, khơng hề có chơng gai. Và theo suốt cuộc đời Thúy Vân những dự cảm ấy
của Nguyễn Du hoàn toàn đúng.


+ Khi miêu tả nhân vật Thúy Kiều, Nguyễn Du đã viết:
<i>Thơng minh vốn sẵn tính trời</i>


<i>Từ “thơng minh” cũng là một “nhãn tự” cho toàn câu thơ, nó khơng chỉ</i>
nhằm khắc họa một tính cách mà là cả một nhân cách, một trí tuệ thiên bẩm của
Kiều. Vẻ đẹp sắc sảo, mặn mà của Kiều đã chiếm được cảm tình nơi người đọc
nhưng cái để người đọc cảm phục nàng hơn cả là tài năng hiếm có, là trí tuệ hơn
<i>người. Trong “Truyện Kiều” Nguyễn Du đã nhiều lần viết về tài hoa và trí tuệ theo</i>
<i>kiểu ấy. Chẳng hạn như câu: “Anh minh phát tiết ra ngồi. Nghìn thu bạc mệnh</i>
<i>một đời tài hoa…”. Điều đó cho thấy ánh sáng trí tuệ chính là yếu tố nổi bật trong</i>
tài hoa của Kiều. Nó cũng khẳng định cách dùng từ độc đáo của Nguyễn Du.


Cũng nói về tài năng của Kiều, Nguyễn Du viết:
<i>Khúc đà tay lựa nên chương</i>
<i>Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

<i>nhạc tiêu tao của “thiên bạc mệnh ấy” đã từng khiến biết bao người rung cảm, sầu</i>
<i>theo từng khúc nhạc não nề. Nó đã từng khiến cho Kim Trọng “nao nao lòng</i>
<i>người”, Thúc Sinh phải “tan nát lòng” và cho cả trái tim vơ tình, sắt đá của quan</i>
<i>Tổng đốc trọng thần Hồ Tôn Hiến cũng phải cảm thương mà “rơi châu, nhỏ lệ”.</i>


<i>Cung đàn “bạc mệnh” của Kiều đã trở thành một hình tượng nghệ thuật thể hiện</i>
<i>tâm hồn đa sầu, đa cảm và số phận bi thương của Kiều là vì thế. Cả câu: “Não</i>
<i>nùng cữ gió tuần mưa” thì từ não cũng được dùng với nghĩa như vậy.</i>


<i>Trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” (Trích “Truyện Kiều” của</i>
Nguyễn Du) có câu:


<i>Trước lầu Ngưng Bích khóa xn</i>


<i>Hai chữ “khóa xn” trong câu thơ được sử dụng thật hay và tinh tế. Kiều</i>
đã sống trong một tâm trạng buồn tủi, chua xót đến cực độ nàng đâu cịn cơ hội
<i>khóa kín tuổi xn của mình nữa. Nàng khơng cịn giữ được chữ “trinh” với chàng</i>
<i>Kim thì hai chữ “khóa xn” lại đầy mỉa mai đối với nàng. Thực chất nàng đang bị</i>
Tú Bà giam lỏng để rắp tâm thực hiện một âm mưu mới.


Trong cảnh vị võ cơ đơn, trơ trọi nàng thật tội nghiệp, đáng thương. Điệp
<i>ngữ “buồn trông” ở cuối đoạn thơ càng cho thấy Nguyễn Du khơng hề vơ tình khi</i>
<i>đặt chữ “buồn” đứng trước chữ “trông”. “Buồn” mà “trông”, buồn rồi mới trông là</i>
nỗi buồn thấm sâu tự đáy lịng để rồi trơng vào mọi vật Kiều chỉ thấy thấp thống,
mơ hồ, tàn tạ, héo úa như chính cuộc đời của nàng cùng với nỗi lo sợ hãi hùng về
<i>một tương lai mù mịt. Thật là “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Cách dùng</i>
từ của Nguyễn Du quả thật khéo léo và tinh tế.


+ Khi miêu tả nhân vật Mã Giám Sinh, Nguyễn Du cũng đã sử dụng những
<i>từ rất “đắt”; “đắt” vì nhiều khi chỉ một chữ thơi cũng có thể lột tả được bản chất</i>
bên trong của con người. Miêu tả ngoại hình bên ngoài của Mã Giám Sinh,
Nguyễn Du viết:


<i>Quá niên trạc ngoại tứ tuần</i>
<i>Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao</i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

tỉa tót thì lại trở nên kệch cỡm, giả tạo và có phần trai lơ, đàng điếm. Nguyễn Du
đã chọn từ rất phù hợp với bản chất của nhân vật.


<i>Nhưng đặc sắc nhất vẫn là cách dùng từ trong câu: “Ghế trên ngồi tót sỗ</i>
<i>sàng” – Một cử động vội vàng, khiếm nhã khiến Nguyễn Du phải hạ ngay một từ</i>
<i>“tót” và một từ “sỗ sàng” bên cạnh. Cử chỉ ấy không phù hợp với người đi hỏi vợ</i>
<i>và càng không đúng với phẩm chất văn hóa của một Giám sinh. Chỉ một từ “tót”</i>
mà Nguyễn Du đã giúp người đọc hiểu rõ tính chất vơ học và nhất là tâm lí hợm
<i>hĩnh của một kẻ bn người giàu có như Mã Giám Sinh, từ “tót” cũng đã phủ nhận</i>
vai trị Giám sinh của gã họ Mã.


Như thế cũng chưa đủ mà phải đến cuộc mua bán Kiều thì Mã Giám Sinh
mới bị lột trần hết bản chất thật sự của hắn:


<i> Cò kè bớt một thêm hai</i>


<i>Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm</i>


<i>Chỉ với một từ “cò kè” mà Nguyễn Du đã lột tả bộ mặt gớm ghiếc, giả dối</i>
của Mã Giám Sinh. Hắn hiện ngun hình là một gã bn người lọc lõi, tinh ranh;
<i>hắn đã mặc cả “món hàng” là Kiều từ hơn 1000 lạng xuống đến cịn “ngồi bốn</i>
<i>trăm” bằng hồi lâu cò kè, thêm bớt. Ngòi bút sắc sảo của Nguyễn Du đã lột tả bản</i>
chất của nhân vật thật chính xác mà người đọc có thể dễ dàng nhận ra.


<i>* Ngồi cách sử dụng từ “đắt” thì trong thơ Nguyễn Du ta còn nhận ra vẻ</i>
đẹp của các ngơn từ mang tính chất ước lệ tượng trưng.


Là nhà thơ thiên tài của dân tộc, Nguyễn Du cũng là người chịu ảnh hưởng
rất lớn từ thi pháp cổ điển về khắc họa, xây dựng nhân vật qua ngơn ngữ.Vì thế


<i>ngôn từ ước lệ được sử dụng rất nhiều trong “Truyện Kiều”. Cũng giống như người</i>
xưa, nhà thơ đã lấy vẻ đẹp của thiên nhiên như tuyết, nguyệt, trăng, hoa…làm
chuẩn mực, làm thước đo giá trị, vẻ đẹp của con người.


<i>Khi tả nàng Vân Nguyễn Du đã dùng: “khuôn trăng, nét ngài, hoa cười,</i>
<i>ngọc thốt, mây thua, tuyết nhường” vừa khắc họa được vẻ đẹp đoan trang, phúc</i>
hậu của nàng Vân, vừa như dự báo về cuộc đời bình lặng sau này của nàng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

hóa, Kiều hiện ra trước mắt người đọc là một trang tuyệt thế giai nhân. Nhưng
<i>cũng chính vì vẻ đẹp “hoa ghen, liễu hờn” ấy mà Kiều đã phải chịu 15 năm lưu lạc,</i>
chìm nổi. Những ngôn ngữ trong thi pháp cổ điển được Nguyễn Du vận dụng rất
linh hoạt, sáng tạo, trở thành thứ ngôn ngữ rất riêng, rất Nguyễn Du mà vẫn mang
nét chung của ngôn ngữ dân tộc.


* Những ngôn từ chỉ màu sắc trong Truyện Kiều cũng là những ngôn từ
mang vẻ đẹp độc đáo, đầy ý nghĩa.


<i>“Truyện Kiều” có nhiều từ ngữ chỉ màu sắc với nhiều loại màu khác nhau.</i>
Nguyễn Du dùng từ chỉ màu sắc để tạo thành các hình tượng có nội dung khái
qt, rộng lớn và giàu giá trị thẩm mĩ:


Tả nàng Vân với mái tóc dài, mượt cịn xanh hơn cả mây, làn da trắng mịn
<i>hơn cả tuyết. Ở đây Nguyễn Du dùng màu “mây” thay cho “màu đen” của mái tóc.</i>
Bởi trong Truyện Kiều chưa có màu đen có ý nghĩa đẹp cho nên tóc đen, đẹp được
<i>gọi là tóc “mây”.</i>


<i>Tả nàng Kiều với đôi môi đỏ “thắm” khiến hoa phải ghen tị và mái tóc</i>
<i>“xanh” mượt khiến liễu phải hờn.</i>


Và rồi đến màu xanh của cỏ, màu trắng của hoa lê:


<i>Cỏ non xanh tận chân trời</i>
<i>Cành lê trắng điểm một vài bông hoa</i>


Một màu xanh trải dài mênh mơng, tít tắp. Nổi bật trên cái nền toàn cảnh
màu xanh ấy là sự điểm xuyết của một vài màu trắng hoa lê. Những màu sắc có sự
hài hịa tới mức tuyệt diệu làm cho bức tranh thiên nhiên càng thêm tươi đẹp, khiến
bức tranh xuân càng tươi sáng, tràn đầy sức sống.


<i>Ngoài màu “xanh”, “trắng”, trong thơ Nguyễn Du cịn có màu “vàng”,</i>
<i>“hồng” trong “Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia”. Đó khơng đơn thuần là sắc vàng</i>
của cồn cát nhấp nhô, sắc hồng của từng đám bụi cuốn lên từng dặm xa mênh mơng
<i>mà cịn là cát bụi của cuộc đời. Màu “vàng” cũng là màu tàn tạ, héo úa của “nội cỏ</i>
<i>rầu rầu” mà bề ngoài vẫn xanh xanh kéo dài từ mặt đất đến chân mây xa tít. Đó là</i>
những màu buồn, ảm đạm, thiếu sức sống, màu của sự bế tắc, khơng lối thốt.


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

<i>tận chân trời” – màu cỏ xanh gắn với cảm xúc bao la về viễn cảnh cuộc đời với vẻ</i>
<i>thanh tân, trinh trắng của một vài bông hoa lê đầu mùa; Khi thì “Rầu rầu ngon cỏ</i>
<i>nửa vàng nửa xanh” như cuộc đời dang dở; Khi thì “Một vùng cỏ áy bóng tà” – cỏ</i>
nhuốm ánh vàng của nắng chiều như có cái gì xốn xang, day dứt.


<i>Màu sắc trong Truyện Kiều cịn là màu sắc của tình cảm. Đó là “màu quan</i>
<i>san, màu quan tái, màu khơi trêu”, màu của nỗi nhớ “Bốn phương mây trắng một</i>
<i>màu – Trông vời cố quốc biết đâu là nhà” hay “Trời cao trơng rộng một màu bao</i>
<i>la”. Có thể nói Nguyễn Du không chỉ nắm bắt sắc màu của sự vật mà cịn nắm bắt</i>
và diễn tả sắc thái tình cảm nhuốm đậm lên cảnh vật, không gian làm cho phong
cảnh trở nên sinh động, có hồn…


* Vẻ đẹp ngơn từ trong Truyện Kiều cũng cần phải kể đến cách sử dụng các
<i>hư từ mà vẫn đạt hiệu quả to lớn. Cụ thể là các chữ “bao, bấy” được dùng một</i>
<i>cách độc chiếc trong Truyện Kiều: “Trải bao thỏ lặn ác tà”, “Quản bao tháng đợi</i>


<i>năm chờ”, “Trời liêu non nước bao xa”, “Biết bao duyên nợ thề bồi”, “Ai ai cũng</i>
<i>đội trên đầu xiết bao”. Các chữ “bao” ấy đều dùng chữ “bằng nào” mà cắt nghĩa</i>
<i>được cả: “trải bằng nào ngày đêm”, “đợi chờ đến bằng nào tháng năm”, “xa bằng</i>
<i>nào”, “thề bồi bằng nào”, “đội trên đầu bằng nào”. Tất cả đều có ý hỏi để tỏ ra</i>
<i>nghĩa là “nhiều” khơng phải ít. </i>


<i>Cũng vậy, chữ “bấy” được dùng độc chiếc như: “Khéo vơ dun bấy là mình</i>
<i>với ta”, “Phũ phàng chi “bấy” hóa cơng”, “Trời làm chi cực bấy trời”, “Thân sao</i>
<i>bướm chán ong chường “bấy” thân”, “Hoa sao hoa khéo đọa đầy bấy hoa”. Năm</i>
<i>chữ “bấy” ấy đều dùng “bằng ấy” mà cắt nghĩa được cả: vô duyên “bằng ấy”, phũ</i>
<i>phàng “bằng ấy”, cực “bằng ấy”, chán chường “bằng ấy”, đọa đày “bằng ấy” đều</i>
có ý tỏ lịng thương tiếc hoặc trách móc.


<i>Ngồi ra các từ “bao nhiêu, bấy nhiêu” cũng được sử dụng một cách linh</i>
hoạt trong tác phẩm như:


<i>+ “Sính nghi xin dạy “bao nhiêu” cho tường”, ““Bao nhiêu” của mấy ngày</i>
<i>đường” (“Bao nhiêu” dùng dộc chiếc, không đi đôi với “bấy nhiêu”).</i>


<i>+ “Vẫy vùng trong bấy nhiêu niên”, “Gặp nhau còn chút bấy nhiêu là tình”</i>
<i>(“bấy nhiêu” dùng độc chiếc, khơng đi đơi với “bao nhiêu”)</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

thành ngữ, tục ngữ. Đó là những từ ngữ diễn tả nỗi lòng tưởng nhớ người u, xót
<i>thương cha mẹ, nỗi buồn cho thân phận chìm nổi: dưới nguyệt chén đồng, rày</i>
<i>trông mai chờ, tựa cửa hơm mai, cách mấy nắng mưa, chân trời góc bể, tấm son</i>
<i>gột rửa, hoa trôi man mác, chân mây mặt đất, gió cuốn mặt duềnh, ầm ầm tiếng</i>
<i>sóng…Những từ ngữ này đã làm cho cách sử dụng ngôn từ trở nên gần gũi, dễ</i>
hiểu, mang đậm màu sắc dân tộc.


Bên cạnh đó Nguyễn Du cũng sáng tạo ra một loạt ngơn từ khơng có trong


thực tế, cũng khơng có trong từ điển thơng thường. Đó là những ngơn từ ý tưởng
(Là hình ảnh chỉ nảy sinh trong tâm tưởng, khơng phải là hình ảnh sao chép thực
tại) có cấu tạo riêng, nói lên sự cảm thụ chủ quan của tác giả:


<i>+ Nói đến nước mắt: giọt ngọc, giọt châu, giọt tương, giọt hồng, giọt tủi,</i>
<i>giọt riêng, giọt lệ…</i>


<i>+ Nói đến giấc ngủ: giấc xuân, giấc mai, giấc hồng, giấc hịe, giấc tiên…</i>
<i>+ Nói đến mái tóc: tóc mây, tóc sương, tóc sầu…</i>


<i>+ Nói đến đường xa: dặm hồng, dặm xanh, dặm băng, dặm khách, dặm phần…</i>
<i>+ Nói tới chén rượu: chén xuân, chén quỳnh, chén khuyên, chén đông, chén mơi…</i>
<i>+ Nói đến cửa sổ: song sa, song mai, song hồ, song mây, song trăng, song đào…</i>
<i>+ Nói tới bóng trăng: bóng nga, bóng nguyệt…</i>


<i>+ Nói tới tấm lịng: tấm riêng, tấm yêu, tấm son, tấm thành, tấc cỏ, tấc</i>
<i>riêng, tấc son, tấc lịng…</i>


<i>+ Nói tới gió: gió mưa, gió trăng, gió trúc mưa mai, gió dựa hoa kề, gió tủi</i>
<i>mưa sầu…</i>


Những ngơn từ ý tưởng này cũng là phương diện cơ bản của ngôn từ nghệ
thuật Truyện Kiều. Nguyễn Du đã phá vỡ cách tạo từ thông thường để tạo từ mới
gây hiệu quả lạ hóa. Nguyễn Du cũng đã phá vỡ nhiều cấu trúc cố định để tạo
<i>thành những kết cấu rất mới: “ăn gió nằm mưa”, “bướm chán ong chường”,</i>
<i>“bướm lả ong lơi”, “cười phấn cột son”, “dày gió dạn sương”, “gìn vàng giữ</i>
<i>ngọc”, “gió thảm mưa sầu”, “ngày gió đêm trăng”, “nắng giữ mưa gìn”, “liễu</i>
<i>chán hoa chê”, “tô lục chuốt hồng”, “tiếc lục tham hồng”, “hồn rụng phách</i>
<i>rời”…Các cấu tạo đặc biệt này diễn đạt một trạng thái sự vật có ý nghĩa phổ quát,</i>
<i>diễn ra nhiều lần và chỉ hiểu được trong ngữ cảnh “Truyện Kiều”.</i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

Ngôn từ Tiếng Việt phong phú và đa dạng nhưng phải đến Truyện Kiều thì
mới thực sự phát huy được vẻ đẹp theo đúng ý nghĩa của nó. Cách sử dụng từ ngữ
của Nguyễn Du linh hoạt và sinh động, chính xác và tinh tế, nó góp phần vào thành
cơng của tác phẩm. Vì vậy có thể khẳng định: Nguyễn Du là một nghệ sĩ lớn về
ngôn từ và Truyện Kiều là đỉnh cao về nghệ thuật ngôn từ Tiếng Việt.


* Học sinh cụ thể hóa dàn bài thành bài văn cụ thể: Trong quá trình viết bài
văn có thể sử dụng các phép so sánh, liên hệ thực tế hoặc kết hợp nhận xét bình
luận để bài văn sinh động, hấp dẫn.


<i><b>3. Đề 3: Giá trị nội dung và nghệ thuật của "</b><b>Chuyện người con gái Nam</b></i>
<i><b>Xương"( Nguyễn Dữ).</b></i>


* Hướng dẫn học sinh xác định yêu cầu của đề:


- Thể loại: Phân tích giá trị nội dung và nghệ thuật của một tác phẩm.
- Phạm vi kiến thức: Tác phẩm" Chuyện người con gái Nam Xương".


* Hướng dẫn học sinh lập dàn ý cho đề trên:
<i>a. Mở bài:</i>


- Giới thiệu chung về tác giả Nguyễn Dữ.


- Khái quát chung về giá trị của tác phẩm" Chuyện người con gái Nam Xương" là
tác phẩm có giá trị nội dung sâu sắc và giá trị nghệ thuật to lớn.


<i>b. Thân bài:</i>


- Giá trị nội dung:



+ Giá trị hiện thực: " Chuyện người con gái Nam Xương" tái hiện chân thực số
phận đau khổ, bất hạnh, oan trái của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến( Nhân
vật Vũ Nương người con gái đẹp người, đẹp nết lấy phải người chồng ít học lại có
tính đa nghi, ghen tng mù qng dẫn đến bi kịch nàng phải nhảy xuống sơng
Hồng Giang tự vẫn); Là bức tranh hiện thực về xã hội phong kiến đầy bất công đã
cướp đi những ước mơ, khát vọng về hạnh phúc lứa đơi, hạnh phúc gia đình của
người phụ nữ ( Hình ảnh nhân vật Trương Sinh chính là đại diện cho chế độ nam
quyền đầy bất công trong xã hội phong kiến đương thời).


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

- Giá trị nghệ thuật:


+ Cách kể chuyện hấp dẫn với tình huống truyện bất ngờ, những chi tiết thắt nút,
mở nút câu chuyện tự nhiên, bất ngờ.


+ Sử dung nhiều câu văn biền ngẫu hài hòa, nhịp nhàng, uyển chuyển góp phần
thể hiện tâm trạng nhân vật.


+ Sử dụng các yếu tố kì ảo làm câu chuyện hấp dẫn, sinh động góp phần hồn
chỉnh tính cách nhân vật và tạo cho truyện kết thúc có hậu.


<i>c. Kết bài: </i>


" Chuyện người con gái Nam Xương" là câu chuyện hay và có ý nghĩa, truyện có
giá trị nội dung sâu sắc và giá trị nghệ thuật to lớn. Đây là tác phẩm có giá trị lớn
trong nền văn học nước nhà.


* Học sinh cụ thể hóa dàn bài thành bài văn hoàn chỉnh.


Sau mỗi bài viết của học sinh giáo viên chấm, chỉ ra các lỗi cụ thể và yêu


cầu các em sửa chữa đúng với các yêu cầu của đề bài đặt ra.


Trên đây là gợi ý cụ thể cho một số đề bài trong các đề thi học sinh giỏi
thuộc phần Văn học trung đại mà chuyên đề đưa ra. Có thể sử dụng các phương
pháp đã đề cập ở trên để triển khai các dạng đề đã đề cập trong chuyên đề.


Với việc bồi dưỡng học sinh giỏi ngồi kiến thức thì kinh nghiệm của người
giáo viên cũng vô cùng quan trọng. Người giáo viên phải có cách dẫn dắt phù hợp
để học sinh tiếp cận với từng kiểu bài cụ thể. Như vậy thì việc bồi dưỡng học sinh
giỏi mới thực sự hiệu quả.


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

<b>PHẦN III: KẾT LUẬN</b>


Phần Văn học trung đại có nội dung kiến thức rộng lớn. Trong khuôn khổ
bài viết nhỏ này chúng tôi chỉ nêu ra một khía cạnh nhỏ của vấn đề. Những hướng
giải bài tập trong bài viết cũng xuất phát từ ý kiến chủ quan có thể chưa hồn tồn
đầy đủ. Rất mong được sự bổ sung, góp ý của bạn bè, đồng nghiệp để chuyên đề
được mở rộng, nâng cao đến tồn diện. Từ đó giúp cho cơng tác bồi dưỡng học
sinh giỏi đạt được hiệu quả cao nhất.


<i><b>Xin chân thành cảm ơn! </b></i>


<i>Tam Quan, ngy 06 tháng 01 năm 2014</i>
<b> Ngi vit:</b>


</div>

<!--links-->

×