Tải bản đầy đủ (.docx) (79 trang)

Đổi mới tư duy lý luận của đảng về mô hình kinh tế thị trường ở việt nam hiện nay​

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (286.62 KB, 79 trang )

ĐẠI

HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------------

NGUYỄN THỊ LAN HƯƠNG

ĐỔI MỚI TƯ DUY LÝ LUẬN CỦA ĐẢNG
VỀ MÔ HÌNH KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ơ
VIỆT NAM HIỆN NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH TRIẾT
HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2015-X

Hà Nội – 2019


ĐẠI

HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------------

NGUYỄN THỊ LAN HƯƠNG

ĐỔI MỚI TƯ DUY LÝ LUẬN CỦA ĐẢNG
VỀ MÔ HÌNH KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ơ
VIỆT NAM HIỆN NAY



KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH TRIẾT
HỌC Hệ đào tạo: Chính quy Khóa học: QH-2015-X

Người hướng dẫn: TS. Lương Thùy Liên

Hà Nội – 2019


LỜI CẢM ƠN
Hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này, trước hết em xin chân thành cảm
ơn sự dạy dỗ nhiệt tình của các thầy cơ giáo trong khoa Triết học, trường Đại
học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội trong suốt thời
gian em học tập tại khoa, tại trường.
Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn TS. Lương Thùy Liên đã trực tiếp
hướng dẫn tận tình và chu đáo trong quá trình em thực hiện và hoàn thiện
khóa luận tốt nghiệp này.
Mặc dù đã rất cố gắng, nhưng chắc chắn khóa luận sẽ không tránh khỏi
những hạn chế và thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được sự đóng góp ý
kiến của các thầy, các cơ, cùng tồn thể các bạn để khóa ḷn này được hồn
thiện hơn.

Hà Nợi, ngày 26 tháng 4 năm 2019

Nguyễn Thị Lan Hương


MỤC LỤC
MƠ ĐẦU............................................................................................................................................... 1
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TƯ DUY LÝ

LUẬN VÀ ĐỔI MỚI TƯ DUY LÝ LUẬN VỀ MÔ HÌNH KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG.............................................................................................................................................. 8
1.1. Một số vấn đề lý luận chung về tư duy lý luận và đổi mới tư duy lý luận .. 8

1.1.1. Tư duy lý luận......................................................................................................................... 8
1.1.2. Đổi mới tư duy lý ḷn.................................................................................................... 21
1.2. Tính tất ́u của đởi mới tư duy lý luận của Đảng ta về mô hình xây
dựng kinh tế thị trường ở Việt Nam................................................................................. 27
1.2.1. Điều kiện khách quan...................................................................................................... 27
1.2.2. Nhân tố chủ quan............................................................................................................... 31
Tiểu kết chương 1............................................................................................................................ 36
Chương 2. QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI TƯ DUY LÝ LUẬN VÀ MỘT SỐ
GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐỂ TIẾP TỤC ĐỔI MỚI TƯ DUY LÝ LUẬN CỦA

ĐẢNG VỀ MÔ HÌNH KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ơ VIỆT NAM.................38
2.1. Quá trình đổi mới tư duy lý luận về mô hình kinh tế thị trường của
Đảng từ 1986 đến nay................................................................................................................. 38
2.1.1. Đổi mới tư duy lý luận về kết cấu, thành phần kinh tế................................... 40
2.1.2. Đổi mới về cơ chế quản lý kinh tế............................................................................. 50
2.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục đổi mới tư duy lý luận của
Đảng về mô hình kinh tế thị trường ở Việt Nam...................................................... 54
Tiểu kết chương 2............................................................................................................................ 67
KẾT LUẬN....................................................................................................................................... 69
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................................... 72


MƠ ĐẦU
1.

Lý do lựa chọn đề tài


Mơ hình Chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên Xô (cũ) sụp đổ đã đem
đến những tổn thất vô cùng to lớn cho các phong trào cách mạng Xã hội chủ
nghĩa trên thế giới. Điều này đã khiến cho sự phát triển của hình thái kinh tế
xã hội Cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là Chủ nghĩa xã hội trở nên thụt
lùi so với trước kia.
Chiến tranh lạnh kết thúc, Mỹ và Tây Âu chiến thắng. Tuy nhiên, họ
cũng phải chịu những tổn thất vô cùng nặng nề do chiến tranh gây ra. Chính
vì vậy, các nước Mỹ và Tây Âu càng phải gấp rút phát triển kinh tế và trang bị
sức mạnh qn sự cho mình ngày càng hồn bị hơn. Sự phát triển của cuộc
cách mạng khoa học công nghệ đã và đang thúc đẩy các nước Tư bản chủ
nghĩa phát triển mạnh mẽ trên các lĩnh vực kinh tế, quân sự... Các nước này
đang tiến hành đẩy mạnh âm mưu diễn biến hòa bình trên tất cả các lĩnh vực
đặc biệt là kinh tế, chính trị.
Chính tình hình đó đã làm nảy sinh tư tưởng hoang mang ở một số nhà
lãnh đạo, nhà nghiên cứu. Họ bắt đầu nghi ngờ về tính khả thi của Chủ nghĩa
xã hội, họ đòi xem xét lại con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội, đồng thời ca
tụng Chủ nghĩa tư bản. Nhiều khuynh hướng cải lương đã xuất hiện và có
không ít người cho rằng việc phát triển theo Tư bản chủ nghĩa sẽ đem lại một
tương lai xán lạn hơn đối với những nước Chủ nghĩa xã hội còn lại, cũng như
các nước thuộc thế giới thứ ba. Điều này đã đặt ra những yêu cầu và thách
thức lớn trong sự kiên định chọn lựa mục tiêu và định hướng xây dựng Chủ
nghĩa xã hội.
Việt Nam đã áp dụng mơ hình xây dựng Chủ nghĩa xã hội của Liên Xô
(cũ) trong những năm 1960, 1970 và nửa đầu những năm 1980 của thế kỷ XX
một cách thụ động, máy móc. Đường lối đó đã gây ra cuộc khủng hoảng trên
nhiều lĩnh vực của đời sống, đặc biệt là kinh tế. Biểu hiện cụ thể của sự khủng
1



hoảng này được thể hiện rõ qua các vấn đề xã hội như sau: kinh tế tụt hậu,
kém phát triển; sản phẩm tiêu dùng nghèo nàn, không đa dạng; khoa học- kĩ
thuật và công nghệ lạc hậu, quan liêu trong tổ chức hành chính... Những thực
tiễn trên đã dần dần đánh mất và làm giảm dần lòng tin vào chế độ Xã hội chủ
nghĩa của một bộ phận quần chúng nhân dân.
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên. Trong đó phải kể đến
một nguyên nhân quan trọng là do xuất phát từ tư duy, nhận thức chưa đúng,
chưa đầy đủ về những khó khăn, phức tạp trên con đường phát triển lên Chủ
nghĩa xã hội ở nước ta. Do đó, thực tiễn yêu cầu phải có tư duy mới, phải đổi
mới tư duy lý luận về Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội.
Đây là vấn đề cấp bách trong sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời là vấn đề có ý
nghĩa chiến lược đối với sự tồn tại và phát triển của mơ hình Xã hội chủ nghĩa
hiện thực ở nước ta.
Do những nguyên nhân nêu trên, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI
(1986) đã đánh dấu bước ngoặt trong đổi mới tư duy lý luận của Đảng về Chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Từ đó cho đến
nay, nội dung của vấn đề này ngày càng được Đảng ta làm rõ hơn. Trong văn
kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đã nhấn mạnh: “Đối với nước
ta, đổi mới đang là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp cách mạng, là vấn đề có ý
nghĩa sống còn...Vì vậy, phải đổi mới- trước hết là đổi mới tư duy" [12,132133]. Đại hội này đã đánh dấu bước ngoặt trong q trình đởi mới tư duy của
Đảng về con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội đặc biệt trong vấn đề đởi mới tư
duy lý ḷn về mơ hình kinh tế thị trường ở nước ta.
Đổi mới tư duy lý luận của Đảng là một trong những yêu cầu cấp bách
đối với sự lãnh đạo Đảng, đồng thời đây cũng là một vấn đề cơ bản, lâu dài,
có ý nghĩa chiến lược đối với cách mạng nước ta. Chính sự coi trọng việc đổi
mới tư duy của Đảng đã thúc đẩy sự hoạt động của các nhà nghiên cứu, của
đội ngũ cơ quan nghiên cứu lý luận cách mạng Đảng. Để nghiên cứu về quá
2



trình đởi mới tư duy lý ḷn của Đảng về mơ hình phát triển kinh tế thị trường
ở Việt Nam. Thông qua đó, thấy được ý nghĩa của tư duy lý luận trong nhận
thức xã hội, trong hoạt động thực tiễn và đặc biệt đưa ra được những giải pháp
cơ bản để tiếp tục đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta về mơ hình phát triển
kinh tế thị trường ở Việt Nam trong thời gian tới, nhằm góp phần đẩy mạnh và
nâng cao hiệu quả việc xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ văn minh...
Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu về vấn đề này nhưng tôi nhận thấy vẫn
cần có thêm những nghiên cứu một cách toàn diện và cấp thiết hơn. Do đó, tôi
chọn đề tài “Đổi mới tư duy ly luận của Đảng ta về mô hình phát triển kinh
tế thị trường ở Việt Nam” làm đề tài khóa luận của mình.
2.

Tình hình nghiên cứu đề tài.

Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12/ 1986) với tinh thần nhìn
thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật. Đảng ta đã tiến hành đởi mới tồn diện
trên tất cả các lĩnh vực. Đã có nhiều tác giả và tập thể tác giả, nhiều cơng trình
nghiên cứu và nhiều bài viết liên quan đến vấn đề này. Có thể điểm qua một
số cơng trình nghiên cứu sau:
Lại Văn Tồn: “Đởi mới tư duy lý ḷn- tư duy lý ḷn trong sự nghiệp
đởi mới”, tạp chí triết học, số 1-1988; tác giả đề cập vấn đề đổi mới tư duy lý
luận đã được đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đề ra, cũng như tính cấp thiết
của vấn đề đổi mới được thông qua, để thấy được vai trò của tư duy lý luận
trong sự nghiệp đổi mới đất nước- đó là một nhân tố không nhỏ trong việc
định hướng các sách lược, chiến lược phát triển đất nước.
Trong cuốn sách: “Đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta” của TS.
Nguyễn Đức Tài, Nxb Chính trị quốc gia, 2005: Tác giả đã khảo sát q trình
đởi mới tư duy lý luận của Đảng ta về Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
Chủ nghĩa xã hội. Trên cơ sở nghiên cứu sự đổi mới tư duy lý luận của Đảng

ta trong các lĩnh vực cụ thể như kinh tế, văn hoá... Từ đó, chứng minh việc
3


đổi mới tư duy lý luận là tất yếu để phát triển đất nước trong bối cảnh mới của
thực tiễn.
Trong cuốn sách: “Q trình đởi mới tư duy lý ḷn của Đảng ta từ
1986 đến nay” do tập thể các tác giả Tơ Huy Rứa, Hồng Chí Bảo, Trần Khắc
Việt, Lê Ngọc Tòng (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, 2006: Đây là cuốn
sách tập hợp sự đóng góp của rất nhiều nhà nghiên cứu, là một cơng trình
nghiên cứu có uy tín với sự tổng kết những hạn chế và thành tựu trong công
cuộc đổi mới tư duy lý luận của Đảng ta về Chủ nghĩa xã hội, con đường đi
lên Chủ nghĩa xã hội từ sau Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ VI. Đờng thời
chỉ ra những hạn chế trong nhận thức, tư duy về Chủ nghĩa xã hội trước đổi
mới. Các tác giả đi vào khảo sát vấn đề đổi mới tư duy lý luận trong từng lĩnh
vực cụ thể. Để từ đó, rút ra những bài học kinh nghiệm và yêu cầu tiếp tục đởi
mới.
Qua các cơng trình nghiên cứu, các tác giả đều cho rằng cách tư duy
máy móc, siêu hình, chủ quan, duy ý chí v.v... là nguyên nhân cản trở quá
trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Do vậy, việc đòi hỏi phải đổi mới
tư duy lý luận là tất yếu. Đồng thời các bài viết, các công trình nghiên cứu
cũng nhận định q trình đởi mới phải dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh, cần bổ sung và phát triển những thành tựu lý luận
đã đạt được để đổi mới phương pháp tư duy, khắc phục lối tư duy kinh
nghiệm... Các tác giả đã chỉ ra trong q trình đởi mới cần phải bám sát vào
thực tiễn, tổng kết thực tiễn để phát triển lý luận, đây là yêu cầu mang tính
chiến lược mà thực tiễn đặt ra cho hoạt động lý luận của Đảng. Như vậy, đổi
mới tư duy lý luận đã nhận được nhiều sự quan tâm trong việc nhận thức, tởng
kết, khái qt thực tiễn để từ đó tìm ra mơ hình kinh tế thị trường định hướng
Xã hội chủ nghĩa. Vì thế, vấn đề đởi mới tư duy lý ḷn của Đảng về mơ hình

kinh tế thị trường là phù hợp với yêu cầu, đòi hỏi phát triển của đất nước, là
vấn đề mang tính cấp thiết hiện nay.
4


Có thể nói, khi nghiên cứu về vấn đề đổi mới tư duy kinh tế của Đảng
qua việc khảo sát các văn kiện của Đảng, mỗi tác giả sẽ có những phương
pháp, cách thức tiếp cận vấn đề khác nhau. Tuy nhiên, các cơng trình nghiên
cứu đó vẫn chỉ dừng lại ở cấp độ khái quát vấn đề một cách chung nhất, chưa
có những nghiên cứu cụ thể đối với từng vấn đề, đặc biệt trong vấn đề đổi mới
tư duy kinh tế của Đảng còn ít được đề cập đến. Trong khi đó, đời sống kinh
tế- xã hội ở các nước nói chung và ở Việt Nam nói rieng đang không ngừng
vận động, biến đổi và phát triển. Chính vì vậy mà đã làm xuất hiện rất nhiều
vấn đề mới cần nghiên cứu. Từ những phân tích nêu trên, khóa luận muốn tiếp
cận và làm rõ hơn quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng về mô hình kinh
tế thị trường, góp phần làm phong phú hơn kho tàng lý luận và thực tiễn về
kinh tế trong giai đoạn hiện nay
3.
-

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở hệ thống hóa những nội dung liên

quan đến tư duy lý luận và đổi mới tư duy lý luận, khóa luận làm rõ quá trình
đởi mới tư duy lý ḷn của Đảng về mơ hình phát triển kinh tế thị trường ở
Việt Nam nhằm tìm ra tính quy luật của quá trình này. Từ đó đề xuất một số
giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục thúc đẩy hơn nữa sự nghiệp đổi mới tư duy lý
ḷn về mơ hình phát triển kinh tế thị trường của nước ta hiện nay.
-


Nhiệm vụ nghiên cứu:

Để đạt được mục đích như đã nêu ở trên, khóa luận có những nhiệm vụ
cụ thể như sau:
Thứ nhất làm rõ các vấn đề lý luận chung về: lý luận, tư duy lý luận và
đổi mới tư duy lý luận; tính tất yếu của việc đổi mới tư duy lý luận của Đảng
về mơ hình kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Thứ hai, làm rõ q trình đởi mới tư duy lý ḷn của Đảng về mơ hình
kinh tế thị trường ở Việt Nam thông qua các văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc
và Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ từ năm 1986 đến nay.
5


Từ đó đề ra một số giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục đổi mới tư duy lý luận của
Đảng về mơ hình kinh tế thị trường ở Việt Nam.
4.
-

Đới tượng và phạm vi nghiên cứu.

Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu q trình đởi mới tư duy lý ḷn của

Đảng về mơ hình phát triển kinh tế thị trường ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
-

Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu các quan điểm đổi mới thông qua

các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ về đổi mới và định hướng con đường đi lên Chủ
nghĩa xã hội ở nước ta.

5.
-

Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
Cơ sở lý luận: Cơ sở lý luận của đề tài là chủ nghĩa duy vật biện

chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, nhất là các nguyên lý của chủ nghĩa duy
vật biện chứng về nhận thức và tư duy.
-

Phương pháp nghiên cứu: Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương

pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Phương pháp chủ yếu là phân
tích- tổng hợp, thống nhất lịch sử- logic, khái quát hoá, trừu tượng hoá, so
sánh, thống kê... Các phương pháp được sử dụng đan xen để làm rõ mục đích
và nhiệm vụ nghiên cứu.
6.

Đóng góp của đề tài.

Đề tài đã hệ thống hoá và phân tích ở góc độ triết học vấn đề đởi mới tư
duy lý ḷn về mơ hình phát triển kinh tế thị trường của Đảng, thông qua các
văn kiện Đại hội Đảng và Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ.
Từ đó đề tài kiến nghị một số phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm tiếp
tục thực hiện đổi mới tư duy lý luận về mơ hình phát triển kinh tế thị trường ở
Việt Nam trong giai đoạn sắp tới.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
-

Ý nghĩa lý luận: Khóa luận đã góp phần làm rõ vai trò của lý luận đối


với việc chỉ đạo hoạt động thực tiễn trong quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã
hội.
6


-

Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của khóa luận có thể làm tài

liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu, giảng dạy, học tập môn học “Những
nguyên lý của chủ nghĩa Mác- Lênin”, “Đường lối cách mạng của Đảng Cộng
sản Việt Nam” cho sinh viên đại học, cao đẳng; hoặc môn học “giáo dục lý
luận chính trị” ở các trường trung cấp, dạy nghề.
8.

Kết cấu của đề tài.

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung chính của đề
tài gồm 2 chương, 4 tiết.

7


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TƯ DUY LÝ LUẬN VÀ ĐỔI
MỚI TƯ DUY LÝ LUẬN VỀ MƠ HÌNH KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1. Một sớ vấn đề lý luận chung về tư duy lý luận và đổi mới tư
duy lý luận.
1.1.1. Tư duy lý luận.

1.1.1.1. Khái niệm của tư duy lý luận
Tư duy được nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau và cũng là đối
tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau như: triết học, tâm lý
học, lịch sử, ngôn ngữ học, logic học...Ví dụ như: triết học nghiên cứu tư duy
trong quá trình nhận thức tri thức và hiện thực, trong mối liên hệ giữa chủ thể
với khách thể; tâm lý học nghiên cứu tư duy trong các mối liên hệ với hành vi
của con người, sự tác động của hệ thần kinh cấp cao não người với môi
trường xung quanh; ngôn ngữ học nghiên cứu tư duy trong mối liên hệ với các
tín hiệu ngôn ngữ; trong khi đó logic học nghiên cứu tư duy dưới góc độ tính
chân thực hay tính giả đối của tư tưởng, nghiên cứu hình thức hay tính quy
luật của tư duy…Mỗi ngành khoa học đều muốn khám phá tư duy dưới những
góc độ riêng và thông qua những khám phá đó có thể chứng minh được vai trò
to lớn của tư duy trong hoạt động thực tiễn cũng như trong nhận thức của con
người.
Vậy tư duy là gì? Có nhiều cách định nghĩa tư duy khác nhau. Trong
cuốn giáo trình Lơgic học đại cương tư duy được định nghĩa như sau: “Tư duy
là sự phản ánh gián tiếp và khái quát hiện thực khách quan vào đầu óc con
người, được thực hiện bởi con người xã hội trong quá trình hoạt động thực
tiễn cải biến thế giới xung quanh” [40,9]. Với tư cách là sự phản ánh gián tiếp
và khái quát hiện thực khách quan vào đầu óc con người nên tư duy đóng vai
trò vô cùng quan trọng không chỉ trong nhận thức mà ngay cả trong hoạt động
thực tiễn của con người. Nhờ có tư duy mà con người có thể hoạt động theo
những mơ hình đã dự kiến, hoạch định sẵn. Nếu khơng có tư duy
8


thì con người khơng thể hoạt động được. Cũng nhờ có tư duy không ngừng
được đổi mới và biến đổi nên con người có thể cải biến các hoạt động nhận
thức sao cho phù hợp với hoạt động trong thực tiễn. Tư duy góp phần tạo ra
trong đời sống con người hình ảnh của tồn bộ thế giới với những chuẩn mực

sống và các hệ giá trị phong phú, phức tạp. Cũng chính tư duy góp phần làm
xóa bỏ những chuẩn mực cũ, hình thành nên những chuẩn mực mới cao hơn,
phù hợp và hợp lý với nhu cầu xã hội hơn. Tư duy có khả năng phản ánh hiện
thực khách quan nhưng nếu không sử dụng đúng cách tư duy có thể cản trở sự
vận động của đời sống khách quan cũng như trong hoạt động kinh tế của con
người.
Trong hoạt động sống của mình con người chịu tác động của môi
trường tự nhiên, đồng thời chính con người tại tác động trở lại môi trường tự
nhiên ấy nhằm cải tạo thiên nhiên và phục vụ cho đời sống của chính bản thân
mình. Trong mối quan hệ ấy, con người với tư cách là chủ thể đã tác động vào
đối tượng khách quan bằng phương thức riêng biệt đặc trưng riêng cho lồi
của mình, đó chính là q trình tư duy.
Thực chất, tư duy chính là chức năng riêng có, riêng biệt của não
người. Đó chính là quá trình y thức con người tiếp cận và nắm bắt hiện
thực. Tư duy là hình thức cao trong sự phản ánh hiện thực khách quan, trong
đó con người qua các tài liệu thu được từ nhận thức cảm tính, thực hiện thông
qua các thao tác tư duy (phân tích, tổng hợp, so sánh, phán đoán, suy lý...)
phân tích các dữ kiện, tài liệu để đưa kết luận cuối cùng trong chuỗi phản ánh.
Mỗi kết luận được đưa ra thường đem lại những tri thức mới. Nội dung của tư
duy hình thành trên cơ sở các tài liệu của cảm giác, tri giác, biểu tượng về các
sự vật và hiện tượng của thế giới bên ngoài tác động vào chủ thể tư duy.
Nhưng q trình tư duy khơng phải là sự tởng hợp đơn giản các cảm giác và
tri giác ấy. Tư duy giúp cho chủ thể nhận thức phản ánh được những thuộc
tính và mối liên hệ cơ bản không chỉ có ở những sự vật riêng lẻ, mà còn ở một
nhóm sự vật. Tư duy có khả năng nắm bắt, phát hiện được bản chất của sự vật
9


ngày càng sâu sắc hơn. Tư duy con người có nhiều đặc trưng, trong đó phải kể
đến những đặc trưng cơ bản sau: tính gián tiếp, khái quát hoá, trừu tượng hoá,

tính tích cực và sáng tạo.
Thế giới khách quan là vô cùng phong phú và đa dạng mà tư duy là kết
quả của sự tác động bởi yếu tố khách quan và chủ quan. Vì vậy, quá trình tư
duy là một q trình phức tạp, nó khơng tiến hành phản ánh một lần mà phải
thực hiện cả một chuỗi phản ánh để đi đến nhận thức sâu sắc về đối tượng.
Khả năng “tư duy của con người vừa tối cao vừa không tối cao, và khả năng
nhận thức của con người vừa vô hạn vừa có hạn. Tối cao và vô hạn là xét theo
bản tính, sứ mệnh, khả năng và mục đích lịch sử cuối cùng; không tối cao và
có hạn là xét theo sự thực hiện riêng biệt và thực tế trong mỗi thời điểm nhất
định” [27, 127]. Do đó, tư duy của con người với sản phẩm của nó, không
phải tất cả đều là chân lý, và không thể là một “chân lý vĩnh cửu”. Trên thực
tế, vì tư duy có tính sáng tạo; do đó, nó có khả năng vượt trước thực tiễn, đi
trước hiện thực khách quan. Tuy nhiên, cũng vì sự linh động này mà đôi khi
tư duy dễ mắc phải những sai lầm trong quá trình phản ánh. Điều này làm cho
tư duy được thể hiện ra rất phong phú về độ phản ánh cũng như phương pháp
phản ánh.
Ở đây, chúng ta xem xét đến mối quan hệ giữa tư duy kinh nghiệm và
tư duy lý luận để xem xét và trả lời cho câu hỏi: Vậy thì trình độ tư duy có
mối liên hệ như thế nào với phương pháp tư duy và nó có vai trò như thế nào
trong đời sống hiện thực, điểm khác biệt của chúng là ở đâu? Trong mối quan
hệ giữa tư duy kinh nghiệm và tư duy lý luận, chúng ta thấy rõ được sự tác
động qua lại giữa hai trình độ tư duy này, chúng khơng hồn tồn phủ định
nhau một cách sạch trơn mà đó là sự phủ định có tính kế thừa, mặc dù có sự
khác biệt rõ nét.
Tư duy kinh nghiệm là một giai đoạn tất yếu của nhận thức lý tính, nó
có vai trò quan trọng trong hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người.
Việc đánh giá đúng vai trò, vị trí của tư duy kinh nghiệm để có thể phát huy
10



những ưu điểm, khắc phục những hạn chế của nó là việc làm cần thiết trong
quá trình phát triển kinh tế- xã hội.
Tư duy kinh nghiệm được hình thành một cách trực tiếp trong quá trình
hoạt động thực tiễn của chủ thể nhằm mục đích cải biến khách thể. Nó thường
phản ánh những thuộc tính, tính chất của các đối tượng có tác động trực tiếp
tới chủ thể. Đối tượng phản ánh của nó là những thuộc tính, tính chất của
khách thể hiện thực; ngược lại, đối tượng của tư duy lý luận là những khách
thể trừu tượng. Sự khác nhau về mặt đối tượng được xem là dấu hiệu căn bản
để phân biệt hai giai đoạn kinh nghiệm và lý luận trong nhận thức.
Từ những phân tích ở trên, có thể rút ra định nghĩa như sau: Tư duy ly
luận là giai đoạn cao nhất của tư duy, là quá trình mà tư duy tiếp cận, nắm
bắt, nhận thức và tái tạo hiện thực khách quan bằng ly luận và thường
được thể hiện ra ở các giả thuyết, các ly thuyết có quan hệ tương hỗ với
nhau.
Tư duy lý luận có những đặc trưng cơ bản sau: Là giai đoạn cao nhất
của tư duy. Tư duy lý luận không phản ánh hiện thực bằng các khái niệm
thông thường mà nó phản ánh thông qua các khái niệm lý luận. Sản phẩm hay
hình thức biểu hiện của tư duy thường được biểu hiện thông qua các giả
thuyết khoa học. Tư duy lý luận là trình độ cao hơn về chất so với tư duy kinh
nghiệm. Sản phẩm của tư duy lý luận là những tri thức lý luận, trong khi đó
sản phẩm của tư duy kinh nghiệm lại là những mảnh đoạn rời rạc.
Tư duy lý luận phản ánh bản chất, quy luật ở các cấp độ, các giai đoạn,
các hình thức của sự vật, hiện tượng. Nó nghiên cứu một cách kỹ càng các
tầng lớp bên trong của sự vật và bóc tách các vấn đề để phản ánh một cách
sâu nhất về đối tượng, phản ánh xu thế vận động của đối tượng nên tư duy lý
luận có khả năng bao quát, bám sát sự vận động của đối tượng cũng như có
khả năng vượt lên trên và dẫn đường, định hướng cho sự vận động và phát
triển của đối tượng.
Tư duy lý luận có thể được hiểu theo 3 cách là động từ, tính từ và danh từ.
11



Với tư cách là động từ: tư duy lý luận được hiểu là quá trình mà tư duy
lý luận đang vận động để khám phá, nắm bắt, tái tạo hiện thực. Với tư cách là
danh từ: Tư duy lý luận được hiểu như là một quá trình, một kết quả đã có, đã
hình thành. Với tư cách là tính từ: tư duy lý luận thường được hiểu thông qua
các cặp đối lập của nó.
Có hai yếu tố chủ yếu để cấu thành nên tư duy lý luận là chủ thể và
khách thể của tư duy lý luận. Mặt khách thể của tư duy lý luận là toàn bộ
những mối liên hệ chung nhất bên trong, tất yếu làm nên bản chất và quy luật
của tự nhiên, xã hội và của chính con người. Mặt chủ thể của tư duy lý luận là
những thứ liên quan đến hoạt động của não người và thường được thể hiện ra
ở ba chủ thể chính là cá nhân, tập thể, dân tộc.
Tư duy lý luận cần đáp ứng được các đặc trưng và yêu cầu sau: Thứ
nhất, tư duy đó phải có một hệ thống ngôn ngữ chọn lọc là ngôn ngữ lý luận;
thứ hai, về yêu cầu: tư duy lý luận mỗi thời đại bao giờ cũng đạt đến trình độ
khái quát và tính chân lý cao nhất. Chính vì vậy mà chủ thể của tư duy lý luận
cần thỏa mãn bốn yêu cầu sau: Một là, chủ thể của tư duy lý luận phải là
những người có khả năng trí tuệ cao bao gồm khả năng quan sát, ghi nhớ tốt,
năng lực tư duy trừu tượng cao, năng lực tưởng tượng và năng lực thực tiễn
duy lý; hai là, chủ thể tư duy lý luận phải được đào tạo, rèn luyện, trang bị về
tri thức, ngơn ngữ, logic tốn, và các phương pháp khoa học; ba là, chủ thể tư
duy lý luận phải được trang bị các điều kiện vật chất như là các công cụ, thiết
bị, phương tiện và các điều kiện vật chất khác vào trong phương tiện kĩ thuật;
bốn là, chủ thể tư duy lý luận phải được rèn luyện trong phong trào Cách
mạng, thực tiễn và quần chúng.
Đặc trưng riêng của tư duy lý luận đó là: hệ thống ngôn ngữ và kí hiệu
này được xây dựng rất khái quát, chặt chẽ, chính xác, rõ ràng và được sử dụng
tương đối thống nhất; ngôn ngữ lý luận là ngôn ngữ được chuyên môn hóa sâu
sắc để giúp cho tư duy lý luận phản ánh ngày càng đầy đủ hơn đối tượng

nghiên cứu của mình.
12


Cũng giống tư duy thông thường tư duy lý luận sử dụng các thao tác
sau: Phân tích- tổng hợp; so sánh- phân loại; trừu tượng hóa; lý tưởng hóa;
trung gian hóa và cụ thể hóa; hệ thống hóa; khái quát hóa. Các thao tác này
trong tư duy lý luận được sử dụng đầy đủ nhất, chính xác nhất và có hiệu quả
nhất vì: Các thao tác này trong tư duy lý luận thường lặp đi lặp lại gần như
chuyên dụng trong tư duy lý luận. Trong tư duy lý luận, các thao tác này
thường được sắp xếp thành một hệ thống chặt chẽ, tương ứng với các phương
pháp tư duy khoa học. Trong việc vận động và phát triển của các thao tác này,
từ việc mở rộng phạm vi ứng dụng đến việc nâng cao năng lực của các thao
tác đã biết, đồng thời còn phát hiện ra những khả năng mới của các thao tác
đó hoặc phát hiện, xây dựng và sử dụng những thao tác mới hoàn toàn của tư
duy đều nhờ tư duy lý luận đóng vai trò là chất xúc tác chủ yếu.
Là những cấp độ khác nhau của cùng một quá trình nhận thức lý tính,
nhưng tư duy kinh nghiệm và tư duy lý luận không đối lập, tách rời nhau, mà
thống nhất với nhau thông qua hoạt động thực tiễn. V.I.Lênin đã từng khẳng
định: “Muốn hiểu biết thì phải bắt đầu tìm hiểu, nghiên cứu từ kinh nghiệm,
từ kinh nghiệm mà đi đến cái chung” [21,220].
Ở nước ta, một số cơng trình nghiên cứu đã đồng nhất tư duy kinh
nghiệm với nhận thức cảm tính; hoặc chỉ coi “tư duy kinh nghiệm là thứ tư
duy tiền khoa học” [24,55]. Quan niệm đó đã dẫn đến việc tuyệt đối hoá vai
trò của tư duy lý luận; coi thường tư duy kinh nghiệm. Thực chất, tư duy kinh
nghiệm là giai đoạn tất yếu của nhận thức lý tính. Do vậy, nó cũng có khả
năng phát hiện các quy luật và định hướng hoạt động thực tiễn của con người,
chứ không chỉ tư duy lý luận mới có thể làm được việc này. Có thể thấy, vai
trò của tư duy kinh nghiệm đối với hoạt động nhận thức và thực tiễn kém hơn
tư duy lý luận, tuy nhiên khơng vì thế mà chúng ta có thể tuyệt đối hoá vai trò

của tư duy lý luận, hoặc xem nhẹ vai trò của tư duy kinh nghiệm.
Tư duy kinh nghiệm hướng tới giải quyết những nhiệm vụ trước mắt,
cụ thể, đang đặt ra; phát hiện và giải quyết vấn đề một cách trực tiếp. Do có
13


khả năng trực tiếp phản ánh hiện thực khách quan, nên tư duy kinh nghiệm rất
mềm dẻo, linh hoạt, năng động và nhạy cảm trước thực tiễn, dễ thích nghi với
những thay đổi của thực tiễn.
Giữa lý luận và thực tiễn vẫn còn là một khoảng cách, tư duy kinh
nghiệm là nhịp cầu nối quan trọng giữa tư duy lý luận và thực tiễn, gắn lý
luận với thực tiễn. Tư duy lý luận có khoảng cách rất xa thực tiễn nên nhiều
khi các phương án giải quyết vấn đề của tư duy lý luận thiếu tính đặc thù,
nghĩa là thiếu sự phù hợp giữa khách thể trừu tượng, chung với khách thể hiện
thực cụ thể. Do vậy, tư duy lý luận có thể dẫn đến những giải pháp không phù
hợp để giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra. Việc trong một thời gian dài,
chúng ta quan niệm cần phải phát triển quan hệ sản xuất trước một bước nhằm
tạo điều kiện, mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển đã dẫn đến kết quả
ngược lại, là một ví dụ.
Hiện nay, do tư duy lý luận ở nước ta còn nhiều yếu tố giáo điều, tư
biện, nên chưa đưa ra được giải pháp phù hợp trong việc giải quyết những vấn
đề mà thực tiễn đang đặt ra một cách hiệu quả. Ví dụ, việc quy hoạch mạng
lưới giao thông ở các thành phố lớn, các chiến lược giáo dục và đào tạo ng̀n
nhân lực, một số chương trình phát triển kinh tế… Về vấn đề này, tác giả Ngơ
Đình Xây đã viết: “Kiểu tư duy lý ḷn một cực là sách vở giáo điều và cực
kia là thực tiễn vụn vặt là nét nổi bật thứ ba trong tư duy lý luận và cũng là
của tư duy lý luận ở nước ta hiện nay. Khi lý tưởng hoá đi đến tuyệt đối hoá
chức năng trừu tượng, tuyệt đối hoá khía cạnh lý thuyết thuần tuý tư duy lý
luận đã bỏ rơi nguyên tắc: sức mạnh có thể có ở lý luận là ở chỗ nó gắn liền
với thực tiễn và khi tư duy lý luận đã quên mất nguyên tắc đó, nó chỉ có thể

tạo dựng những lý thuyết trừu tượng cách biệt quá lớn với thực tiễn, và như
vậy nó giúp ích được gì cho thực tiễn?” [41, 34]. Chính vì vậy, nếu kết hợp tư
duy lý luận và tư duy kinh nghiệm một cách hợp lý thì chắc chắn chúng ta sẽ
đưa ra được những giải pháp phù hợp hơn với thực tiễn.

14


Trong mối quan hệ với tư duy lý luận, tư duy kinh nghiệm không
những là cơ sở, tiền đề cho tư duy lý luận, mà còn đóng vai trò trung gian để
lý luận thực hiện có hiệu quả vai trò định hướng và chỉ đạo thực tiễn. Lý luận
không có thực tiễn là lý luận suông, thực tiễn không có lý luận là thực tiễn mù
quáng. Những tri thức khoa học có mức độ trừu tượng hoá và khái quát hố
rất cao, nhưng trong thực tiễn hầu như hồn tồn không có những khách thể
trừu tượng như vậy. Trải qua hơn ba mươi năm tiến hành đổi mới, sự phát
triển, bổ sung lý luận về xây dựng Chủ nghĩa xã hội của Đảng qua các kỳ đại
hội đã khẳng định rằng, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn là nhiệm vụ hết sức
quan trọng, là cơ sở khoa học để đẩy mạnh đổi mới tư duy lý luận của Đảng.
Qua quá trình phân tích ở trên, chúng ta có thể thấy rằng, tư duy kinh
nghiệm là nấc thang tất yếu và khơng thể thiếu của tư duy trong q trình
nhận thức và chỉ đạo hoạt động thực tiễn cải biến thế giới khách quan của con
người.
Tuy nhiên, cũng cần phải thấy rằng, bên cạnh những ưu điểm, tư duy
kinh nghiệm cũng còn có những mặt hạn chế nhất định. Trong quá trình phát
triển và hội nhập hiện nay, nếu chúng ta không khắc phục một cách kịp thời
những tác động tiêu cực đó, thì chúng sẽ gây ra nhiều hậu quả hết sức nghiêm
trọng.
Do được hình thành trực tiếp trong quá trình con người nhận thức và
cải tạo thế giới khách quan, nên tư duy kinh nghiệm vẫn mang tính tự phát
trong việc giải quyết những vấn đề cụ thể của thực tiễn đặt ra. Một hạn chế

khác của tư duy kinh nghiệm là tính duy lý yếu. Vì vậy, tư duy kinh nghiệm
thường có độ chính xác không cao, ít có khả năng định hướng, chỉ đạo hoạt
động thực tiễn ở tầm chiến lược một cách hiệu quả. Do yếu về tính duy lý, tư
duy kinh nghiệm thường mang tính định tính nhiều hơn định lượng, thiếu
chính xác hơn tư duy lý luận. Đồng thời, do ít có khả năng phân tích, phê
phán và tự phê phán, người tư duy kinh nghiệm thường suy nghĩ đơn giản,
máy móc, thụ động, ít sáng tạo. Chính điều này đã dẫn đến việc áp dụng một
15


cách máy móc kinh nghiệm của người khác, địa phương khác mà không tính
đến những yếu tố đặc thù của địa phương mình.
Trong hoạt động thực tiễn, nếu người ta chỉ dừng lại ở trình độ tư duy
kinh nghiệm sẽ không có khả năng nhận thức được bản chất của các sự vật và
hiện tượng, do đó sẽ không nắm được những biến đổi phong phú, đa dạng của
hiện thực để cải biến nó phục vụ lợi ích của con người. Do đó, muốn cải biến
hiện thực theo nghĩa sáng tạo ra hiện thực mới, con người phải nhận thức,
khám phá được bản chất, quy luật vận động khách quan của nó bằng tính chặt
chẽ, chính xác và sáng tạo của tư duy lý luận. Hơn nữa, cần phải kết hợp
nhuần nhuyễn tư duy lý luận với tư duy kinh nghiệm để phát huy những mặt
mạnh, cũng như khắc phục những mặt hạn chế của mỗi loại hình tư duy. Đó là
cách để phát huy vai trò định hướng và chỉ đạo của lý luận đối với hoạt động
thực tiễn nhằm cải tạo hiện thực khách quan một cách có hiệu quả.
Ph. Ăngghen nói: “Một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của
khoa học thì khơng thể khơng có tư duy lý luận” [26, 489]. Bởi vì, tư duy lý
luận cho phép nhà nghiên cứu vạch mở được bản chất phát triển của khách thể
nghiên cứu, tạo bước chuyển về chất của đối tượng từ trạng thái này sang
trạng thái khác phát hiện và phản ánh vào khoa học các luận điểm, lý thuyết,
quy luật tồn tại và phát triển của nó mà nhận thức cảm tính không thể tiếp cận
được. “Nhưng làm thế nào khoa học tự nhiên đã chuyển sang lĩnh vực lý luận

và trong lĩnh vực này những phương pháp kinh nghiệm trở nên bất lực, chỉ có
tư duy lý luận mới có thể giúp ích được” [26, 487]. Bằng tư duy lý luận con
người khám phá bản chất, khoan sâu đến bản chất của hiện tượng. Tư duy lý
luận đóng vai trò là chất keo dính các sự kiện, hiện tượng, các mối liên hệ,
quan hệ của sự vật, hiện tượng. “Dù người ta tỏ ý khinh thường tư duy lý luận
như thế nào đi nữa, nhưng khơng có tư duy lý ḷn thì người ta cũng không
thể liên kết hai sự kiện trong giới tự nhiên với nhau được, hay không thể hiểu
được mối liên hệ giữa hai sự liên kết đó” [26, 508]. Tư duy lý luận gắn kết

16


các hình ảnh hoạt động, vận hành bộ máy cơng cụ của mình để giúp cho nhận
thức đi vào bản chất của sự vật.
Có thể thấy tư duy kinh nghiệm có vai trò quan trọng trong quá trình
nhận thức và cải tạo thực tiễn của con người, song về bản chất, những tri thức
kinh nghiệm vẫn mang tính chất hạn hẹp. Vì vậy, để phát huy được vai trò của
tư duy kinh nghiệm, nhất thiết phải đặt nó trong mối liên hệ thống nhất với tư
duy lý luận, bởi chỉ có tư duy lý luận với bản chất sáng tạo và sự sâu sắc trong
sự phản ánh hiện thực khách quan mới có thể khắc phục được tính chất hạn
hẹp, phiến diện của tư duy kinh nghiệm.
Nhận thức xã hội là quá trình phản ánh đời sống xã hội vào ý thức con
người. Là bộ phận của ý thức xã hội, bao gờm những thành tố, những hình
thái khác nhau của hiện tượng tinh thần và những hiện tượng tinh thần đó
phản ánh xã hội bằng những phương thức khác nhau. Mối quan hệ giữa tư duy
lý luận và nhận thức xã hội là mối quan hệ bản chất, vì vậy tư duy lý luận có
vai trò rất quan trọng trong nhận thức xã hội.
Nhận thức xã hội bao gồm những đặc trưng sau: Thứ nhất, nhận thức xã
hội có tính cá nhân xong không rõ nét (đậm nét). Thứ hai, nhận thức xã hội mang
tính xã hội rất cao. Thứ ba, nhận thức xã hội mang tính giai cấp trong xã hội có

giai cấp. Nhận thức đó do lợi ích của giai cấp cầm quyền (lãnh đạo) chi phối và
bao giờ cũng bị hệ tư tưởng chi phối. Thứ tư, nhận thức xã hội mang tính dân tộc
rõ nét. Thứ năm, nhận thức xã hội mang tính nhân văn trực tiếp.

Tính tích cực của tư duy lý luận đối với nhận thức xã hội được thể hiện
ở những điểm sau: Thứ nhất, tư duy lý luận tạo điều kiện và làm tiền đề cho
việc hình thành các giả thuyết xã hội, lý thuyết xã hội và mơ hình phát triển xã
hội. Thứ hai, tư duy lý luận đóng vai trò là phương pháp luận cho nhận thức
xã hội. Thứ ba, tư duy lý luận đóng vai trò là phương pháp cho nhận thức xã
hội. Thứ tư, tư duy lý luận còn cung cấp cho nhận thức xã hội những lý thuyết
cụ thể về xã hội.

17


Tính tích cực của nhận thức xã hội đối với tư duy lý luận được thể hiện
ở các điểm sau: Thứ nhất, nhận thức xã hội làm tri thức nguồn cho tư duy lý
luận. Thứ hai, nhận thức xã hội giúp tư duy lý luận được hiện thực hóa. Thứ
ba, nhận thức xã hội giúp tư duy lý luận được sâu sắc thêm, đa dạng thêm,
phong phú thêm, hoàn chỉnh thêm. Thứ tư, nhận thức xã hội cung cấp những
công cụ mới (khái niệm mới) cho tư duy lý luận.
11.1.1.2. Đặc trưng của tư duy ly luận người Việt Nam hiện nay.
1)

Sự chủ đạo của tư duy định tính tiền định lượng.

Tư duy lý luận trải qua các giai đoạn sau từ kinh nghiệm và trên cơ sở
kinh nghiệm đến giai đoạn đầu của tư duy lý luận, sau đó tư duy lý luận phân
tách, phân tầng sự vật và cuối cùng tư duy lý luận đi khái quát, đến cái bản
chất của sự vật, đó là định tính sau định lượng. Tư duy lý luận đích thực là tư

duy định tính sau định lượng. Nếu chỉ dừng lại ở định tính tiền định lượng thì
tư duy chỉ có cái nhìn chung về sự vật, cái bề ngồi của sự vật. Nó có thể
đúng nhưng nó là cái đúng mang tính hình thức, bề ngồi. Trong thực tế, tư
duy lý luận là “bà đỡ” cho các chính sách xã hội, nó sẽ hình thành đường lối,
chủ trương chính sách giả. Bởi lẽ nó không nắm bắt được bản chất sự vật,
khơng có cụ thể hóa trong tư duy. Vì vậy những đường lối chủ trương chính
sách này không có cơ sở để phở cập hóa trong xã hội vì nó là đường lối chủ
trương chính sách giả. Điều này giải thích tại sao ở nước ta ban hành nhiều
chính sách nhưng ít đi vào thực tế. Nguyên nhân của sự chủ đạo của tư duy
định tính tiền định lượng là do trình độ khoa học chưa phát triển và chun
mơn yếu kém.
2)

Tư duy thiên về lập, yếu về luận.

Tư duy lý luận đích thực có hai thao tác cơ bản lập và luận. Lập được
hiểu là cách đặt vấn đề, tiếp cận vấn đề. Luận là sự lý giải, giải quyết vấn đề.
Luận làm cho tư duy lý luận không những được sâu sắc, phát hiện các bản
chất của sự vật mà còn vạch ra con đường đưa ra biện pháp để hiện thực hóa
nó. Đây là hai thao tác trong tư duy lý luận mà không thể thiếu thao tác nào.
18


Thiếu một trong hai thao tác này thì tư duy lý ḷn khơng còn hồn chỉnh.
Nếu thiếu lập thì khơng có luận đúng hướng và đúng đắn, nếu chỉ có lập mà
khơng có ḷn thì dẫn đến sự hiểu biết nửa vời, không triệt để, nhiều khi mang
tính ngộ nhận và với một kiểu tư duy thiên về lập, yếu về luận làm bàn đỡ cho
các lý thuyết xã hội, chính sách xã hội thì sẽ dẫn đến khơng triệt để, nửa vời.
Và từ đây, khi áp dụng trong thực tế, thì lý ḷn chỉ được khn lại ở một số
công thức, máy móc đơn điệu và lý luận hiện ra là tổng số các công thức cứng

đờ, phiến diện và sự công thức hóa chỉ làm cho lý luận chỉ còn là một “sạp”.
Hai căn nguyên chính dẫn đến việc tư duy thiên về lập yếu về luận đó là: Bị
chi phối bởi tư duy kinh nghiệm và vừa không có truyền thống, vừa yếu về tư
duy logic.
3)

Sự đè nặng của tư duy kinh nghiệm.

Tư duy kinh nghiệm chính là tư duy được dựa trên, vận hành trên tri
thức kinh nghiệm. Tri thức kinh nghiệm có hai loại là: tri thức kinh nghiệm
thông thường (tiền khoa học) và tri thức kinh nghiệm khoa học. Dẫu là tri
thức thông thường hay khoa học đều có 3 đặc trưng cơ bản sau: Là những tri
thức kinh nghiệm đã mang tính gián tiếp và khái quát nhất định xong mới chỉ
là bước đầu và còn hạn chế; chỉ giới hạn ở lĩnh vực miêu tả sự việc, phân loại
các dữ liệu thu được từ những quan sát và thí nghiệm; là những tri thức mang
tính hiểu biết về các mặt riêng lẻ, về các mối liên hệ bề ngoài cho nên nó còn
rời rạc, chưa nắm được mối liên hệ tất yếu, bản chất bên trong. Do vậy theo
Angghen: sự quan sát dựa vào kinh nghiệm tự nó không bao giờ có thể chứng
minh được đầy đủ tính tất yếu. Và với một tư duy còn chi phối, đè nặng bởi tư
duy kinh nghiệm thì nó sẽ dẫn đến trong thực tế chủ nghĩa kinh nghiệm sẽ
thay thế và kinh nghiệm sẽ lên ngôi. Do vậy cho nên mọi đường lối, chủ
trương, chính sách đều được triển khai thực hiện dựa trên kinh nghiệm và chủ
nghĩa kinh nghiệm, và như vậy tư duy lý luận trở nên thiếu sắc bén.
4)

Tư duy mang tính lưỡng cực.

Tư duy mang tính lưỡng cực: Một cực là sách vở giáo điều nhưng cực
kia lại khái quát thực tiễn vụn vặt. Lý luận đích thực có hai khía cạnh nổi bật:
19



một khía cạnh lý thuyết và một khía cạnh thực tiễn của lý luận. Nếu như tuyệt
đối hóa khía cạnh lý thuyết thuần túy thì lý luận đã bỏ rơi một nguyên tắc là
sức mạnh có thể có của lý luận chỉ khi nó gắn với thực tiễn. Như vậy nguyên
tắc thực tiễn và lý luận bị vi phạm. Song ngược lại, khi nhấn mạnh tuyệt đối
hóa chủ nghĩa thực tiễn trong lý thuyết lý luận, nghĩa là thiên về khái quát
thực tiễn vụn vặt thì tư duy lý luận đã hạ thấp lý luận xuống cấp độ khái quát
vụn vặt. Vi phạm một nguyên tắc khác là lý luận chỉ có sức mạnh thực sự khi
đóng vai trò là lý luận, nghĩa là phải đạt đúng tầm lý luận chứ không phải chỉ
khái quát thực tiễn vụn vặt.
Lý luận có hai khía cạnh là lý thuyết và thực tiễn. Nếu như người ta
cảm thấy khía cạnh lý thuyết yếu hay rời rạc thì người ta lấy trích dẫn trong
sách vở để bổ sung cho nó. Lý luận hiện ra là tổng số các trích dẫn và tư duy
logic, lập luận logic trong lý luận được thay bằng sự viện dẫn sách vở. Hệ quả
là, trích dẫn thay cho lập luận và suy nghĩ. Mặt khác, khi nhận thấy lý luận
mang tính sách vở, lý thuyết thì người ta lại dẫn đến cực thứ hai, đó là bổ
sung thực tiễn cho lý luận. Nhưng ở đây thực tiễn không được hiểu là tổng thể
các hoạt động vật chất của con người mà chỉ là những hoạt động riêng lẻ của
con người, những mảnh vụn thực tiễn. Sự khái quát những mảnh vụn thực tiễn
này làm cho lý luận hiện ra chỉ là tổng số những ví dụ. Kết quả là chúng ta
vừa thừa vừa thiếu lý luận. Thừa lý luận không đúng tầm của nó, thiếu lý luận
đích thực. Nguyên nhân cơ bản của vấn đề tư duy mang tính lưỡng cực là do
bệnh hình thức trong suy nghĩ của người Việt.
5)

Có sự đồng nhất tư duy lý luận với tư duy chính trị.

Việc đờng nhất giữa tư duy lý luận và tư duy chính trị đã đem lại những
hệ quả sau: nội dung của lý luận chỉ còn khuôn lại ở đường lối, quan điểm

chính trị; nghiên cứu lý ḷn khơng phải là sự tìm tòi, phát minh từ những vấn
đề thực tiễn mà chủ yếu chỉ là đi nghiên cứu, thuyết minh, chứng minh cho
đường lối, quan điểm chính trị; nhà nghiên cứu lý luận cũng đồng thời là nhà
hoạt động chính trị.
20


1.1.2. Đổi mới tư duy lý luận.
Mọi sự vật- hiện tượng trong thế giới khách quan xung quanh chúng ta
đều trải qua các quá trình sinh thành, vận động, phát triển và tiêu vong. Các
sự vật, hiện tượng đó không do một lực lượng siêu nhiên nào tạo ra, không
phải chịu sự tác động của bất kỳ sức mạnh thần thánh nào, mà sự hình thành,
tờn tại và phát triển của chúng chỉ chịu sự tác động, chi phối của các quy luật
khách quan, phổ biến như sự tích luỹ dần dần về lượng dẫn tới sự thay đổi về
chất và ngược lại, sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập, sự phủ
định của phủ định. Sự tác động của các quy luật đó trong đối tượng đã tạo ra
cơ chế, cơ sở, tiền đề, nguồn gốc và kết quả của sự phát triển. Tuy nhiên, quá
trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng không diễn ra theo đường
thẳng, mà thường là quanh co, phức tạp, đôi khi bao gồm cả những “bước thụt
lùi tạm thời”.
Trong q trình phát triển đó đơi lúc sự vật, hiện tượng bộc lộ những
hạn chế, lỗi thời không phù hợp với thực tiễn, với điều kiện và hoàn cảnh mới.
Chính vì vậy mà nó nghiễm nhiên trở thành yếu tố cản trở sự phát triển của
chính bản thân sự vật, hiện tượng. Và do vậy, để tiếp tục tồn tại và phát triển
không có cách nào khác là phải loại bỏ những yếu tố đang cản trở ấy, phải có
sự thay đởi, đởi mới nhất định trong tiến trình vận động và phát triển. Tuỳ theo
đối tượng, lĩnh vực mà hình thức thay đởi phù hợp, có thể là tiến hành cải tổ,
cải cách, đổi mới hay là tiến hành cuộc cách mạng. Mọi hình thức tiến hành
đều nhằm một điểm là giải quyết những hạn chế, bế tắc, khủng hoảng để nhằm
cải tạo đối tượng hoàn thiện hơn, tiến bộ hơn.

Sự phát triển của tư duy là khách quan và có tính quy luật. Nó diễn ra
đồng thời với quá trình hoạt động của thực tiễn. Tư duy chính là đối tượng
của nhận thức. Sự phát triển của tư duy không diễn ra theo một đường thằng
mà tùy vào từng khơng gian, điều kiện, hồn cảnh cụ thể mà tư duy có lúc
nhanh, lúc chậm, lúc ngưng đọng hay nhảy vọt. Mặt khác, sự phát triển nội tại
của tư duy không dừng lại ở đó, mà vòng tròn “trôn ốc” của sự phát triển sẽ
21


×