Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

Tải Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân - Tuyển tập bài văn mẫu lớp 12 hay nhất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (410.07 KB, 17 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Bài văn mẫu lớp 12:</b>



<b>Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt</b>


<b>của Kim Lân</b>



<b>Dàn ý chi tiết giá trị hiện thực và nhân đạo trong tác phẩm Vợ nhặt</b>


<b>I. Mở bài</b>


- Kim Lân là cây bút viết truyện ngắn chuyên nghiệp, ông tập trung viết về
cảnh nong thôn, hình tượng người nông dân lao động.


<i>- Vợ nhặt rút từ tập Con chó xấu xí, là truyện ngắn đặc sắc viết về người nơng</i>
dân, miêu tả tình trạng thê thảm của họ trong nạn đói năm 1945, nhưng cũng
ngợi ca bản chất tốt đẹp và sức sống kì diệu của họ. Bởi vậy đây là truyện
ngắn giàu giá trị hiện thực và nhân đạo.


<b>II. Thân bài</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

- Phản ánh chân thực cuộc sống của nhân dân ta trước cách mạng tháng tám:
nạn đói khủng khiếp khiến bao người phải chịu cảnh sổ sở:


+ Con người chịu cảnh tang thương, cuộc sống ngày càng thê thảm: “Người
chết như ngả rạ”, “ba, bốn cái thây nằm còng queo bên đường”, người sống
mặt hốc hác u tối đi lại dật dờ như những bóng ma, xanh xám như những bóng
ma, ...


+ Khơng gian chỉ tịa những tiếng khóc hờ, tiếng quạ kêu từng hồi thê thiết.
+ Mùi gây của xác người, mùi ẩm mốc của rác rưởi, mùi khét của những đống
rấm.



- Đặc biệt, bữa cháo cám ngày đói nhà anh cu Tràng đã phản ánh cuộc sống
thảm hại của con người.


- Con người trong cái đói, cái khổ phải giành giật lấy sự sống cho chính mình:
Tràng ngày ngày kéo xe cực khổ để sống qua ngày, bà cụ Tứ già cả vẫn phải
đi làm, ...


- Nhận xét: ranh giới giữa người và ma, giữa sự sống và cái chết rất mong
manh. Khơng gian xóm ngụ cư khơng khác biệt nhiều với nghĩa địa


<b>2. Bộc lộ niềm xót xa thương cảm đối với cuộc sống bi thảm của những</b>
<b>người dân nghèo trong nạn đói năm 1945</b>


- Cái đói khổ đã khiến cho con người bị rẻ rúng, mất đi giá trị:


+ Điển hình là nhân vật người vợ nhặt, vì quá túng quẫn thị không quan tâm
đến thể danh dự cứ vin vào lời nói đùa của Tràng mà “cong cớn địi ăn”, cịn
chấp nhận theo khơng Tràng về làm vợ.


+ Chính Tràng cũng vậy, vì q nghèo khổ mà khó có thể lấy vợ, đến khi lấy
được vợ cũng là nhờ hoàn cảnh éo le.


<b>3. Gián tiếp tố cáo tội ác tày trời của bọn thực dân phát xít đối với nhân</b>
<b>dân ta</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

- Trong đoạn cuối truyện, khi nghe tiếng trống thúc siêu thuế, bà cụ tứ cũng
tuyệt vọng kêu lên rằng: “Giời đất này không chắc đã sống qua được đâu các
con ạ”


<b>4. Trân trọng những khát vọng nhân văn của con người</b>



- Tác phẩm ngợi ca khát vọng sống mãnh liệt của con người: Một mặt ta thấy
người vợ nhặt như mất nhân cách trong cảnh đói khổ, nhưng mặt khác đó lại là
khát vọng sống mãnh liệt của thị, thị không từ bỏ bất cứ cơ hội nhỏ nhoi nào
để được sống tiếp, ngay cả việc theo không người ta về làm vợ.


- Ta thấy ở Tràng là một khát vọng hạnh phúc chân thành, khơng phải vì ngờ
nghệch mà anh dẫn người vợ nhặt về, sâu thẳm bên trong là khát khao có một
gia đình như bao người bình thường khác.


- Truyện ngắn cịn thấm đẫm vẻ đẹp của lịng thương người: vì thình thương
người chân thành mà Tràng sẵn sàng mời thị ăn dù khơng dư dả, vì thương
người mà bà cụ tứ chấp nhận người con dâu được nhặt về dù trong cảnh đói
khổ.


- Dù bị đẩy đến bước đường cùng, con người vẫn ln có niềm tin vào cuộc
sống:


+ Người vợ nhặt nhắc đến cảnh đồn người phá kho thóc để tạo niềm tin cho
bà cụ Tứ và Tràng, bà cụ Tứ cũng dự tính những chuyện tương lai, khuyên bảo
các


<b>5. Chỉ ra lối thoát để con người hướng đến cuộc sống tốt đẹp hơn</b>


- Từ câu chuyện phá kho thóc mà người vợ nhặt kể và hình ảnh đám người đói,
lá cờ đỏ trong suy nghĩ của Tràng là những dấu hiệu của cuộc cách mạng,
khiến người đọc có thể tin tưởng vợ chồng Tràng sẽ có mặt trong đồn người
vùng lên tổng khởi nghĩa.


<b>III. Kết bài</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

- Tác phẩm thẫm đẫm giá trị nhân văn: thể hiện sự cảm thương sâu sắc với số
phận con người trong đói khổ, lên án tố cáo tội ác thực dân phát xít, từ đó sự
trân trọng của tác giả đối với phẩm chất tốt đẹp của con người.


<b>Giátrị hiện thực vànhân đạo trongtruyện Vợ nhặt- Mẫu 1</b>


<i>Vợ nhặt được rút ra từ tập Con chó xấu xí, xuất bản năm 1945. Đây là tác</i>


phẩm xuất sắc nhất trong sự nghiệp sáng tác của ông, đồng thời cũng là một
những tác phẩm tiêu biểu viết về đề tài người nông dân và thể hiện đầy đủ
quan điểm sáng tác của tác giả. Tác phẩm thấm đẫm giá trị hiện thực và nhân
đạo.


Trước hết giá trị hiện thực của tác phẩm được thể hiện trong việc Kim Lân
đã tái hiện thành công nạn đói khủng khiếp năm 1945. Nạn đói năm 1945 phần
lớn người dân đã bị đẩy tới cái chết. Kim Lân đã tập trung tất cả bút lực của
mình để tạo dựng bối cảnh, khơng khí nạn đói ấy. Trong văn ơng cái đói, cái
chết đã hiện hình, nổi cộm sắc nét tạo nên những ám ảnh ghê rợn. Ấn tượng về
cái đói cái chết đã được Kim Lân tạo dựng từ nhiều yếu tố, nhưng ấn tượng
nhất là thị giác, khứu giác và thính giác. Ở thị giác, ơng đã hai lần sử dụng
hình ảnh đầy sức ám ảnh: bên cạnh những người chết như ngả rạ, là những
người cịn sống vật vờ như những bóng ma. Ở đây cái đói đã trở thành nỗi ám
ảnh thường trực, giữa sự sống và cái chết là gianh giới vô cùng mong manh.
Nạn đói đã vắt kiệt tồn bộ sự sống của con người để hiện hình thành những
bóng ma dật dờ. Ở khứu giác, cái đói cái chết trong văn Kim Lân khơng chỉ
nhìn thấy mà cịn có thể ngửi thấy đó là mù gây của xác người và mùi khét lét
của các nhà đốt đống dấm. Cịn thính giác cũng là những ấn tượng ghê rợn.
Âm thanh của những đàn quạ liên thanh cất lên, là tiếng hờn khóc tỉ tê của
những gia đình có người chết.



</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

và một lời nói vu vơ, thị đã chạy đến híp mắt cười tình, đánh mất đi sự ê lệ,
kín đáo và chấp nhận về làm vợ của Tràng khi khơng hề biết đến tính cách,
con người của Tràng ra sao. Trong hồn cảnh bị cái đói, cái chết dồn đuổi, thị
sẵn sàng bám víu vào bất cứ thứ gì đảm bảo sự sống cho thị. Những chi tiết
mà Kim Lân miêu tả đã cho thấy, người vợ nhặt là một người nông dân khốn
khổ, bị đẩy đến bước đường cùng nên nhân cách và lòng tự trọng đã bị tha
hóa.


Đám cưới với mỗi người là một nghi thức quan trọng nhất trong cuộc đời,
nhưng đám cưới của Tràng và người vợ nhặt lại diễn ra hết sức sơ sài, sơ sài
đến mức đáng thương. Bữa cơm đầu tiên của nàng dâu mới là nồi cháo cám
đắng ngắt mà mọi người ngồi ăn khơng ai nói với nhau một câu.


Nhưng bên cạnh những mảng màu xám ngắt của hiện thực, ta còn thấy tác
phẩm ánh lên giá trị nhân đạo sâu sắc. Trong tăm tối, khi cái đói đeo đuổi tất
cả mọi người, tưởng chừng như người ta chỉ quan tâm đến sự sống chết của
mình, thì người nơng dân Việt Nam vẫn sẵn sàng giang tay cứu vớt những con
người có số phận bất hạnh hơn mình. Nó thể hiện rất rõ truyền thống yêu
thương đùm bọc “lá lành đùm lá rách” của nhân dân ta.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

chóng, bất ngờ đó vừa thể hiện khát khao hạnh phúc của Tràng, vừa là sự cứu
mang, nghĩa cử cao đẹp mà Tràng dành cho người phụ nữ khốn khổ, bất hạnh
hơn mình.


Lấy vợ là bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời Tràng, bằng những cử chỉ
hết sức đơn giản, nhưng cũng đủ cho thấy sự trân trọng của Tràng với người
vợ nhặt. Anh cho chị ăn một bữa thật no, mua một cái thúng con và mua ít dầu
về đốt cho sáng. Hành động mua hai hào dầu đó cịn như thắp lên một tương
lai, hi vọng mới cho hai vợ chồng. Đặc biệt, sáng hôm sau khi lấy vợ, Tràng


đã có những sự thay đổi hồn tồn. Tràng thấy trong người lửng lơ, một niềm
vui khó tả, khi lần đầu tiên được sống và cảm nhận niềm hạnh phúc gia đình.
Và niềm hạnh phúc đó đã dẫn đến những biến chuyển trong nhận thức của
Tràng, Tràng dấy lên tinh thần trách nhiệm với gia đình. Ý thức được vai trị
trụ cột của mình, cùng tham gia với vợ và mẹ để xây dựng cuộc sống mới.


Còn với bà mẹ của Tràng, có con dâu trong hồn cảnh éo le này làm bà vô
cùng ngỡ ngàng, nhưng sau giây phút bất ngờ, bà đã hiểu ra mọi chuyện. Bằng
tình yêu thương với người con trai, sự cảm thông với người vợ nhặt bất hạnh,
bà hiểu rằng người ta chỉ dựng vợ gả chồng khi ăn nên làm ra, chứ không ai
lấy vợ trong cái đói. Nhưng cùng với tình u thương con bà cịn tự trách mình,
thân phận làm mẹ nhưng lại không lo nổi hạnh phúc cho con. Thương con, lo
lắng cho con bao nhiêu bà lại càng ngậm ngùi, xót xa cho thân phận người đàn
bà kia bấy nhiêu. Bà khơng nhìn người con dâu mới bằng ánh mắt cay nghiệt,
<i>phán xét mà là cái nhìn đầy cảm thơng, bao dung: “Người ta có gặp bước khó</i>


<i>khăn, đói khổ, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có được vợ”.</i>


Như vậy, bà cụ khơng chỉ là hiện thân của tình mẫu tử cao cả thiêng liêng mà
cịn là hiện thân của tình người ấm áp, bao dung, bà đã đưa bàn tay yêu thương
để nâng đỡ bao bọc cho những thân phận khốn khổ dù cuộc sống của mình cịn
mn vàn khó khăn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

qua ba nhân vật Tràng, bà mẹ và cô vợ nhặt Kim Lân đã một lần nữa khẳng
định lối sống nhân ái, giàu tình cảm và lịng vị tha của nhân dân ta. Khơng chỉ
vậy, trong họ cịn tồn tại sức sống mãnh liệt, sẵn sàng vượt qua mọi đói khổ,
khó khăn.


Cuối cùng giá trị nhân đạo của tác phẩm thể hiện ở cuối bài với hình ảnh lá
cờ đỏ phấp phới trong sự tiếc rẻ của nhân vật Tràng. Chắc chắn với tinh thần


lành mạnh, lòng yêu cuộc sống Tràng và vợ sẽ tham gia hoạt động cách mạng.
Hình ảnh lá cờ đó như một gợi mở về tươi lai tương sáng đang đón đợi họ ở
phía trước.


Bằng nghệ thuật miêu tả bậc thầy, Kim Lân đã vẽ ra bức tranh hiện thực
tàn khốc về nạn đói năm 1945, khi mạng người bị rẻ rúng đến cùng cực.
Nhưng đằng sau bức tranh hiện thực đen tối ấy là ánh sáng của lịng nhân đạo,
tình u thương, sự bao bọc, chở che lẫn nhau giữa những con người khốn khổ.
Sự hòa quyện giữa hai giá trị hiện thực và nhân đạo đã tạo nên sự thành công
cho tác phẩm.


<b>Giátrị hiện thực vànhân đạo trongtruyện Vợ nhặt- Mẫu 2</b>


Trong những tác phẩm văn học Việt Nam, ngoài những nội dung sâu sắc
mà tác giả gửi gắm qua thì những tác phẩm đó cịn thể hiện những giá trị hiện
<i>thực và những tâm tư của tác giả. Và trong tác phẩm “Vợ nhặt’’ cũng vậy,</i>
ngoài việc tái hiện lại bức tranh ngày đói mà con người hiện lên thê thảm thì
Kim Lân cịn thổi vào trong bức tranh đó nhiều giá trị hiện thực và nhân đạo.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

<i>Đồng thời, truyện ngắn “Vợ Nhặt” cho chúng ta thấy được thân phận rẻ</i>
rúng của con người cùng với sự thê lương của số phận người nơng dân trong
<i>hồn cảnh bấy giờ. Điều này được thể hiện rõ nhất qua nhân vật “Vợ Nhặt”.</i>
Cái đói cái nghèo đã đùn đẩy tới mức chỉ sau hai lần gặp Thị theo Tràng về làm
vợ với mâm cỗ ra mắt là 4 bát bánh đúc và một câu bơng đùa. Chỉ vì miếng ăn,
cái đói cái nghèo mà đưa đẩy số phận của một con người. Để rồi Tràng lấy vợ
mà Kim Lân gọi là “nhặt vợ” như nhặt những đồ vật chẳng có chút giá trị nào
trên đường.


<i>Bên cạnh những giá trị hiện thực sâu sắc nhà văn Kim Lân còn gửi vào</i>
những trang văn của mình tấm lịng nhân đạo thiết tha.



Mỗi câu chữ của nhà văn thể hiện đều thấm đượm lòng thương cảm của nhà
văn đối với số phận bi thảm của con người. Mỗi một nhận vật mà tác giả xây
dựng đều cho thấy được niềm xót thương, cảm thơng với cuộc đời con người
trong nạn đói ấy.Có nhiều lúc người đọc có thể cảm nhận được như tác giả
nhập thân và chính nhân vật để chia sẻ và cảm thơng với cuộc sống của họ. Có
những câu văn khi đọc lên còn thấy tác giả dường như rưng rưng xúc
động. Chẳng hạn khi miêu tả tâm trạng của các thành viên trong bữa cơm
ngày đói, Kim Lân miêu tả: “ Một nỗi tủi hờn len vào tâm trí của mỗi người”.


Bên cạnh đó, nhà văn cịn phát hiện, trân trọng và ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn
của con người trong nạn đói năm 45 ấy. Mặc dù cái đói, cái ngheo truy đuổi ráo
riết như vậy nhưng ở họ vẫn sáng lên tư chất của những con người có vẻ đẹp
tâm hồn. Ở bà cụ Tứ là lòng yêu thương con sâu sắc, lòng nhân ái và đức hi
sinh cao cả. Ở nhân vật Tràng để lại cho người đọc bởi vẻ chân phác, hiền lành,
<i>thật thà. Còn ở người phụ nữ làm “Vợ Nhặt” kia lại là sự đảm đang, biết điều</i>
và hiền hậu. Đặc biệt người làng xóm ngụ cư hiện lên là những người đầy tình
nghĩa làng xóm, họ quan tâm và động viên Tràng. Để có thể thấy rằng, bức
tranh tối mịt ngày đói ấy vẫn le lói thứ ánh sáng của tình người. Chấp nhận
trong hoàn cảnh “một sống hai chết” ấy nhưng con người vẫn khơng đầu hàng
số phận.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

gắng chạy thốt sự rượt đuổi của tử thần. Việc Thị theo Tràng về làm vợ trong
hồn cảnh ấy quả thực khơng đáng khinh mà nó là khát vọng sống chính đáng
của con người.


Đồng thời, qua tác phẩm, nhà văn còn lên án mạnh mẽ đối với bọn thực dân,
phát xít. Chính thực dân Pháp và phát xít Nhật đã đẩy nhân dân lao động ta vào
cảnh khốn cùng.



<b>Giátrị hiện thực vànhân đạo trongtruyện Vợ nhặt- Mẫu 3</b>


Kim Lân đã có lần tâm sự “Ý nghĩa của truyện: trong sự túng đói quay quắt,
trong bất cứ hồn cảnh khốn khổ nào, người nơng dân ngụ cư vẫn khao khát
vươn lên trên cái chết, cái thảm đạm để mà vui, để mà hi vọng” (Cách mạng,
kháng chiến và đời sống văn học – NXB Tác phẩm mới, 1985).


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

tình yêu cũng làm sao tránh được sự méo mó. Chao ơi, tồn chuyện cười ra
nước mắt : bốn bát bánh đúc ngày đoó mà làm nên một mối tình, nồi cám ngày
đói đủ làm cỗ tân hơn…Ngịi bút khắc khổ của Kim Lân không né tránh mà săn
đuổi hiện thực đến đáy , tạo cho thiên truyện một cái “phông” đặc biệt, nhàu
nát, ảm đạm , tăm tối và phải nói là có phần nghiệt ngã.


Nhưng quan tâm chính của nhà văn khơng phải là dựng nên một bản cáo
trạng trong "Vợ nhặt", mà dồn về phía khác, quan trọng hơn. Từ bóng tối của
hoàn cảnh, Kim Lân muốn toả sáng một chất thơ đặc biệt của hồn người. Mảng
tối của bức tranh hiện thực đau buồn là một phép đòn bẩy cho mảng sáng về
tình người toả ra ánh hào quang đặc biệt của một chủ nghĩa nhân văn tha thiết
cảm động.


Trong văn chương, người ta nhấn mạnh chữ tâm hơn chữ tài. Song nếu cái
tài không đại đến một mức độ nào đó thì cái tâm kia làm sao bộc lộ ra được.
Vợ nhặt cũng thế : tấm lòng tha thiết của Kim Lân sở dĩ lay động người đọc
trước hết là nhờ tài dựng truyện và sau đó là tài dẫn truyện.


Tài dựng truyện ở đây là tài bạo nên tình huống truyện độc đáo. Ngay cái
nhan đề "Vợ nhặt" đã bao chứa một tình huống như thế. Trong một bài phóng
vấn, Kim Lân đã hào hứng giải thích : “Nhặt tức là nhặt nhạnh, nhặt vu vơ.
Trong cảnh đói năm 1945, người dân lao động dường như khó ai thốt khỏi cái
chết. Bóng tối của nó phủ xuống xóm làng. Trong hoàn cảnh ấy giá trị của một


con người thật vơ cùng rẻ rúng, ngươờ ta có thể có vợ theo, chỉ nhờ mấy bát
bánh đúc bán ngoài chợ – đúng là “nhặt đựoc vợ như tơi nói trong truyện
“ (Báo văn nghệ số 19, ngày 8 -5- 1993 –tr5). Như vậy thì cái thiêng liêng (vợ)
đã trở thành rẻ rúng (nhặt). Nhưng tình huống truyện cịn có một mạch khác:
cái chủ thể của hành động “nhặt” kia là Tràng, một gã trai nghèo xấu xí, dân
ngụ cư đang thời đói khát mà đột nhiên lấy đựoc vợ, thậm chí được vợ theo thì
quả là điều lạ. lạ tới mức nó tạo nên hàng loạt những kinh ngạc cho xóm làng,
bà cụ Tứ và chính bản thân Tràng nữa : “cho đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ
như khơng phải như thế . Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư?”.Tình huống tren gợi ra
mọt trạng thái tinh tế của lịng người : trạng thán chơng chênh khó nói


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11></div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

Tràng, cịn Thị Nở mới chấp chới tầm tay Chí Phèo thì đã bị cái xã hội đen tối
cướp mất. Có một chi tiết rất đắt của Kim Lân: “Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân,
hắn cũng muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà”. So với cái dáng
“ngật ngưỡng” mở đầu tác phẩm, hành động “xăm xăm” này của Tràng là một
đột biến quan trọng, một bước ngoặt đổi thay cả số phận lẫn tính cách của
Tràng: từ khổ đau sang hạnh phúc, từ chán đời sang yêu đời, từ ngây dại sang ý
thức. Chẳng thế mà Kim Lân đã thấy đủ điều kiện đặt vào dòng suy nghĩ của
Tràng một ý thức bổn phận sâu sắc: “Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn
thấy hắn có bổn phận lo lắng cho vợ con sau này”. Tràng đã thực sự “phục sinh
tâm hồn” – đó là giá trị lớn lao của hạnh phúc. Cô Kiều xưa “xăm xăm băng lối
vườn khuya một mình” thì táo bạo đấy mà vẫn cứ chênh vênh, đơn độc thế nào.
Cái xăm xăm của Tràng mới thực khỏe, tự tin làm sao!


Bình luận truyện Vợ nhặt, khơng hiểu sao có một câu rất quan trọng của
Kim Lân mà mọi người cứ bỏ qua. Đó là câu kết truyện: “Trong óc Tràng vẫn
thấy đám người đói lả và lá cờ đỏ bay phấp phới…”. Một câu kết như thế, chứa
đựng bao sức nặng về nghệ thuật sẽ sa vào lối kết cấu khép của văn học hiện
thực phê phán. Sự bổ sung chi tiết này tạo ra một kết cấu mở khiến Vợ nhặt
thực sự vượt qua phạm trù của văn học 1930 – 1945 để bước tới phạm trù của


nền văn học mới. Nhờ thế, thiên truyện đã đóng lại mà một số phận mới vẫn
tiếp tục được mở ra. Cái “lá cờ đỏ” kia như tín hiệu của một sự đổi đời. Nhân
vật Tràng tiếp tục vận động về phía niềm tin, về phía cuộc sống. “Lá cờ đỏ”
như gợi mở một sự thanh toán triệt để ở Tràng một số phận bế tắc kiểu anh Pha,
chị Dậu, Chí Phèo… Chi tiết này không phải là một mơ ước viển vông, một ảo
tưởng cổ tích mà có cơ sở chắn chắn từ trong hiện thực đời sống.


Q trình tâm lí của cụ Tứ có phần cịn phức tạp hơn nhân vật Tràng. Nếu ở
đứa con trai, niềm vui làm chủ, tâm lí phát triển theo chiều thẳng đứng phù hợp
với một chàng rể trẻ tuổi đang tràn trề hạnh phúc thì ở bà mẹ, tâm lí vận động
theo kiểu gấp khúc, hợp với những nỗi niềm trắc ẩn trong chiều sâu riêng của
người già từng trải và nhân hậu.


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng
con trai mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? Khơng phải con cái Đục. Ai
thế nhỉ? Rồi lại: “Ô hay, thế là thế nào nhỉ”. Trái tim người mẹ có con trai lớn
vốn rất nhạy cảm về điều này, vậy tại sao Kim Lân lại để cho nhân vật người
mẹ ngơ ngác lâu đến thế? Một chút quá đà, một chút “kịch” trong ngịi bút Kim
Lân? Khơng, nhà văn của đồng nội vốn không quen tạo dáng. Đây là nỗi đau
của người viết: Chính sự cùng quẩn của hồn cảnh đã đánh mất ở người mẹ sự
nhạy cảm đó.


Nếu ở Tràng, sự ngỡ ngàng đi thẳng tới niềm vui thì ở bà cụ Tứ, sự vận
động tâm lí phức tạp hơn. Sau khi hiểu ra mọi chuyện, bà lão “cúi đầu im lặng”.
Cái thương của bà mẹ nhân hậu mới bao dung làm sao: “Biết chúng nó có ni
nổi nhau sống qua được cơn đói khát này khơng?”. Trong chữ “chúng nó” ,
người mẹ đã đi từ lòng thương con trai sang con dâu. Trong chữ “cúi đầu”, bà
mẹ tiếp nhận hạnh phúc của con bằng kinh nghiệm sống, bằng sự trả giá của
một chuỗi đời nặng nhọc, bằng ý thức sâu sắc trước hoàn cảnh, khác hẳn anh
con trai tiếp nhận hạnh phúc bằng một nhu cầu, bằng một ước mơ tinh thần


phơi phới.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

tội nghiệp, bởi thực tại vẫn nghiệt ngã với nồi cháo cám “đắng cay và nghẹn
bùi”.


Thành công của nhà văn là đã thấu hiểu và phân tích được những trạng thái
khá tinh tế của con người trong hoàn cảnh đặc biệt. Và vượt lên hoàn cảnh vẫn
là một vẻ đẹp tinh thần của những người nghèo khổ. Cái thế vượt hoàn cảnh ấy
tạo nên nội dung nhân đạo độc đáo và cảm động của tác phẩm.


Thông điệp của Kim Lân là một thông điệp mang ý nghĩa nhân văn. Trong
tiểu thuyết nổi tiếng Thép đã tơi thế đấy, nhà văn Nga Nhicơlai Ơxtrơpxki đã
để cho nhân vật Paven Coocsaghin ngẫm nghĩ: “Hãy biết sống cả những khi
cuộc đời trở nên không thể chịu được nữa”. Vợ nhặt là bài ca về tình người ở
những kẻ nghèo khổ, đã “biết sống” cho ra người ngay giữa thời túng đói quay
quắt.


Thơng điệp của Kim Lân đã được chuyển hóa thành một thiêng truyện ngắn
xuất sắc với cách dựng tình huống truyện và dẫn truyện độc đáo, nhất là bút
pháp miêu tả tâm lí tinh tế, khiến tác phẩm mang chất thơ cảm động và hấp
dẫn.


<b>Giátrị hiện thực vànhân đạo trongtruyện Vợ nhặt- Mẫu 4</b>


<b>Vợ nhặt là một trong những truyện ngắn hay nhất của Kim Lân và văn học</b>
Việt Nam sau năm 1945, truyện được in trong tập Con chó xấu xí năm 1962.
Vốn xuất thân từ làng quê Việt Nam nên Kim Lân đã viết nên Vợ nhặt bằng tất
cả tâm hồn, tình cảm của một con người là con đẻ của đồng ruộng. Truyện
được xây dựng với nhiều tình huống gây ấn tượng mạnh đối với người đọc.
Song nổi bật trong tác phẩm là giá trị hiện thực và nhân đạo.



</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

rác rưởi và mùi gây của xác người… Dưới gốc đa… những người đói dật dờ
lặng lẽ đi như những bóng ma. Tiếng quạ., cứ gào lên từng hồi thê thiết, Qua
đây, người đọc cũng có thể hình dung được bộ mặt thật của bọn phát xít, thực
dân và tay sai của chúng. Điều này được gói gọn trong một câu nói đầy phẫn
uất của bà mẹ già: Tiếng thúc thuế đấy. Đằng thì nó bắt giồng đay, đằng thì nó
bắt đóng thuế. Giời đất này khơng chắc gì đã sống qua được đâu các con ạ!….


Tác phẩm còn phản ánh được một hiện thực cơ bản khác. Đó là tấm lịng
người dân hướng về cách mạng và sự vận động của cuộc sống hướng về tương
lai. Giữa những tiếng trống thúc thuế dồn sưu dồn dập là hình ảnh những người
nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp. Đằng trước có lá cờ đỏ to lắm vụt
hiện lên trong ý nghĩ của Tràng. Nó báo hiệu một bình minh mới của cách
mạng sẽ đến.


Bên cạnh nội dung hiện thực rộng lớn là giá trị nhân đạo sâu sắc. Qua tình
huống truyện độc đáo, qua tâm lý và số phận nhân vật, tác phẩm không cần đao
to búa lớn vẫn tố cáo được một cách sâu sắc tội ác tày trời của thực dân Pháp
và phát xít Nhật đã gây nên nạn đói thảm khốc khiến hai triệu người phải chết
đói. Bóng đen tử thần bao trùm lên tất cả, đè nặng lên số phận mỗi người dân
và mọi xóm làng. Trong bối cảnh bi thảm ấy, giá trị con người quá rẻ mạt. Nếu
như trong truyện thơ Tiễn dặn người yêu, cô gái Thái bị ép duyên, đã đau khổ
thở than: "Ngẫm thân em chỉ bằng thân con bọ ngựa" thì ở đây người đàn bà
mà Tràng nhặt được chỉ bằng mấy bát bánh đúc, một bữa cơm no và hai hào
dầu. Nạn đói đã đẩy con người đến chỗ xem miếng ăn là tất cả. Ngay cả đến cái
chuyện tỏ tình thường vẫn mang màu sắc tình tứ, e lệ, dun dáng, thì giờ đây
cũng chỉ cịn trơ trọi là một câu chuyện lăn xả vào miếng ăn. Vì đói khát cùng
đường mà khơng cịn giữ được sự e thẹn thông thường của người phụ nữ Việt
Nam. Chỉ mấy bát bánh đúc và vài lời nói tầm phào của gã đàn ông xa lạ, mà
người đàn bà kia đã ton ton chạy theo để trở thành vợ nhặt của Tràng. Ý nghĩa


nhân đạo khơng chỉ được tốt ra từ sự cảm thông cho thân phận khổ đau của
người dân nước Việt mà cịn được tốt ra từ sự tố cáo ấy.


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

lai tươi sáng. Đúng như tác giả đã có lần phát biểu: Trong sự túng đói quay
quắt, trong bất cứ hồn cảnh khốn khổ nào, người nông dân ngụ cư vẫn khao
khát vươn lên trên cái chết, cái ảm đạm mà vui mà hy vọng. Những người đói
họ khơng nghĩ đến cái chết, mà nghĩ đến cái sống (Kim Lân). Vợ chồng Tràng
vẫn lấy nhau giữa cảnh ngổn ngang xác người chết đói là vì vậy. Chút hạnh
phúc nhỏ nhoi, mong manh của hai người tuy bị bủa vây, bởi cái đói, cái chết
nhưng sự sống chẳng bao giờ chán nản, vẫn là bất diệt, vẫn sinh sôi nảy nở từ
bãi tha ma sặc mùi tử khí. Hạnh phúc tình u vẫn như làn gió xuân thổi về làm
xôn xao sự sống. Trong một lúc Tràng dường như quên hết những cảnh ê chề
tăm tối trước mắt, những tháng ngày đầy đe doạ phía trước. Lúc này trong lịng
hắn chỉ cịn tình nghĩa vói người đàn bà. Một cái gì lạ lắm… nó ơm ấp, mơn
man khắp da thịt Tràng. Sáng dậy thấy nhà cửa đổi khác, hắn cảm thấy lâng
lâng và thấy từ đây phải có trách nhiệm hơn với người thân và chính cuộc đời
mình. Ở bà cụ Tứ càng có những biểu hiện cảm động hơn. Niềm vui vì có con
dâu, vì hạnh phúc của con và niềm tin ở cuộc sống đã làm cho người mẹ nhanh
nhảu hơn. Cái khuôn mặt u ám, bủng beo của bà bỗng rạng rỡ hẳn lên.


Qua truyện Vợ nhặt, Kim Lân còn cho ta thấy trong hoạn nạn, con người
lao động, càng yêu thương nhau hơn và dù trong cảnh khó khăn, khốn cùng, họ
vẫn giữ được phẩm chất đẹp đẽ: đói cho sạch, rách cho thơm. Cuộc sống khắc
nghiệt đọa đầy con người, bắt họ phải sống cuộc sống của lồi vật, nhưng nó
khơng thể dập tắt được phần người, rất người trong lòng bà mẹ khốn khổ kia.
Ba mẹ con Tràng đã tìm thấy niềm vui trong sự nương tựa, cưu mang nhau mà
sống. Tình vợ chồng, mẹ con sẽ là động lực giúp họ có sức mạnh vượt qua cơn
hoạn nạn khủng khiếp này.


Như vậy những con người đã vượt qua mặc cảm đói nghèo, tủi hờn để


khẳng định sự sống, chắc chắn sẽ đi theo tiếng gọi của Việt Minh để giành sự
sống cho mình trong cách mạng. Vì Đảng ta… hồn người. Chọn tình huống Vợ
nhặt do nạn đói rùng rợn gây nên, Kim Lân không nhằm miêu tả sự mất giá, tha
hoá con người, ngược lại đã khẳng định khát vọng sống cịn và phẩm giá của
họ. Tình u cuộc sống của những con người nằm bên bờ cái chết đã trở thành
nguồn sáng, nguồn ấm áp sưởi ấm lịng người, thơi thúc họ đi tới cứu lấy đời
mình. Và cách mạng, Đảng đã dang đôi tay nhân hậu cứu vớt họ thật đúng lúc:


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17></div>

<!--links-->

×