Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Tải Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong bài thơ Tây Tiến - Tài liệu ôn thi THPT Quốc gia năm 2018

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.48 KB, 16 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Phân tích cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng trong bài thơ Tây</b>


<b>Tiến</b>


<b>I. Dàn bài chi tiết.</b>
<b>a. Giới thiệu</b>


Tây Tiến là một trong những bài thơ hay nhất viết về người chiến sĩ cầm súng, bảo
vệ Tổ quốc, tiêu biểu cho thơ ca Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp. Với
bút pháp lãng mạn, với cốt cách tài hoa và phong độ hào hùng của một nhà thơ
chiến sĩ, Quang Dũng đã chạm khắc vào thời gian, vào thơ ca, và lịng người hình
ảnh chiến sĩ vô danh của Thăng Long – Hà Nội, của dân tộc Việt Nam anh hùng.
Là một thi phẩm xuất sắc đạt gần đến độ tồn bích, bài thơ Tây Tiến ở đoạn nào
cũng có những câu đặc sắc, những hình ảnh thơ độc đáo. Nhưng sức hấp dẫn của
bài thơ chính là vẻ đẹp của chủ nghĩa lãng mạn và tinh thần bi tráng khi khắc họa
hình ảnh người lính Tây Tiến – người lính cách mạng xuất thân từ thành thị tham
gia vào cuộc kháng chiến gian khổ mà hào hùng của dân tộc.


<b>b. Thân bài </b>


<i><b>* Cảm hứng lãng mạn:</b></i>


<i>- Khái niệm: Cảm hứng lãng mạn trong văn học là cảm hứng khẳng định cái tơi</i>
tràn đầy cảm xúc, hướng về lí tưởng. Nó đi tìm cái đẹp trong những cái khác lạ,
phi thường độc đáo, vượt lên những cái tầm thường, quen thuộc của đời sống hàng
ngày, nó đề cao nguyên tắc chủ quan, phát huy cao độ sức mạnh của trí tưởng
tượng liên tưởng. Cảm hứng lãng mạn cũng thường tìm đến cách diễn đạt khoa
trương, phóng đại, đối lập, ngơn ngữ giàu tính biểu cảm và tạo được ấn tượng
mạnh mẽ. Cảm hứng lãng mạn trong văn học Việt Nam từ 1945 đến 1975 chủ yếu
được thể hiện trong việc khẳng định phương diện lí tưởng của cuộc sống mới, vẻ
đẹp con người mới, ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng và tin tưởng vào tương
lai tươi sáng của dân tộc. Cảm hứng lãng mạn đã trở thành cảm hứng chủ đạo


trong sáng tác, nó nâng đỡ con người có thể vượt lên mọi thử thách trong máu lửa
của chiến tranh gian khổ để hướng đến ngày chiến thắng.


<i>- Biểu hiện</i>


+ Cảm hứng lãng mạn thể hiện đậm nét trước hết ở cái tơi của Quang Dũng. Nó
trào ra từ đầu bài thơ đầy ắp và mãnh liệt một nỗi nhớ - nhớ chơi vơi, một nỗi nhớ
rất lạ, hình như nhẹ tênh mà nặng trĩu vô cùng, để rồi sau đó tn chảy ào ạt như
một dịng suối trong suốt bài thơ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi”


Nỗi nhớ trải dài theo dịng sơng Mã trùng điệp theo hình non thế núi. Nhớ đến hụt
hẫng, trống vắng trong lịng người. Tây Tiến là một đồn qn, nhưng tiếng gọi
“ơi” lại trìu mến như tiếng gọi với một người thân. Ba vần “ơi” như da diết vang
vọng vào vách núi. Đó là nỗi nhớ của tác giả với Tây Bắc và đoàn quân Tây Tiến.
Nỗi nhớ da diết, lan tỏa thấm đượm trong từng câu thơ, hình ảnh thơ. Cái tơi
Quang Dũng có mặt khắp nơi, lắng đọng từng chỗ, từ cảnh chiến trường hiểm trở,
hoang sơ đến cảnh sơng nước thanh bình thơ mộng đến đêm hội đuốc hoa đầy màu
sắc xứ lạ phương xa, từ nỗi nhớ bản làng “Mai Châu mùa em thơm nếp xôi” đến
“Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” thật hào hoa, lãng mạn.


+ Cảm hứng lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến còn thể hiện đậm nét trong bút pháp
lãng mạn. Những thủ pháp cường điệu, đối lập được sử dụng rộng rãi, sáng tạo đã
tô đậm cái phi thường, tạo nên ấn tượng mạnh mẽ về cái hào hùng, hùng vĩ và cái
tuyệt mĩ của con người và thiên nhiên.


Thiên nhiên miền Tây Bắc qua ngòi bút lãng mạn của Quang Dũng được cảm
nhận với vẻ đẹp đa dạng, vừa độc đáo, vừa hùng vĩ dữ dội, vừa thơ mộng trữ tình,
vừa hoang sơ mà ấm áp, làm say lịng người. Trí tưởng tượng bay bổng khiến thi


nhân hình dung ra một “đêm hơi’, khơng chỉ có sương rừng ướt lạnh mà cịn có cái
lãng đãng, huyền ảo, cảm được cái oai linh của thần núi, thấy được cái “hồn lau
nẻo bến bờ” và nghe thấu được cả tiếng “Sông Mã gầm lên khúc độc hành”.


Nhà thơ nhớ những cuộc hành quân gian khổ qua những chặng đường núi non
hiểm trở, thử thách ghê gớm với các chiến sĩ Tây Tiến vốn là những thanh niên đất
Hà thành lần đầu tiên đến Miền Tây. Các tên bản, tên mường như Sài Khao,
Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch... được nhắc đến khơng chỉ gợi bao nỗi nhớ
vơi đầy mà cịn để lại nhiều ấn tượng về sự xa xôi, heo hút, hoang sơ. Nó vừa gợi
ra sự gian nan, bí ẩn, thách thức, vừa gựi sự tò mò, háo hức của những chàng trai
thành thị. Tất cả khung cảnh thiên nhiên đều được khắc họa với ấn tượng mạnh
nhất. Đoàn binh hành quân trong sương mù ẩm ướt dày đặc đến mức che lấp cả
đoàn quân. Nhưng ngay trong cảnh khắc nghiệt, người chiến sĩ Tây Tiến vẫn phát
hiện ra vẻ đẹp của “hoa về trong đêm hơi”. Những bông hoa núi với hương thơm
ngan ngát hiện ra dần dần mờ ảo qua đêm sương, qua cái nhìn say mê lãng mạn,
khiến cái mệt mỏi của đoàn quân dường như tan biến. Bao đèo cao, dốc thẳm dựng
thành phía trước mà người chiến sĩ Tây Tiến phải vượt qua:


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Dốc lên thì khúc khuỷu, gập ghềnh, ngoằn ngoèo; dốc xuống thì thăm thẳm, dựng
đứng. Câu thơ giàu chất tạo hình như họa lại một chặng đường hành quân hiểm
trở. Dốc núi ngoằn ngoèo, dốc vút lên ngàn thước, rồi lại đổ xuống thẳng đứng
ngàn thước. Câu thơ cũng gập ghềnh với nhiều thanh trắc và cách ngắt nhịp 4/3 bẻ
gập câu thơ tạo thế núi hoang dại, khủng khiếp. Độ cao của dốc như được đo bằng
hơi thở dồn dập của người lính vượt đèo, nên càng ấn tượng. Những đỉnh núi cao
mù sương, cao vút như chạm mây, mây nổi thành cồn heo hút ở lưng trời. Mũi
súng trên vai của của người chiến binh được nhân hóa tạo thành hình ảnh “súng
ngửi trời” vừa diễn tả được độ cao ngất, hoang sơ, lạ lẫm vừa hàm chứa vẻ đẹp
tâm hồn người lính. Đó là chất tinh nghịch, hồn nhiên rất lính của người chiến
binh Tây Tiến.



Thiên nhiên hồnh tráng, hùng vĩ nhưng người lính khơng hề bị chìm đi mà vẫn
nổi lên đầy thách thức. Nó khẳng định ý chí và quyết tâm của người chiến sĩ chiếm
lĩnh mọi tầm cao để đi tới. Thiên nhiên núi đèo xuất hiện như để thử thách lịng
người, người lính trèo lên đỉnh núi như đi trong mây quả cảm và lãng mạn vơ
cùng.


Cảnh đồn qn đi trong mưa: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” thật dữ dội mà
nên thơ. Mưa mịt mù khiến những ngôi nhà sàn Pha Lng ở lưng chừng núi thấp
thống trong mưa như bồng bềnh trên biển khơi. Câu thơ tồn thanh bằng gợi
khơng gian mênh mơng, ngập chìm trong mưa qua cái nhìn từ trên cao trải xuống.
Trong màn mưa rừng, tầm nhìn của người lính Tây Tiến vẫn hướng về những bản
mường, những mái nhà dân hiền lành, yêu thương, nơi các anh đã và đang đem
máu xương và lòng dũng cảm để bảo vệ.


Gian khổ với các chiến sĩ còn là “thác gầm thét” dữ dội hòa với tiếng hú man dại,
ghê gớm của thú rừng. “Cọp trêu người” như mang theo cái oai linh, bí ẩn của
rừng đại ngàn. Vẻ hoang dại ấy không chỉ mở ra ở không gian cụ thể mà còn được
khám phá ở thời gian “đêm đêm”, “chiều chiều”. Tác giả miêu tả thời gian, nhưng
lại gợi được không gian núi rừng, lúc nào cũng âm u, hoang vu như trong bóng tối.
Nó ln là mối đe dọa sẵn sàng nuốt chửng con người. Đặc biệt họ tồn là những
người lính trẻ thủ đơ mới lần đầu rời thành phố đến rừng đại ngàn. Vì thế ấn tượng
về Tây Bắc với những địa danh xa ngái, càng xa lạ, dữ dội, ác liệt, không kém
cuộc đọ sức với quân thù. Nhưng cảnh ấy cũng càng kích thích chiến sĩ khơng
ngại ngần xơng pha với tinh thần hào hứng hăng say.


Đối lập với sự khắc nghiệt là vẻ đẹp tuyệt mĩ của thiên nhiên Tây Bắc. Vẻ đẹp thơ
mộng của thiên nhiên Tây Bắc như được kết bằng hoa rừng: “Mường Lát hoa về
trong đêm hơi”; “Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”. Đặc biệt đoạn thơ:


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ


Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trơi dịng nước lũ hoa đong đưa”


Tất cả gợi nhớ cảnh Châu Mộc trong một buổi chiều sương phủ trên dịng nước
mênh mơng, hoang dại thật huyền ảo. Cảnh vật như nhòe đi, như mềm mại và có
hồn hơn. Chữ “ấy” ở câu trên và chữ “thấy” ở câu dưới bắt thành một vần lưng
giàu âm điệu. Hoa lau nở trắng sáng, lá lau lay động xào xạc trong gió vốn là
những thi liệu cổ điển quen thuộc nhưng khi đi vào thơ của Quang Dũng như
mang hồn lưu luyến của cảnh chia li. Nổi bật trên dòng nước là dáng uyển chuyển
thanh tú trên thuyền độc mộc của các cơ gái Tây Bắc. Hình ảnh “hoa đong đưa”
vừa là hình ảnh tả thực: những bơng hoa khẽ lay động đong đưa làng duyên trên
dòng nước lũ vừa như ẩn dụ, gợi tả vẻ đẹp của các cô gái Tây Bắc như những
bông hoa rừng đong đưa trên sơng nước. Đó là những vần thơ thi trung hữu họa,
khiến người đọc như lạc vào cái đẹp của cõi mơ. Mơ những rất thực, làm say lòng
người, nhất là các chiến sĩ Tây Tiến lãng mạn, trẻ trung, nó ẩn chứa tình u sâu
nặng với thiên nhiên đất nước của Quang Dũng và của các chiến sĩ Tây Tiến.
Hình ảnh những cơ gái Tây Bắc, những con người Tây Bắc được gợi nhớ trong bài
thơ càng tơ đậm thêm chất huyền bí, thơ mộng của núi rừng. Sau bao ngày đêm
hành quân gian khổ, băng rừng vượt núi, trèo đèo lội suối, những người lính tạm
dừng chân bên bản làng quây quần bên những nồi xơi bốc khói. Mùi thơm hương
nếp mới và ấm tình quân dân đã xua tan bao nhọc nhằn gian khổ:


“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xơi”


Gói xơi ấm tình cơ gái Mai Châu, những cô gái miền sơn cước xinh đẹp làm
nhiệm vụ nuôi quân không quản ngại vất vả, hiểm nguy đã để lại trong lịng người
lính trẻ một nỗi nhớ khơng ngi. Nỗi nhớ cất lên thành lời tha thiết “Nhớ ôi Tây
Tiến cơm lên khói”. Hai chữ “mùa em” kết tinh cả hương nếp ngày mùa lẫn tình
em ấm áp. Làng bản Mai Châu, bóng hình sơn nữ, hương nếp xơi quyện lại trong


hình ảnh thơ thành nỗi nhớ ngọt ngào, bâng khuâng, lãng mạn trong tâm hồn của
người lính trẻ.


Những đêm liên hoan văn nghệ ở doanh trại bừng lên sôi nổi, vui tươi trong ánh
lửa đuốc lung linh, trong âm thanh của tiếng kèn réo rắt, trong tâm hồn say sưa
đắm đuối của người lính trẻ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”


Ngọn đuốc rừng thắp sáng đêm liên hoan văn nghệ truyền thống đã thành “hội
đuốc hoa” khiến khung cảnh tuy thiếu thốn mà rực rỡ lung linh bao ước mơ, hạnh
phúc. Hai chữ “kìa em” diễn tả cái nhìn ngỡ ngàng đến say mê, rạo rực của người
lính trẻ. Hình ảnh các cơ gái Tây Bắc bất ngờ hiện ra lộng lẫy trong bộ áo xiêm
rực rỡ dưới ánh đuốc lung linh nhưng vẫn giữ nguyên vẻ e ấp, tình tứ trong điệu
múa lạ như múa sạp, múa xòe... trong tiếng khèn mang linh hồn của núi rừng càng
trở nên lôi cuốn. Tâm hồn các chiến sĩ mộng mơ, lãng mạn. Nét đẹp những đêm
liên hoan văn nghệ trên biên cương xa xôi như đã “xây hồn thơ” cho thấy tâm hồn
trong sáng, giàu mộng mơ, giàu lí tưởng trong kí ức của chiến sĩ trẻ. Giọng thơ
hân hoan, say mê hoài niệm nhung nhớ một thời gian khổ mà hào hùng, lãng mạn
đầy ắp nghĩa tình. Qua đó càng cho thấy đời sống tinh thần vô cùng trong sáng,
phong phú, lãng mạn của đoàn quân Tây Tiến ở nơi chiến trường gian khổ ác liệt
xưa.


Đặc biệt bức chân dung người lính Tây Tiến được vẽ những nét vẽ phi thường,
khác lạ:


“Tây Tiến đồn binh khơng mọc tóc
Qn xanh màu lá giữ oai hùm”



Cả đồn binh khơng mọc tóc ví sốt rét rừng khắc nghiệt, hoặc vì chủ trương cạo
trọc tóc để tiện cho việc đánh giáp lá cà với địch. Quang Dũng không né tránh
hiện thực của cuộc kháng chiến gian khổ này. Thơ ca kháng chiến chống Pháp
cũng thường nói về căn bệnh sốt rét rừng: “Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh. Sốt
run người vầng trán ướt mồ hôi” trong Đồng chí của Chính Hữu.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

cho tổ quốc. Nhưng bên ngồi dáng vẻ oai phong đó là tâm hồn trẻ trung, trong
sáng, giàu mộng mơ. “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” – lối diễn đạt này có vẻ
cầu kì nhưng phù hợp với tâm hồn những người lính trẻ thu đơ xa người u đi
kháng chiến. Nhớ về các cơ gái hà thành, bóng dáng những thiếu nữ Hà Nội yêu
kiều thơ mộng không hề phai nhạt trong tâm hồn những người lính ngay cả trong
khói lửa chiến tranh. Lãng mạn đó là vẻ đẹp lạc quan, yêu đời của những người
lính xuất thân từ thành thị đi kháng chiến.


<i><b>* Tinh thần bi tráng</b></i>


<i>- Khái niệm: bi tráng trong tác phẩm văn học được thể hiện ở việc miêu tả hiện</i>
thực, không né tránh cái bi, tức cái gian khổ, đau thương. Cái bi nhưng không phải
là bi lụy mà là bi tráng, hào hùng. Là cái chết nhưng không bi lụy mà là cái chết
hào hùng lẫm liệt, cái chết đi vào cõi bất tử. Cái bi thường được biểu hiện ở giọng
điệu, âm hưởng, màu sắc tráng lệ hào hùng.


<i>- Biểu hiện:</i>


+ Tinh thần bi tráng trong bài thơ Tây Tiến thể hiện ở chỗ lời thơ không né tránh
cái bi, thường đề cập đến cái chết, nhưng đó khơng phải là cái chết bi lụy mà là cái
chết hào hùng, mãnh liệt, cái chết của người chiến sĩ đi vào cõi bất tử.


Trên nền thiên nhiên Tây Bắc dữ dội và huyền ảo, nhà thơ tơ đậm hình ảnh đồn


qn Tây Tiến hào hùng và hào hoa bằng bút pháp lãng mạn, nhưng khơng thốt li
hiện thực và cảm hứng bi tráng. Bài thơ viết về chiến tranh, nhưng Quang Dũng
không hề nói đến trận đánh, tiếng súng. Nhưng người đọc vẫn hình dung được sự
khốc liệt của chiến tranh. Bởi bài thơ viết nhiều về sự hi sinh của người lính.
Nhưng bằng ngòi bút tài hoa lãng mạn và cảm hứng bi tráng, Quang Dũng đã miêu
tả điều đó một cách thấm thía, xúc động, hào hùng. Cái chết, sự hi sinh bao giờ
cũng gợi cảm xúc đau thương. Hình ảnh những nấm mồ “rải rác biên cương mồ
viễn xứ” càng nhân lên cảm xúc bi thương đó, nhưng cách Quang Dũng dùng từ
Hán Việt trang trọng đã khiến cái bi thương lạnh lẽo mờ đi. Hơn nữa câu thơ tiếp
theo:


“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Các tráng sĩ xưa ở chốn sa trường từng lấy da ngựa bọc thây làm niềm kiêu hãnh
thì ở đây các chiến sĩ Tây Tiến với chiếc chiếu đơn sơ của đồng bào tặng hay chỉ
bằng tấm áo đẫm máu và mồ hôi của các anh cũng tạc nên sự hi sinh bất tử. Sự kết
hợp một từ Hán Việt và một từ thuần Việt: “áo bào” khiến tấm áo liệm thân của
liệt sĩ trở nên trang trọng. Sự hi sinh của các anh là “về đất”, về lòng đất mẹ thân
yêu. Một sự hi sinh thầm lặng, thanh thản như một chiến sĩ đã hoàn thành nhiệm
vụ. Giây phút vĩnh biệt đồng đội vang lên không phải bằng lời ngợi ca hay những
giọt nước mắt, mà trong tiếng gầm của dòng Sơng Mã như một “khúc độc hành”
bi tráng. Dịng sơng được nhân hóa như có linh hồn, có tâm trạng, cất lên tiếng
khóc xót xa, thương tiếc, uất hận căm thù trong âm hưởng dữ dội, hào hùng của
Sông Mã. Sự hi sinh của người lính Tây Tiến thấm đẫm tinh thần bi tráng và đậm
đà chất sử thi. Và từ đây các anh đã hòa quyện vào cỏ cây, sông núi, trở thành hồn
thiêng của đất nước. Bài thơ 3 lần nói đến cái chết, cái chết nào cũng đẹp, nhưng
đẹp nhất là cái chết trang trọng này:


“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”



Sang trọng vì được bao bọc trong tấm chiến bào, được về tụ nghĩa với đất mẹ quê
hương và nhất là được thiên nhiên tấu lên khúc nhạc dữ dội và oai hùng để tiễn
đưa hương hồn các chiến sĩ. Ở đây thủ pháp nhân hóa và cường điệu đã đẩy chất
bi tráng lên đến đỉnh cao, kì diệu của nó.


Chất bi tráng làm nên sắc diện bài thơ có mặt trong cả tác phẩm, nhưng nổi rõ và
in dấu đậm nét nhất chính là đoạn Quang Dũng miêu tả chân dung người lính Tây
Tiến. Những cặp hình ảnh đối lập giữa ngoại hình tiều tụy với phong thái “dữ oai
hùm”; giữa “mắt trừng” và “đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”; và nhất là sự đối
lập giữa gian khổ, hi sinh với lí tưởng vì nước qn thân khiến sự hi sinh của
người lính Tây Tiến trở nên cao đẹp bi hùng. Chiến trường Tây Tiến ác liệt hoang
vu, nhiều thú dữ, bệnh sốt rét rừng gây nhiều tử vong... Nhiều chiến sĩ ngã xuống
trên con đường hành quân là cái bi, là hiện thực khốc liệt của chiến trường, Quang
Dũng đã không né tránh cái bi nhưng cái bi mang màu sắc, âm hưởng tráng lệ, hào
hùng. Cái tráng này là của Quang Dũng và của cả một lớp trai trẻ sống với bầu
máu nóng: “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Cái tráng ấy lại gặp luồng gió yêu
nước của thời đại anh hùng rực lửa nên càng hào hùng, rực rỡ. Đúng là bài thơ đã
lột tả được cái khí phách của một thời đại và chắp cánh cho cái bi tráng bay lên
như một nét đẹp hiếm có của một thời đại thơ.


<b>c. Kết luận:</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

mạn, hào hùng của thi nhân cùng nhân vật trữ tình là những người lính Tây Tiến
cũng hào hoa, lãng mạn, với cái thời anh hùng rực lửa của buổi đầu của cuộc
kháng chiến chống Pháp, và chiến trường Tây Tiến ác liệt, dữ dội nhưng lại rất thơ
mộng, trữ tình. Bốn yếu tố khách quan và chủ quan này như đã hội tụ mãnh liệt và
da diết trong nỗi nhớ của Quang Dũng để trào ra cảm hứng lãng mạn và bật thành
tinh thần bi tráng trong phút xuất thần của hồn thơ để sinh ra đứa con đầu lòng hào
hoa tráng kiện – Tây Tiến.



Như vậy, cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng luôn gắn bó với nhau, nâng đỡ
nhau, cộng hưởng với nhau làm nên linh hồn bất diệt của bài thơ và tạo nên vẻ đẹp
độc đáo của chân dung người lính Tây Tiến và vẻ đẹp đặc sắc của thi phẩm. Có
những bài thơ đã sống cuộc đời thăng trầm và cũng quá nhiều truân chuyên, nhưng
cuối cùng cũng định hình trong lịng độc giả và khẳng định giá trị đích thực của
mình trong thi ca. Tây Tiến của Quang Dũng là một tác phẩm như thế. Bài thơ nhớ
lại như một kỉ niệm đẹp của thời kháng chiến, bởi đó là tiếng thơ tràn đầy cảm
hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng của một thời đại anh hùng rực lửa, không thể
nào quên. Cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng đã làm nên vẻ đẹp riêng và giá
trị bền vững của bài thơ Tây Tiến. Đó là vẻ đẹp của một thời hoa lửa hào hùng một
đi không trở lại. Những tiếng thơ bi tráng và hồn thơ lãng mạn hào hoa của Quang
Dũng đã kịp ghi lại và giữ cho đời một khung cảnh chiến trường đã đi vào lịch sử
-một tượng đài bất tử bằng thơ về người lính vơ danh ưu tú của dân tộc mà người
đọc muôn đời yêu quý, tự hào.


<b>Bài số 1</b>


Nhắc đến nhà thơ Quang Dũng không ai không thể ko nhớ đến Tây Tiến. Bởi lẽ nó
đã gắn bó 1 thời sâu sắc với nhà thơ, một kiệt tác văn học. Quang Dũng là nhà thơ
tiêu biểu của chùm thơ chiến sĩ. Với lời thơ hào hùng, lãng mạn những sáng tác
của ông đều để lại âm vang trong lòng người đọc cho đến tận ngày nay. Và "Tây
Tiến" là một trong những tác phẩm như thế.


Khoảng cuối mùa xuân năm 1947, Quang Dũng gia nhập đoàn quân Tây


Tiến. Đó là một đơn vị thành lập vào đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp


với bộ đội Lào để bảo vệ biên giới Lào_Việt, đánh tiêu hao địch ở Thượng


lào để hỗ trợ cho cuộc kháng chiến ở những vùng khác trên đất Lào. Điạ bàn


hoạt động cuả đoàn quân Tây Tiến khá rộng, bao gồm vùng rừng núi Tây


Bắc Việt Nam và Thượng Lào: từ Châu Mai, Châu Mộc sang tận Sầm Nứa



rồi vòng về qua miền tây Thanh Hố. những nơi này lúc đó cịn rất hoang vu


và hiểm trở, n cao, sơng sâu, rừng dầy, nhiều thú dữ.



</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Vượt lên trên mọi thử thách khắc nghiệt cuả chiến tranh và hoàn cảnh sống cực kì gian
khổ, họ vẫn giữ được cái cốt cách hào hoa, thanh lịch, rất yêu đời và cũng rất lãng mạn.
Bài thơ "Tây Tiến" có 2 đặc điểm nổi bật: cảm hứng lãng mạn và tinh thần bi tráng.
Cảm hứng lãng mạn thể hiện ở "cái tơi" đầy tình cảm, cảm xúc cuả nhà thơ. Nó phát huy
cao độ trí tưởng tượng, sử dụng rộng rãi những yêú tố cường điệu và phóng đại, những
thủ pháp đối lập để tô đậm cái phi thường, tạo nên ấn tượng mạnh mẽ về cái hùng vĩ và
cái tuyệt mĩ.


Thiên nhiên Tây Bắc qua ngòi bút lãng mạn cuả Quang Dũng, được cảm nhận với vẻ đẹp
vưà đa dạng vưà độc đáo, vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, hoang sơ mà ấm áp. Hình ảnh
những cơ gái, những con người Tây Bắc càng tô đậm thêm chất huyền bí, thơ mộng cuả
núi rừng. Chất lãng mạn được thể hiện chủ yếu ở cảm hứng hướng tới cái cao cả, sẵn
sàng xả thân, hi sinh tất cả cho lí tưởng chung cuả cộng đồng, cuả toàn dân tộc.


"Tây Tiến" không hề che giấu cái bi. Nhưng bi mà không bi lụy. Cái bi được thể hiện
bằng một giọng điệu, âm hưởng, màu sắc tráng lệ, hào hùng. Chất lãng mạn hoà hợp với
chất bi tráng, tạo nên vẻ đẹp độc đáo cuả bài thơ. Cảm xúc chủ đạo xuyên suốt bài thơ là
một nỗi nhớ da diết, bao trùm lên cả không gian và thời gian:


"Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng nuí nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi


Mường Lát hoa về trong đêm hơi"


Nỗi nhớ đơn vĩ cũ trào dâng, khơng kìm nén nổi, nhà thơ đã thốt lên thành tiếng gọi. Hai
chữ "chơi vơi" như vẽ ra trạng thái cụ thể cuả nỗi nhớ, hình tượng hố nỗi nhớ, khơi


nguồn cho cảnh núi cao, sông sâu, vực thẳm, rừng dầy v.v… liên tiếp xuất hiện ở những
câu thơ sau:


"Dốc lên khúc khủyu dốc thăm thẳm
heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống


Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi"


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

dội, hoang vu và heo hút cuả núi rừng Tây Bắc, điạ bàn hoạt động cuả đoàn quân Tây
Tiến. Hai câu thơ đầu, những từ đầy giá trị tạo hình "khúc khủyu", "thăm thẳm", "cồn
mây", "súng ngửi trời" đã diễn tả thật đắc điạ sự hiểm trở, trùng điệp và độ cao ngất trời
cuả núi đèo Tây Bắc. Hai chữ "ngửi trời" được dùng rất hồn nhiên và cũng rất táo bạo,
vưà ngộ nghĩnh, vưà có chất tinh nghịch cuả người lính. Núi cao tưởng chừng chạm mây,
mây nổi thành cồn "heo hút".Người lính trèo lên những ngọn nuí cao dường như đang đi
trên mây, mũi súng chạm tới đỉnh trời. Câu thứ 3 như bẻ đôi, diễn tả dốc núi vút lên, đổ
xuống gần như thẳng đứng, nhìn lên cao chót vót, nhìn xuống sâu thăm thẳm.


Nếu như câu thứ ba nhìn lên và nhìn xuống thì câu thứ tư là nhìn ngang. Có thể hình
dung cảnh những người lính tạm dừng chân bên một dốc núi, phóng tầm mắt ngang ra xa
qua một khơng gian mịt mùng sương rừng mưa núi thấp thống những ngôi nhà như đang
bồng bềnh trôi giưã biển khơi. Bốn câu thơ này phối hợp với nhau, tạo nên một âm hưởng
đặc biệt. Sau ba câu thơ được vẽ bằng những nét gân guốc, câu thứ tư được vẽ bằng một
nét vẽ rất mềm mại (câu thứ tư toàn thanh bằng). Quy luật này cũng giống như cách sử
dụng những gam màu trong hội hoạ: giữa những gam màu nóng, tác giả sử dụng một gam
màu lạnh làm dịu lại, như xoa mát cả khổ thơ.


Cái vẻ hoang dại dữ dội, chưá đầy bí mật ghê gớm cuả nuí rừng Tây Bắc được nhà thơ
tiếp tục khai thác. Nó khơng chỉ được mở ra theo chiều khơng gian mà cịn được khám
phá ở cả chiều thời gian, ln luôn là mối đe doạ khủng khiếp đối với con người.



"Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người"


Vậy là cảnh núi rừng Tây Bắc hoang sơ và hiểm trở, qua ngòi bút Quang Dũng, hiện lên
với đủ cả núi cao, vực sâu, dốc thẳm, mưa rừng, sương núi, thác gầm, cọp dữ v.v…
những tên đất lạ Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, những hình ảnh đầy giá
trị tạo hình, những câu thơ nhiều vần trắc đọc lên nghe vất vả và nhọc nhằn được xoa dịu
bằng những câu thơ có nhiều vần bằng ở cuối mỗi khổ thơ, đã phối hợp với nhau thật ăn
ý, làm hiện hình lên thế giới khác thường vưà đa dạng, vưà độc đáo cuả núi rừng Tây
Bắc. Đoạn thơ kết thúc đột ngột bằng hai câu thơ:


"Nhớ ơi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu m em thơm nếp xôi"


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

Đoạn thơ thứ hai mở ra một thế giới khác cuả Tây Bắc. Cảnh núi rừng hoang vu, hiểm
trở, dữ dội lùi dần rồi khuất hẳn để bất ngờ hiện ra vẻ mĩ lệ, thơ mộng, duyên dáng cuả
miền đất này. Những nét vẽ táo bạo, khoẻ, gân guốc ở đoạn thơ đầu, đến đoạn thơ này
được thay bằng những nét mềm mại, uyển chuyển, tinh tế. Và ngòi bút tài hoa của Quang
Dũng cũng được bộc lộ rõ nhất trong đoạn thơ này. Hồn thơ lãng mạn cuả Quang Dũng bị
hấp dẫn trước những vẻ đẹp mang màu sắc bí ẩn cuả con người và cảnh vật nơi xứ lạ,
phương xa.


Cảnh ấy, người ấy được thể hiện lên trong một thời gian làm nổi rõ nhất vẻ lung linh,
huyền ảo cuả nó: cảnh một đêm liên hoan lưả đuốc bập bùng và cảnh một buổi chiều
sương phủ trên sông nước mênh mang. Cảnh một đêm liên hoan văn nghệ cuả những
người lính Tây Tiến có đồng bào địa phương đến góp vui được miêu tả bằng những chi
tiết rất thực mà cũng rất mộng, rất ảo:


Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa


Kià em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu buồn e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ"


Cả doanh trại "bừng sáng", tưng bừng, sôi nổi hẳn lên khi đêm văn nghệ bắt đầu. Trong
ánh sáng lung linh cuả ngọn lưả đuốc trong âm thanh réo rắt cuả tiếng khèn, cả cảnh vật,
cả con người đều như ngả nghiêng, bốc men say, ngất ngây, rạo rực. Hai chữ "kìa em" thể
hiện một cái nhìn vưà ngỡ ngàng, ngạc nhiên, vưà mê say, vui sướng. Nhân vật trung tâm,
linh hồn cuả đêm văn nghệ là những cô gái nơi núi rừng tây bắc bất ngờ hiện ra trong
những bộ xiêm áo lộng lẫy vừa e thẹn, vưà tình tứ trong một vũ điệu đậm màu sắc xứ lạ
đã thu hút cả hồn viá những chàng trai Tây Tiến. Nếu cảnh một đêm liên hoan đem đến
cho người đọc khơng khí mê say, ngây ngất thì cảnh sơng nước Tây Bắc lại gợi lên được
cái cảm giác mêng mang, mờ ảo:


"Người đi Châu Mộc chiều sương ấy
Có thấy hồn lau nẻo bến bờ
Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trơi dịng nước lũ hoa đong đưa"


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

duyên trên dòng nước lũ. Ngịi bút tài hoa của Quang Dũng khơng tả mà chỉ gợi, vậy mà
cảnh vật thiên nhiên xứ sở qua ngồi bút cuả ơng như có hồn phảng phất trong gió, trong
cây. Ơng khơng chỉ làm hiện lên trước mắt người đọc vẻ đẹp cuả thiên nhiên mà còn gợi
lên cái phần thiêng liêng cuả cảnh vật. Đọc đến đoạn thơ này ta như lạc vào thế giới cuả
cái đẹp, thế giới cuả cõi mơ, cuả âm nhạc. Bốn câu thơ đầu ngân nga như tiếng hát, như
nhạc điệu cất lên tự tâm hồn ngây ngất, say mê cuả những người lính Tây Tiến. Hơn ở
đâu hết, trong đoạn thơ này, chất thơ và chất nhạc hoà quyện với nhau đến mức khó mà
tách biệt. Trên cái nền hùng vĩ, hiểm trở cuả núi rừng và duyên dáng, thơ mộng, mĩ lệ cuả
Tây Bắc, đến đoạn thơ thứ ba, hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến xuât hiện
với một vẻ đẹp đầy tính chất bi tráng:



"Tây Tiến đồn binh khơng mọc tóc
Qn xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gởi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"


Quang Dũng đã chọn lọc, đã tinh lọc những nét tiêu biểu nhất cuả những người lính Tây
Tiến để tạc nên bức tượng đài tập thể đặng khái quát được cái gương mặt chung cuả cả
đoàn quân. Cái bi và cái hùng là hai chất liệu chủ yêú cuả bức tượng đài, chúng hoà
quyện, xâm nhập vào nhau, nương tựa, nâng đỡ nhau, tạo nên vẻ đẹp bi tráng – cái thần
thái chung cuả cả bức tượng đài. Thơ ca thời kháng chiến chỉ viết về người lính thường
nói đến căn bệnh sốt rét hiểm nghèo. Chính Hữu trong bài "Đồng chí" đã trực tiếp miêu
tả căn bệnh ấy:


"Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hơi"


Cịn Tố Hữu, khi vẽ chân dung anh vệ quốc quân trong bài "Cá nước" với những hình
ảnh thật cụ thể:


"Giọt giot mồ hơi rơi
Trên má anh vàng nghệ"


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

Tây Tiến người thì cạo trọc đầu để thuận lợi tiến khi đánh nhau giáp lá cà với địch, người
thì bị sốt rét đến rụng tóc trọc đầu.


Cái vẻ xanh xao vì đói khát, vì sốt rét cuả những người lính, qua cái nhìn cuả Quang
Dũng vẫn tốt lên cái oai phong dữ dằn cuả những con hổ nơi rừng thiêng. Cái vẻ oai
phong, lẫm liệt ấy còn được thể hiện qua ánh mắt giận dữ "mắt trừng gửi mộng" cuả họ.
Những người lính Tây Tiến, qua ngịi bút cuả Quang Dũng, khơng phải là những người
khổng lồ khơng tim. Cái nhìn nhiều chiều cuả Quang Dũng đã giúp ơng nhìn thấy xun


qua cái vẻ oai hùng dữ dằn bề ngoài cuả họ, là những tâm hồn, những trái tim rạo rực,
khao khát yêu đương (Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm).


Như vậy, trong khổ thơ này, Quang Dũng đã tạc nên bức tượng đài tập thể những người
lính Tây Tiến khơng chỉ bằng những đường nét khắc hoạ dáng vẻ bên ngoài mà còn thể
hiện được cả thế giới tâm hồn bên trong đầy mộng mơ cuả họ. Ngòi bút cuả Quang Dũng
khi dựng lên hình tượng tập thể những người lính Tây Tiến khơng hề nhấn chìm người
đọc vào cái bi thương, bi lụy. Cảm hứng cuả ơng mỗi khi chìm vào cái bi thương lại được
nâng đỡ bằng đôi cánh cuả lí tưởng, cuả tinh thần lãng mạn. Chính vì vậy mà cái bi
thương được gọi lên qua hình ảnh cuả những nấm mồ chiến sĩ rải rác nơi rừng hoang biên
giới lạnh lẽo, xa xôi, một mặt đã được giảm nhẹ đi nhiều nhờ những từ Hán Việt cổ kính,
trang trọng: “Rải rác biên cương mồ viễn xứ” mặt khác, chính cái bi thương ấy cũng lại
bị mờ đi trước lí tưởng qn mình, xả thân vì tổ quốc cuả những người lính Tây Tiến
(Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh).


Những người lính tây Tiến tiều tụy, tàn tạ trong hình hài nhưng vẫn chói ngời vẻ đẹp lí
tưởng, mang dáng dấp cuả những người tráng sĩ thuở xưa, coi nhẹ cái chết tựa lông hồng.
Cái sự thật bi thương: những người lính Tây Tiến gục ngã bên đường khơng có cả đến
manh chiếu để che thân, qua cái nhìn cuả Quang Dũng, lại được bọc trong những tấm áo
bào sang trọng. Cái bi thương ấy vợi đi nhờ cách nói giảm “anh về đất” và rồi bị át hẳn đi
trong tiếng gầm thét dữ dội cuả dịng sơng Mã:


“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”


Trong cái âm hưởng vưà dữ dội, vừa hào hùng cuả thiên nhiên ấy, cái chết, sự hi sinh cuả
những người lính Tây Tiến khơng bi lụy mà thấm đẫm tinh thần bi tráng. Giọng điệu chủ
đạo cuả đoạn thơ thứ ba này sang trọng, thể hiện tình cảm đau thương vơ hạn và sự trân
trọng, kính cẩn cuả nhà thơ trước sự hi sinh cuả đồng đội. Bài thơ khép lại bằng bốn câu
thơ, một lần nữa, tơ đậm thêm khơng khí chung cuả cái thời Tây Tiến, tinh thần chung


cuả những người lính Tây Tiến. Nhịp thơ chậm, giọng thơ buồn, nhưng cái linh hồn cuả
đoạn thơ thì vẫn tốt lên vẻ hào hùng:


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

Ai lên Tây Tiến muà xuân ấy
Hồn về Sầm Nưá chẳng về xuôi”


Cái tinh thần “ nhất khứ bất phục hồn” thấm nhuần trong tư tưởng và tình cảm cuả cả
đồn qn Tây Tiến. Tâm hồn, tình cảm cuả những người lính Tây Tiến vẫn gắn bó máu
thịt với những ngày Tây Tiến, những nơi mà Tây Tiến đã qua. “Tây Tiến muà xuân ấy” đã
thành một thời điểm một đi không trở lại. Lịch sử dân tộc không bao giờ lặp lại cái thời
thơ mộng, lãng mạn, hào hùng đến nhường ấy trong một hồn cảnh khó khăn, gian khổ,
khốc liệt đến như vậy.


<b>Bài số 02</b>


Tây Tiến là nhà thơ tài hoa với cái tôi lãng mạn, trữ tình, bay bổng. Thơ ơng ln đậm
chất trữ tình, đậm tình người, gieo vào lịng người nhiều dư vị riêng. Bài thơ “Tây Tiến”
rút trong tập “Mây đầu ô” là bản anh hùng ca bi tráng và lãng mạn của quân và dân ta
trong cuộc chiến chống quân xâm lược.


Cảm hứng lãng mạn thể hiện ở “cái tơi” đầy tình cảm, cảm xúc cuả nhà thơ. Nó phát huy
cao độ trí tưởng tượng, những thủ pháp đối lập để tô đậm cái phi thường, tạo nên ấn
tượng mạnh mẽ về cái hùng vĩ và cái tuyệt mĩ. Đó là cái tài hoa của Quang Dũng. Có thể
nói đây là dịng cảm hứng xun suốt bài thơ, đọng lại trong lòng người nghe những
thanh vang về nét đẹp con người, thiên nhiên Tây Bắc. Thiên nhiên nơi đây hiện lên thật
nên trơ, trữ tình:


Sơng Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi



Mường Lát hoa về trong đêm hơi


Là tiếng nói, là tiễng lòng, là nỗi nhớ “chơi vơi” của tác giả khi trong lịng cứ canh
cánh tình u đối với mảnh đất này. Một chữ “ơi” nặng tựa nghìn non, một chữ “ơi”
khiến cho câu thơ chùng xuống. Hình ảnh vừa hùng vĩ, vừa nên thơ của núi rừng Tây Bắc
lần lượt hiện về qua từng câu chữ. Dường như thiên nhiên đất trời đã hòa quyện trong nỗi
nhớ da diết của tác giả. Một nỗi nhớ chẳng thể gọi thành tên


Từ cảm hứng lãng mạn chủ đạo đó Quang Dũng đã vẽ nên một bức tranh hùng tráng của
mảnh đất này:


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”


Chỉ bằng vài nét bút nhưng Quang Dũng đã đủ sức vẽ lên một bức tranh hùng trang, đầy
hiểm trở, khúc khuỷu của núi rừng Tây Bắc. Tác giả đã đặt hai từ láy “khúc khuỷu” và
“thăm thẳm” ở cạnh nhau như một dụng ý nghệ thuật nhằm tôn lên vẻ đẹp hùng tráng
khơng nơi nào có được của Tây Bắc. Đặc biệt hình ảnh “súng ngửi trời” rất có sức nặng
trong đoạn thơ. Nó khiến người đọc liên tưởng đến bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu
với hình ảnh “Đầu súng trăng treo”.


Thực ra hình ảnh “súng ngửi trời” vừa mang ý nghĩa lãng mạng vừa gợi lên chiều cao, sự
hùng vĩ của thiên nhiên. Một sự kết hợp rất hồn hảo. Trong khơng khí chiến tranh đang
diễn ra ác liệt như vậy nhưng dường như tinh thần lãng mạn đối với những người lính vẫn
ln tràn đầy.


Hình ảnh trùng điệp, tuyệt đẹp của dịng thác chảy mạnh nơi sườn núi khiến người đọc
như lạc vào một thế giới khác. Câu thơ như bị bẻ đôi thành hai mảnh. Câu thơ cuối đoạn
lắng lại trong lịng người đọc một chút bình n, lãng mạn, dịu êm nhất. Sự mệt mỏi của


người lính tiêu tan đi khi nhìn thấy màn mưa trắng xóa ở nơi xa.


Sự hùng hồn, bi tráng trong thơ Quang Dũng còn được thể hiện ở nhiều tầng lớp khác
nữa:


Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm mường Hịch cọp trêu người


Hai từ láy chỉ thời gian “chiều chiều” và “đêm đêm’ đã gợi mở ra một không gian vừa có
chiều dài vừa có chiều sâu với thanh âm dữ tợn nơi núi rừng.


Và bỗng nhiên ở hai câu thơ tiếp, giọng thơ bỗng nhiên đột ngột chuyển đổi với cuộc
sống bình dị, ấm êm nơi xứ người:


Nhớ ơi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xơi


Thật trữ tình và nên thơ, một bức tranh về cuộc sống sinh hoạt của người dân vùng cao
tuyệt đẹp.


Đến đoạn thơ thứ hai, dường như khung cảnh hùng trang đã dần nhường chỗ cho không
gian tráng lệ, tuyệt đẹp nơi đây:


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

Kìa em xiêm áo tự bao giờ


Không gian nơi đây bỗng nhiên sáng hẳn lên với từ “bừng” như lan tỏa sự dịu mát và
ngọt lành. Cuộc sống bộn bề nhưng cái tâm, cái tình của người dân nơi đây dành cho
những người lính thật chân thật, mộc mạc.


Ngịi bút tài hoa của Quang Dũng đã phác họa thành công bức tranh hùng tráng, lãng


mạn, trữ tình của mảnh đất Tây Tiến. Chặng đường chiến đấu của người lính còn rất gian
nan, nhưng trong trái tim họ vẫn luôn giữ được sự lạc quan, tin tưởng và yêu đời:


Tây Tiến đồn binh khơng mọc tóc
Qn xanh màu lá giữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới


Đêm mơ hà nội dáng kiều thơm


Chỉ 4 câu thơ thôi nhưng đã lột tả được rất nhiều điều về tinh thần, lòng dũng cảm, lòng
tin yêu và hơn hết là tinh thần quyết tâm cống hiến cho đất nước. Dù gian khổ nhưng bên
trong những chàng trai hà thành này vẫn ln tràn đầy mộng mơ, trữ tình. Chiến tranh
ln gắn liền với chết chóc nhưng trong thơ của Quang Dũng khơng hề bi lụy, khơng hề
có nước mắt. Đó chính là tinh thần đáng q của anh bộ đội cụ hồ.


</div>

<!--links-->

×