Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Tải Bài văn mẫu lớp 11: Phân tích Tinh thần nhân đạo của Nguyễn Đình Chiểu trong Văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc - Những bài văn mẫu lớp 11 hay nhất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.39 KB, 7 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>"Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" đã xây dựng lên bức tượng tượng đài chói sáng của những người</b>
<b>nghĩa sĩ nơng dân trên cơ sở tình u nước và tinh thần nhân đạo.</b>


Tinh thần nhân đạo của Nguyễn Đình Chiểu thể hiện thế nào khi xây dựng hình tượng người nơng dân
anh hùng trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc. Để có lời giải đáp cho câu hỏi này, các bạnlớp 11hãy cùng
Download.com.vn tham khảo bài văn mẫu mà chúng tôi giới thiệu dưới đây nhé!


<b>Tinh thần nhân đạo của Nguyễn Đình Chiểu - Mẫu 1</b>


Văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc là tác phẩm tiêu biểu cho bộ phận thơ văn yêu nước chống Pháp của
Nguyễn Đình Chiểu. Lần đầu tiên người anh hùng nông dân yêu nước chống ngoại xâm đã bước vào
tác phẩm văn học Việt Nam với vẻ đẹp rực rỡ nhất.


Văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc là tiếng khóc của dân tộc khóc cho người nông dân anh hùng đã hi sinh
trong chiến đấu đuổi giặc thù ra khỏi quê hương. Qua tiếng khóc ấy, Nguyền Đình Chiểu đã xây dựng
được tượng đài nghệ thuật mang tính bi tráng về người nơng dân yêu nước chống giặc ngoại xâm. Điều
này tạo nên tinh thần nhân đạo của ngịi bút Nguyễn Đình Chiểu.


Trước thất bại đau thương, người nông dân Cần Giuộc vẫn được tác giả tạo nên tầm vóc, tư thế hiên
ngang, quả cảm.


Người nông dân yêu nước được thể hiện trong vẻ đẹp rực rỡ của người nghĩa sĩ anh dũng cứu nước.
Bỏi thế, dù họ lâm vào cảnh chết chóc bi thương nhưng vẫn ngời sáng vẻ đẹp hùng tráng, đậm chất sử
thi.


Nguyễn Đình Chiểu đã tạo được tượng đài nghệ thuật bằng chính cuộc đời người nơng dân u nước
chống Pháp vốn chưa có trong văn học Việt Nam từ trước đến nay.


Ca ngợi vẻ đẹp của người anh hùng.


Đề cao phẩm chất của người nông dân: hiền lành, cần cù, giản dị, chất phác, gắn bó với mảnh ruộng


làng q, u cuộc sống hịa binh, khơng hề biết đến chuyện súng gươm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Ca ngợi mục đích, động cơ chiến đấu của người nghĩa quân nông dân rất trong sáng và đúng dạo lí của
người Việt Nam. Họ chiến đấu là để bảo vệ tấc đất, ngọn rau, vùa hương, bàn độc, của quê hương gia
đình. Họ đi chiến đấu với ý thức rất cụ thể thiết thực của người nông dân Việt Nam.


Ca ngợi tinh thần tự nguyện tham gia chiến đấu của người nông dân yêu nước. Vì nền độc lập của đất
nước, vì nỗi tủi nhục mất nước nên họ đã từ những người nông dân hiền lành trở thành những con
người đi chiến đấu vì đại nghĩa trở thành nghĩa binh, tự nguyện gánh vác việc đánh giặc cứu nước.
Khẳng định vẻ đẹp của người nông dân: khi trở thành người nghĩa quân giữ nước thì tinh thần và lịng
quyết tâm chiến đấu của họ cao cả vĩ đại. Lòng mến nghĩa cao độ đã giúp họ làm được những việc
kinh thiên động địa, chiến đấu và hi sinh anh dũng.


Yêu quý, trân trọng người lính nơng dân ra trận nên tác giả đã miêu tả tinh thần chống Pháp của họ với
khí thế mạnh mẽ, bất chấp hiểm nguy, họ đã hành động theo tiếng gọi của lòng yêu nước. Thể hiện
điều này, Nguyễn Đình Chiểu dã dùng hàng loạt các động từ diễn tả dồn dập, liên tiếp, dứt khoát, cách
ngắt nhịp ngắn gọn để miêu tả khí thế tiến cơng của người lính khi xung trận.


Phát hiện ra vẻ đẹp của những người nơng dân bình thường sống sau lũy tre xanh, vì nghĩa lớn đã trở
thành người anh hùng, thành linh hồn của cuộc kháng chiến giữ nước. Họ trở thành nhân vật lí tưởng
được mọi thời đại ca ngợi.


Miêu tả nỗi đau thương, mất mát của những người đang sống trước sự hi sinh của người nghĩa sĩ Cần
Giuộc.


Nỗi đau đớn, mất mát của những người ruột thịt, của quê hương, của thiên nhiên, đất nước trước sự hi
sinh của nghĩa quân Cần Giuộc.


Ca ngợi, tiếc thương bằng sự thương cảm xót xa. Nỗi tiếc thương thể hiện qua hình ảnh cỏ cây, đất trời
đều nhuốm màu tang tóc, nghiêng đổ trước sự hi sinh vì đại nghĩa của những người nông dân.



Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc đã thực sự trở thành khúc ca bi tráng biểu hiện tấm lòng ngưỡng mộ tiếc
thương của cả dân tộc đối với người nông dân yêu nước. Tác giả đã viết về điều này bằng giọng văn
xúc động, nghẹn ngào, đau đớn nhất.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Ca ngợi nghĩa quân có quan điểm sống chết đúng đắn, cao quý: Thà thác mà đặng câu địch khái...
Vì đại nghĩa nên người nghĩa binh đã quên mình sẵn sàng hi sinh chiến đâu cho quê hương, đất nước
trong mọi hoàn cảnh: Sống đánh giặc thác cũng đánh giặc...


Tiếc thương và ngưỡng mộ, Nguyễn Đình Chiểu đã khẳng định sự bất tử của người nghĩa sĩ trong lịng
nhân dân.


Lần đầu tiên người nơng dân vì nghĩa được khắc sâu và phản ánh toàn diện trong văn học.


Trước đây, trong Bình Ngơ đại cáo, Nguyễn Trãi cũng đã nói đến người nơng dân trong sáng tác của
mình nhưng cịn chung chung, chưa cụ thể như những người dân ấp dân lân của Nguyễn Đình Chiểu.
Trong Hồng Lê nhất thống chí của Ngơ gia văn phái cũng có hình ảnh người lính "trung qn" dưới
sự lãnh đạo của người anh hùng Quang Trung chiến đấu cho sự độc lập tự do của đất nước nhưng vẫn
mờ nhạt.


Người lính nơng dân của Nguyễn Đình Chiểu được phản ánh trong sự đơn phương đánh giặc, hi sinh
vì nghĩa lớn nhưng bị triều đình bỏ rơỉ. Họ thất bại trong cuộc chiến đấu nhưng cái chết của họ lại là
ngọn lửa yêu nước có tác dụng khơi nguồn cho các thế hệ sau nối tiếp đi lên.


Tình cảm của Nguyễn Đình Chiểu dành cho người nơng dân đã thể hiện lòng yêu nước, quan điểm
chống Pháp đến cùng của tác giả.


Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là tác phẩm bất hủ trường tồn với thời gian, với lịch sử dân tộc nhờ tấm
lòng nhân đạo của nhà thơ với người nơng dân u nước.



<b>Tinh thần nhân đạo của Nguyễn Đình Chiểu - Mẫu 2</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

thần nhân đạo sâu sắc với sự kính trọng, đề cao và biết ơn những bậc tiền bối đã nằm xuống vì sự độc
lập dân tộc.


Xuất thân là một nhà nho yêu nước, phải về quê vợ ở Cần Giuộc lánh tạm sự xâm lược của giặc Pháp,
Nguyễn Đình Chiểu hơn ai hết thấu hiểu được nỗi khổ đau, bất hạnh và mất mát khi nước nhà bị xâm
lăng. Viết "Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc" trong hồn cảnh xót thương cho hơn hai mươi người nông dân
quanh năm bán mặt cho đất, bán lưng cho trời đã hi sinh oanh liệt vì độc lập tự do, tác phẩm không
đơn thuần chỉ là một bài tế tri ân mà cịn là tiếng lịng xót thương đối với những chiến sĩ nhân dân
dũng cảm, thể hiện tinh thần nhân đạo, tình cảm trân trọng của tác giả cũng như khắc họa hình tượng
bi tráng của những người nông dân yêu nước.


Tinh thần nhân đạo qua hình tượng người nơng dân anh hùng trước hết thể hiện ở cách xây dựng hình
tượng người anh hùng. Người anh hùng nhân dân hiện lên với những đức tính tốt đẹp, tư thế dũng cảm,
hiên ngang ngẩng cao đầu, khơng ngại khó khăn gian khổ. Những người nơng dân quen thuộc với công
việc tay chân đồng áng, nay lại mang giáp ra trận, đối mặt với quân thù được vũ trang đủ đầy. Đứng
trước cảnh đất nước lâm nguy, họ sẵn sàng bỏ ruộng đất, đi theo tiếng gọi Tổ quốc:


<i>Súng giặc đất rền</i>
<i>Lịng dân trời tỏ</i>


<i>Mười năm cơng vỡ ruộng, chưa ắt còn danh nổi như phao</i>
<i>Một trận nghĩa đánh Tây, tuy là mất tiếng vang như mõ.</i>


Lãnh thổ Đất nước bị đe dọa cũng là lúc tinh thần quật cường của nhân dân dâng cao, như một làn
sóng nhấn chìm tất cả những bè lũ âm mưu xâm lược. Đứng trước thử thách gian lao, tấm lòng thủy
chung với đất nước của người dân mới được "trời tỏ", có trời cao chứng giám cho tấm lịng của họ.
Như những người lính thầm lặng, khơng khoa trương, nhưng sự hi sinh anh dũng của họ có trời thấu.
Lâm vào cảnh bi thương, những người chiến sĩ không hề chùn bước mà nêu cao tinh thần "tuy là mất


tiếng vang như mõ", tuy hi sinh nhưng danh tiếng vẫn cịn mãi lưu truyền. Nguyễn Đình Chiểu nêu cao
tinh thần nhân đạo bằng chính hình tượng người lính nơng dân, tượng đài cao cả về lòng yêu nước, sẵn
sàng xả thân vì nước của người dân miền đất Cần Giuộc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<i>Nhớ linh xưa</i>
<i>Cui cút làm ăn</i>
<i>Toan lo nghèo khó</i>


Cuộc sống của họ gắn liền với con trâu cái cày, chỉ biết làm lụng, tích cóp, u chuộng hịa bình. Nỗi
lo của họ chỉ là ăn no mặc ấm, khơng đói khát, khơng tranh chấp, nào biết đến binh đao. Những người
dân hồn hậu ln hướng thiện là hình tượng đẹp đẽ của người dân Việt Nam. Người nông dân Cần
Giuộc cũng vậy, những lo toan vụ mùa, thời tiết thất thường đã quá đủ nặng gánh trên đôi vai họ. Tuy
thế, nghĩa khí của người dân lao động giống như ngọn lửa tiềm tàng luôn sẵn sàng bùng cháy trong họ.
Khi gót giày của quân thù bắt đầu giày xéo ruộng đất nước nhà, họ khơng cịn là những người nông
dân vô hại mà trở thành những người lực điền khỏe mạnh, mang mũ mang giáp ra trận đánh giặc:


<i>Bữa thấy bòng bòng che trắng lốp; muốn tới ăn gan</i>
<i>Ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ</i>


Giống như hình tượng Thánh Gióng năm nào, từ một cậu bé chẳng biết nói biết cười, nghe tin giặc đến
xâm lược bỗng vươn vai một cái lớn nhanh như thổi. Bản chất thật thà, lương thiện của người nông
dân khi gặp lũ bất lương liền trở thành đội quân lính tráng mang tinh thần bất diệt. Cái căm tức, thù
hằn quân giặc biến thành khát khao muốn hành động, muốn diệt trừ "muốn tới ăn gan", "muốn ra cắn
cỏ", muốn diệt trừ tận gốc thực dân Pháp. Khác hồn tồn với hình tượng người nơng dân quen thuộc,
phải chẳng, chính vì tình u nước, vì lịng căm thù giặc, và vì tự do của mình và những người thân
yêu, họ sẵn sàng đứng lên, biến đổi thành đội qn tinh nhuệ, khơng quản khó khăn gian khổ. Tính
nhân văn được thể hiện rất rõ khi tác giả xây dựng những biến đổi tâm lý của những nghĩa sĩ Cần
Giuộc. Đứng trước sự thờ ơ, vô trách nhiệm của quan lại triều đình, họ từ những người "chỉ biết ruộng
trâu", "việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy...tay vốn quen làm" trở thành chiến binh hùng dũng, oai
vệ, với "hỏa mai đốt bằng rơm con cúi", "gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay". Ra trận với những vũ


khi tự chế thô sơ, nhưng quyết tâm cao ngùn ngụt, tinh thần quyết chiến quyết thắng, khơng ngại hi
sinh vì độc lập tự do. Họ chiến đấu vì quê hương, chiến đấu vì tấc đất, vì miếng cơm manh áo của
mình. Tính nhân văn qua hình tượng người lính nhân dân được bộc lộ qua mục đích chiến đấu cao cả
cùng tinh thần quật khởi của nhân dân khi đứng trước hiểm nguy, gian khổ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Chi nhọc quan quản gióng trống kì; trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không
Nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xơ cửa xơng vào, liều mình như chẳng có


Bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu đồng súng nổ


Bản hùng ca của người chiến thắng, của những anh hùng, vượt qua cả những nỗi lo sợ đơn thuần,
chẳng quản ngại sự chênh lệch vũ trang. Chỉ cần có tinh thần, có ý chí quyết tâm ắt hẳn sẽ thành công.
Từng câu văn đều mang âm hưởng hào hùng, tráng lệ. Những người nông dân hiền lành nay lại hồn
tồn có thể chiến đấu như những người lính được chèn giũa trong mơi trường qn đội. Chính sức
mạnh tinh thần, niềm tin bất diệt vào chiến thắng trong tương lai đã biến thành nguồn động lực, nguồn
năng lực vơ hạn. Hình tượng người anh hùng áo vải, người nghĩa sĩ nông dân giống như một bức tranh
lan tỏa cảm xúc, khiến người đọc dường như được hịa mình vào cái bất diệt của đội quân ra trận.
Không chỉ là riêng lẻ một cá nhân, một cái tên anh hùng cụ thể mà đây là làn sóng dân tộc, là khối sức
mạnh toàn dân đoàn kết. Giống như những vần thơ của Nguyễn Khoa Điềm:


<i>Họ đã sống và chết</i>
<i>Giản dị và bình tâm</i>
<i>Khơng ai nhớ mặt đặt tên</i>
<i>Nhưng họ đã làm ra Đất Nước</i>


Những người nông dân sống một cuộc đời giản dị, khơng địi hỏi, khơng trang đấu, đến khi đất nước
gặp khó khăn, chính họ lại là những người tiên phong đấu tranh quật cường, không ngại đánh đổi cả
máu và nước mắt để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ tổ quốc. Cịn gì đáng q hơn người dân, người dân
chính là cốt cách, là nền tảng, là nguồn sức mạnh của một quốc gia. Khơng có nhân dân thì làm sao có
đất nước, có khí thế hào hùng nhấn chìm mọi bè lũ gian dối cướp bóc.



Đỉnh cao của tính nhân văn trong tác phẩm là những câu thơ thể hiện sự sẵn sàng hi sinh của những
người chiến sĩ:


<i>Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh</i>
<i>Hơn còn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

chân lấm tay bùn, chiến đấu vì nghĩa vụ cao cả của đất nước. Khi người ta khơng cịn coi nặng cái chết
nữa là khi con người trở nên bất tử, khi tính mạng cịn được đặt dưới cả độc lập dân tộc thì những con
người ấy xứng đáng được tơn làm đại trượng phu.Thân xác họ có thể đã được chơn vùi, tâm hồn họ có
thể về với cát bụi, nhưng hình ảnh và cơng lao của họ sẽ mãi mãi bất tử trong lòng những người còn ở
lại.


Qua hình tượng người nơng dân anh hùng, tác giả đã thể hiện sự yêu thương, kính trọng đối với những
người dân bất chấp nguy hiểm, đi theo tiếng gọi của trái tim, của tinh thần dân tộc. Vẻ đẹp tiềm ẩn của
những người nơng dân đã trở thành hình ảnh anh hùng, xứng đáng được người đời ca tụng. Bằng giọng
văn hùng tráng cùng lối viết vừa gần gũi, vừa trang nghiêm, vừa mang tính nhạc, vừa đậm chất tình,
tác giả không chỉ đẽo gọt thành công bức tượng đài người nơng dân kiên cường mà qua đó, ơng khéo
léo nhắn nhủ tâm tư, tình cảm của mình, một sự kính trọng cho thế hệ đàn anh đi trước.


</div>

<!--links-->
Phân tích tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ trong bài thơ ” Chinh Phụ ngâm” – bài mẫu 4
  • 3
  • 107
  • 491
  • ×