Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.92 KB, 8 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>1. Mở bài</b>
Giới thiệu tác giả Đỗ Phủ và bài thơ “Bài ca nhà tranh bị gió thu phá”: Nhà thơ Đỗ Phủ có thể coi là
một cây đại thụ của nền văn học cổ điển Trung Hoa, thơ của ơng đã ghi lại tồn bộ những hoàn cảnh từ
giai đoạn cực thịnh đến suy vong của đời Đường. Ông là người chứng kiến chiến tranh liên miên, cảnh
cực khổ và thương tâm của dân chúng dưới chế độ phong kiến
<b>2. Thân bài</b>
Giới thiệu bức tranh căn nhà tranh bị gió thu phá: Vào những năm cuối đời, Đỗ Phủ trở về Thành Đơ
trong hồn cảnh vẫn cực khổ, bần hàn và nghèo túng, nhờ có sự giúp đỡ của bạn bè mà ơng có được
một căn nhà tranh bên cạnh Khe Cán Hoa. Căn nhà hiện lên trong bài thơ trong hoàn cảnh vật lộn với
trận cuồng phong của mùa thu
Phân tích giá trị hiện thực trong bài thơ: Ông phê phán và lên án chiến tranh phi nghĩa đã gây bao cảnh
đời vất vả như chính gia đình ơng, nỗi khổ về vật chất và tinh thần của Đỗ Phủ cũng là cái khổ chung
của nhân dân lao động và nhà Nho, trí thức thời đó
Phân tích giá trị nhân đạo trong bài thơ: Lòng nhân ái của Đỗ Phủ thật cảm động và thiết thức, niềm
mơ ước của ông mang sự vị tha đến mức xả thân vì mọi người
<b>3. Kết bài</b>
Khẳng định ý nghĩa của giá trị hiện thực và nhân đạo trong bài thơ: Dù bài thơ “Bài ca nhà tranh bị gió
thu phá” đã đi qua hơn mười hai thế kỉ nhưng nó vẫn giữ được cho mình một chỗ đứng vững chãi
trong trái tim người đọc chính nhờ những giá trị hiện thực và tính nhân đạo bao la tỏa sáng trong bài
Đỗ Phủ là một trong những nhà thơ hiện thực vĩ đại của văn học Trung Hoa với những sáng tác chạm
sâu vào trái tim người đọc. Thơ ông là những bức tranh sinh động, chân thực về xã hội phong kiến, về
những mảnh đời cơ cực và về những khát khao có cuộc sống bình dị nhất. Ơng hiểu thấu nỗi đau của
mn kiếp vì chính bản thân mình cũng đã trải qua. "Bài ca nhà tranh bị gió thu phá" được sáng tác khi
ông đã nếm trải biết bao nhiêu cay đắng ở đời, phản ánh được hiện thực khốc liệt và tình yêu thương
đồng loại của Đỗ Phủ.
Những năm tháng Đỗ Phủ phải sống trong cảnh nghèo khó, cơ cực. Cuộc sống gia đình ơng túng thiếu,
sống trong một mái nhà tranh bên cạnh khe Cán Hoa phía Tây Thành Đơ.
Những ngày mưa mùa thu gió lùa đã khiến cho mái nhà tốc mái. Có lẽ đây chính là cảm hứng, cũng
chính là hiện thực để cho ơng viết lên những dòng thơ này.
Đoạn thơ đầu tiên viết về một trận cuồng phong tháng tám:
<i>Tháng tám, thu cao, gió thét gào</i>
<i>Cuộn mất ba lớp tranh nhà ta</i>
<i>Tranh bay sang sông rải khắp bờ</i>
<i>Mảnh cao treo tót ngọn rừng xa</i>
<i>Mảnh thấp quay lộn vào mương xa</i>
Chỉ với mấy câu thơ nhưng đã khái quát được hiện thực tàn khốc từ thiên nhiên, những cơn gió tháng
tám đã lật tung mái nhà tranh nghèo. Thật cảm cảnh cho mái nhà tranh rách nát của Đỗ Phủ, ơng đành
bất lực nhìn thiên nhiên tàn phá. Một hiện thực đầy xót xa mà người đọc nhận ra chính là thiên nhiên
cứ vơ tình với cuộc đời nhiều đắng cay của một người vẫn mải miết cống hiến cho đời những vần thơ
thật đẹp.
Đây cũng chính là thời điểm loạn lạc mà nhân dân Trung Hoa phải đối mặt và trải qua. Binh biến loạn
lạc, người dân mất nhà mất cửa, mất người thân, đạo đức suy thối nghiêm trọng. Đỗ Phủ bất lực nhìn
xã hội đang rơi vào ngõ cụt:
Nhà thơ già dẫu có "gào" khơ cả mơi cũng khơng ai thấu, khơng ai hiểu, đành ngậm ngùi "chống gậy
lịng ấm ức". Nỗi xót xa hiển hiện ngay trong từng câu từng chữ càng khiến người đọc khơng kìn được
cảm xúc. Xã hội tàn khốc, lòng người lạnh lẽo làm sao cứu vãn nổi.
Và tác giả như trào ra sự căm tức và ốn hận:
<i>Ngồi biên máu chảy thành biển đỏ</i>
<i>Mở cõi nhà vua ý chưa bỏ</i>
Hiện thực chiến tranh tàn khốc đang phô bày ra trước mắt nhưng nhà vua nào đâu có thấu, có hiểu.
Những năm tháng chinh phạt đã khiến cho cuộc sống của nhân dân thêm lầm than và rơi vào ngõ cụt
khơng thể cứu vãn.
Cảnh mưa gió ngày thu tàn phá căn nhà khiến cho Đỗ Phủ không thể chợp được mắt, thương vợ,
thương con và thương chính bản thân mình:
<i>Từ trải cơn loạn ít ngủ nghê</i>
<i>Đêm dài ướt át sao cho trót</i>
Câu thơ như cứa vào lịng người nỗi khắc khoải, xót xa cho một kiếp người, kiếp nghèo long đong lận
đận.
Nỗi đau đớn, tủi nhục của một người tài giỏi nhưng lận đận, tù tùng, cái nghèo cứ bám riết lấy. Ông tự
trách bản thân mình vơ dụng khơng thể đỡ dần, giúp đỡ cho vợ con. Đất nước chiến tranh loạn lạc,
nhân dân lầm than. Một bức tranh hiện thực xã hội Trung Hoa nhiều xót xa và nước mắt. Bằng ngịi
bút chân thực, ông đã vẽ lên trước mắt người đọc hiện thực xã hội nhiều ám ảnh.
Và rồi ông càng mong muốn, càng khát khao được ấm no và mong và nhân dân qua khỏi cơ cực, nhọc
nhằn:
<i>Ước được nhà rộng muôn ngàn gian</i>
<i>Che khắp thiên hạ kẻ sĩ nghèo đều hân hoan</i>
<i>Gió mưa chẳng núng vững vàng như thạch bàn</i>
<i>Than ơi bao giờ nhà ấy sừng sững dựng trước mắt</i>
Đây là một khổ thơ giàu giá trị nhân đạo, là tấm lòng cao cả, vị tha và đầy yêu thương của nhà thơ
nghèo Đỗ Phủ dành cho nhân dân Trung Hoa. Niềm ao ước có căn nhà rộng "muôn ngàn gian" để giúp
cho nhân dân đỡ lạnh, đỡ khổ trong những ngày mưa gió. Ước muốn nhỏ nhoi ấy đã nói lên tấm lịng
u thương vơ bờ bến của ông dành cho những người nghèo khổ như ông. Tuy nhiên điều đáng nói ở
đây là ơng khơng "ước' cho mình, chỉ ước cho mọi người. Câu thơ cuối thực sự khiến người đọc nghẹn
ngào:
<i>Riêng lều ta nát chịu chết rét cũng được</i>
Dù nghèo đói, dù cơ cực nhưng ông vẫn tràn đầy lòng vị tha. Dù chịu cánh "chết rét" ông cũng can tâm
để mang lại cuộc sống ấm no cho nhân dân.
Bài thơ "Bài ca nhà tranh bị gió thu phá" của Đỗ Phủ đã phản ánh được hiện thực của xã hội Trung
Quốc thời bấy giờ, đồng thấy người đọc thấy được tấm lòng nhân ái, vị tha của ông đối với cuộc đời,
với mọi người.
<b>Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo - Mẫu 2</b>
Đỗ Phủ là cây đại thụ của nền văn học cổ điển Trung Hoa, ông sống vào giai đoạn cực thịnh sau đó là
suy vong của đời Đường, nên đã chứng kiến tận mắt chiến tranh liên miên, thiên tai địch hoạ, bao cảnh
thương tâm, khổ cực của dân chúng dưới chế độ phong kiến đương thời. Tất cả những cảnh ngộ éo le
Bài thơ này được xếp vào những bài thơ hay nhất của ông. Vào những năm cuối đời sau khi đã nếm
trải đủ những tủi cực, đắng cay của cuộc đời bơn ba thiên hạ. Ơng trở về sống ở Thành Đô, gia cảnh
của ông vẫn cực khổ bần hàn, nghèo túng. Được bạn bè giúp đỡ, ơng đã có một căn nhà tranh bên cạnh
Khe Cán Hoa phía Tây Thành Đô.
Căn nhà tranh ấy là đối tượng miêu tả trong sự chống đỡ, vật lộn với trận thu phong.
<i>Tháng tám, thu cao, gió thét già,</i>
Đoạn thơ là bức tranh về một trận thu phong vào tháng tám Gió thét già. Qua cách kể của tác giả ta
hình dung trận gió thu rất mạnh, trong phút chốc những tấm tranh kia bị lật tung bay khắp mọi nơi. Có
mảnh tốc bay cao, bay thấp, bay xa, bay gần rải khắp bờ, treo tót ngọn cành cây, quay lộn vào mương...
Thật là trớ trêu cho cảnh ngộ của ông già Đỗ Phủ, ngước mắt nhìn theo những tấm tranh bị gió cuốn
mà lịng xót xa và bất lực. Vậy là thiên nhiên vơ tình cũng chẳng bng tha cho người áo vải bao năm
tháng bôn ba mưu sinh giờ đây mới có được ngơi nhà tranh trú mưa trú nắng.
Những năm đó loạn An Sử vẫn cịn rất khốc liệt, đời sống nhân dân vô cùng cơ cực, li tán, chết đói đẫy
rẫy. Nhà nhà, người người bị ném vào cuộc chiến tranh phi nghĩa. Có những gia đình mà đến hơn một
nửa bị chết trong khói lửa sa trường.
<i>Van rằng: có ba trai</i>
<i>Nghiệp thành đều đi thứ</i>
<i>Một đứa gửi thư nhắn</i>
<i>Hai đứa vừa chết trận</i>
<i>Đứa chết đành thơi rồi</i>
<i>Đứa cịn đâu chắc chắn.</i>
<i>(Viên Lại ở Thạch Hào)</i>
Có ba trai phải tòng quân, hai đứa chết trận, đứa còn biết sống chết ra sao. Rồi cả bà lão đã gần đất xa
trời cũng phải ra chốn Hà Dương. Nghèo khổ, túng bấn cả con dâu khơng cịn quần áo lành lặn. Hiện
thực xã hội là như vậy. Một xã hội mà đảo điên, loạn li như vậy thì chắc chắn đạo đức suy đồi xuống
cấp nghiêm trọng. Căn nhà đã bị gió thu phá sạch, lũ trẻ thơn Nam nghịch ngợm quá mức kéo nhau
đến cướp tranh đi mất. Nhà thơ già yếu, chân chậm mắt kém làm sao đuổi được.
Môi khô, miệng cháy gào chẳng được
<i>Quay về, chống gậy lòng ấm ức!</i>
Cảnh ngộ cười ra nước mắt, chống gậy quay về ngơi nhà tuềnh tồng mà lịng đau đớn, xót xa. Những
bước chân mỏi mệt, đắng cay và bất lực, tràn lên tận cuống họng mà không nói thành lời.
<i>Ngồi biên máu chảy thành biển đỏ,</i>
<i>Mở cõi nhà Vua ý chưa bỏ...!</i>
Hay:
... Cửa son rượu thịt ơi,
Ngồi đường, xương chết buốt!
Sự trớ trêu trong cảnh ngộ của Đỗ Phủ không chỉ là thu phong tốc mái căn nhà tranh mà về đêm thêm
một tai hoạ mới. Mưa thu dầm dề, sùi sụt, dai dẳng kéo dài suốt đêm, kéo theo cái lạnh càng thêm lạnh.
Nhà dột lung tung khác chi ở ngoài trời. Chăn, mền cũ, bị con quẫy đạp rách. Mãi chưa sáng... mưa
mãi khơng tạnh... làm sao nhà thơ có thể ngủ được. Ơng trằn trọc suốt đêm trong mệt nhọc, đói rét, lo
lắng, buồn rầu, thương vợ, thương con.
<i>Từ trải cơn loạn ít ngủ nghê,</i>
Đêm dài như dài thêm, ông già cũng chỉ đành cay đắng, ấm ức và bất lực ngồi đếm từng nhịp trống
canh.
Ta thấy hiện lên trên khuôn mặt nhà thơ sự đau khổ, cay đắng. Một kẻ sĩ có học thức mà cơng danh thì
lận đận, cuộc đời thì long đong, túng bấn khổ cực. Ơng trách mình đã chẳng giúp gì cho vợ con và gia
đình trong cảnh nghèo khổ ấy. Băn khoăn trăn trở hơn là kẻ sĩ mà chẳng giúp gì được cho đời, chiến
tranh liên miên, dân chúng loạn lạc cực khổ. Càng nghĩ ông càng phê phán và lên án chiến tranh, lên
án xã hội phong kiến gây bao cảnh đời vất vả như chính gia đình tác giả. Nỗi khổ về vật chất và tinh
thần của Đỗ Phủ cũng là cái khổ chung của nhân dân lao động, của các nhà nho, trí thức thời đó. Sự
khốn cùng của gia đình tác giả là chứng tích cho một thời kỳ lịch sử xã hội Trung Quốc hay đó chính
là xã hội thời Đường thu nhỏ lại. Chỉ đơn thuần là nhà bị gió phá, mưa dột nghèo túng nhưng bài thơ
có giá trị hiện thực to lớn, phản ánh nhiều mặt đang nóng bỏng của xã hội Trung Quốc lúc đó. Những
nỗi đau của dân đen ông cũng đã từng chứng kiến nếm trải để rồi từ hiện thực của gia đình, xã hội, nhà
thơ thể hiện khát vọng hồ bình, dân chúng ấm no:
<i>Than ôi! bao giờ nhà ấy sừng sững dựng trước mắt</i>
<i>Riêng lều ta nát, chịu chết rét cũng được!</i>
Cùng với giá trị hiện thực sâu sắc của bài thơ, khổ thơ cuối thể hiện sâu sắc khát vọng cao đẹp, ước mơ
cao cả, vị tha. Nhà mình thì dột nát, sắp đổ đến nơi, biết bao giờ dựng lại được? Vậy mà ông luôn nghĩ
tới tương lai, không hề nghĩ cho mình, gia đình, lại nghĩ đến ngơi nhà chung, to cao, rộng rãi, vững
chắc mn nghìn gian, bất chấp mưa nắng, vững như thạch bàn dành cho mn nghìn dân đang đói
rách, cơ cực bần hàn trú ngụ. Dù đau khổ chất chồng, nhưng không dập tắt được nhân tính, khơng làm
mất được niềm tin, con người khơng bị hồn cảnh đè bẹp mà ngạo nghễ vượt lên trên hoàn cảnh.
Thương người là nhân, yêu người là ái. Lòng nhân ái của Đỗ Phủ thật cảm động và thiết thực cụ thể.
Điều cao cả và đáng kính trọng hơn nữa là ở chỗ mơ ước ấy mang tinh thần vị tha tới mức xả thân vì
người khác. Ơng vui lịng chịu chết cóng, chết rét để có được ngôi nhà trong mơ ấy.
Thực tế xưa nay không có ngơi nhà rộng mn ngàn gian như thế. Khổ thơ được sáng tạo bằng biện
pháp tu từ so sánh và thậm xưng đế diễn tả ước mơ to lớn và cảm hứng lãng mạn dạt dào, làm sáng
bừng lòng nhân ái bao la của một con người từng trải qua bao bất hạnh giữa thời loạn lạc. Vì vậy nhà
thơ mong mỏi ai ai cũng được sống cuộc sống yên ấm hạnh phúc.
Dù đã qua đi hơn mười hai thế kỷ nhưng bài thơ này vẫn giữ được cho mình chỗ đứng trong trái tim
mỗi chúng ta bởi vì giá trị hiện thực và tính nhân đạo bao la ln toả sáng trong đó.
<b>Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo - Mẫu 3</b>
Nhà thơ Đỗ Phủ có thể coi là một cây đại thụ của nền văn học cổ điển Trung Hoa, thơ của ông đã ghi
lại toàn bộ những hoàn cảnh từ giai đoạn cực thịnh đến suy vong của đời Đường. Ông là người chứng
kiến chiến tranh liên miên, cảnh cực khổ và thương tâm của dân chúng dưới chế độ phong kiến. Đặc
bài thơ “Bài ca nhà tranh bị gió thu phá” đã phản ánh những giá trị hiện thực to lớn và tình yêu thương
đối với nhân dân lao động.
Vào những năm cuối đời, Đỗ Phủ trở về Thành Đơ trong hồn cảnh vẫn cực khổ, bần hàn và nghèo
túng, nhờ có sự giúp đỡ của bạn bè mà ơng có được một căn nhà tranh bên cạnh Khe Cán Hoa. Căn
nhà hiện lên trong bài thơ trong hoàn cảnh vật lộn với trận cuồng phong của mùa thu:
Qua cách kể của nhà thơ, ta hình dung được trận thu phong tháng tám rất mạnh, cuốn phăng những tấm
tranh bay khắp mọi nơi, mảnh thì bay cao, bay thấp, mảnh thì bay gần, bay xa, treo tót trên ngọn cây
hay bay vào mương. Cảnh tượng ấy thật là trớ trêu đối với một ông già như Đỗ Phủ, ông chỉ có thể
đứng ngước mắt nhìn theo những tấm tranh bị gió cuốn mà xót xa, bất lực. Thiên nhiên dường như
cũng chẳng buông tha cho người áo vải đã bôn ba mưu sinh, đến ngôi nhà tranh trú mưa nắng cũng
chẳng còn. Hiện thực xã hội đảo điên, loạn li đã khiến cho đạo đức xã hội suy đồi và xuống cấp trầm
trọng. Căn nhà của Đỗ Phủ bị gió thu phá, lũ trẻ thơn Nam lại lấy đó làm thú nghịch ngợm, kéo nhau
đến mà cướp tranh đi mất, một ông già tay yếu chân chậm không sao đuổi được, chỉ biết chống gậy
quay về đầy đắng cay và bất lực:
<i>“Môi khô, miệng cháy gào chẳng được</i>
<i>Quay về, chống gậy lịng ấm ức”</i>
Tuy nhiên đó chưa hẳn là tất cả sự trớ trêu trong hoàn cảnh của Đỗ Phủ, bởi khi về đêm cơn mưa thu
dầm dề đã kéo theo cái lạnh. Nhà dột chẳng khác gì ngồi trời, chăn màn thì đã cũ rách, mưa dai dẳng
suốt đêm khiến cho nhà thơ trằn trọc với những mệt nhọc, đói rét và nỗi thương vợ, thương con. Ơng
phê phán và lên án chiến tranh phi nghĩa đã gây bao cảnh đời vất vả như chính gia đình ơng, nỗi khổ
về vật chất và tinh thần của Đỗ Phủ cũng là cái khổ chung của nhân dân lao động và nhà Nho, trí thức
thời đó. Từ những nỗi đau của dân đen như ơng, từ chính hiện thực của gia đình và xã hội, nhà thơ đã
thể hiện một khát vọng hịa bình và ấm no cho dân chúng:
<i>“Ước được nhà rộng muôn ngàn gian…</i>
<i>Riêng lều ta nát, chịu chết rét cũng được!”</i>
Dù có khổ đau chồng chất nhưng nhân tính và niềm tin của con người khơng bị hồn cảnh lấn át, đè
bẹp, ngược lại còn vượt lên trên hồn cảnh. Lịng nhân ái của Đỗ Phủ thật cảm động và thiết thức,
niềm mơ ước của ông mang sự vị tha đến mức xả thân vì mọi người.