Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.58 KB, 5 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH MỘT BÀI THƠ, MỘT ĐOẠN THƠ</b>
Hiện nay tình trạng “diễn xi” các câu thơ trong q trình phân tích, cảm nhận các văn bản thơ vẫn cịn
diễn ra rất phổ biến. Vì vậy, bài viết này sẽ gợi ý cho các bạn một số vấn đề để tránh được việc diễn xuôi
các câu thơ trong q trình phân tích.
<b>I. Khi phân tích một bài thơ, đoạn thơ, câu thơ trữ tình cần chú ý đến:</b>
- Cuộc đời tác giả.
- Hoàn cảnh ra đời của bài thơ.
- Thể thơ: lục bát, tự do, thơ 5 chữ,…
- Hình ảnh thơ: Ví dụ như hình ảnh người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp – Mĩ trong “Đồng chí”,
“Bài thơ về tiểu đội xe khơng kính, hình ảnh người bà trong “Bếp lửa”.
- Chi tiết thơ
- Giọng điệu: gồm có giọng hào hùng, nhẹ nhàng, xót thương, bi lụy, triết lí…
- Vần (nhịp) thơ.
- Ngơn ngữ thơ: gồm có ngơn ngữ bình dân, ngơn ngữ bác học, ngôn ngữ được sử dụng trong bài thơ (từ
láy, câu đặc biệt, thành ngữ, tục ngữ, dấu?, dấu !.. . => tất cả đều có dụng ý của tác giả).
- Bố cục: Đây là phần quan trọng nhất để các em tìm ý cho bài cảm nhận của mình. Có thể chia theo khổ,
chia theo đoạn, câu…
Tất cả các đặc điểm trên ở tác phẩm nào cũng có nhưng mức độ đậm nhạt của các đặc điểm này trong mỗi
tác phẩm là khác nhau. Thêm vào đó, các em cần chú ý dựa vào đề bài yêu cầu gì để lựa chọn các đặc
điểm trên cho phù hợp theo sở trường và khả năng của mình.
<b>II. Kiến thức cần có trước khi làm bài:</b>
+ Tên, bút danh, năm sinh, năm mất, gia đình…
+ Xã hội mà tác giả sống và sáng tác…
+ Khuynh hướng sáng tác, chủ đề sáng tác.
+ Các tác phẩm tiêu biểu.
- Thuộc thơ (nếu đề bắt chép thuộc bài, đoạn, câu sau đó cảm nhận, phân tích…).
- Nội dung chính của tác phẩm.
- Nghệ thuật đặc sắc của tác phẩm.
- Một số tác giả, tác phẩm cùng chủ đề để so sánh đối chiếu (nếu có).
<b>III. Các bước phân tích một bài thơ, đoạn thơ, câu thơ:</b>
<b>1. Mở bài:</b>
Trong phần mở bài các em cần có các nội dung chủ yếu sau:
- Giới thiệu qua về tác giả.
- Giới thiệu nội dung chính của tác phẩm.
- Nội dung ý nghĩa của đoạn, câu thơ các em chuẩn bị phân tích (nếu đề cho ra đoạn, câu thơ)
- Bắt vào phần đề bài yêu cầu.
Lưu ý: Phần mở bài cần tự nhiên, đủ nội dung và sáng tạo.
<b>2. Thân bài:</b>
Đây là phần quan trọng nhất, khó nhất chính vì thế cũng chiếm nhiều điểm nhất và trong bài viết của các
Đây là phần quan trọng nhất, khó nhất chính vì thế cũng chiếm nhiều điểm nhất và trong bài viết của các
em cũng thể hiện lỗi “diễn xuôi” thơ nhiều hơn cả. Để khắc phục được tình trạng này trước khi làm bài các
em nên lập dàn ý theo cách:
- Soi bài thơ, đoạn thơ, câu thơ của đề yêu cầu phân tích vào các đặc điểm đã nêu ở phần I. để rút ra điều
các em cần cảm nhận từ yêu cầu của đề bài.
- Đoạn đầu tiên của thân bài các em nên trình bày khái quát nội dung nghệ thuật của cả tác phẩm, đặc biệt
là các đề chỉ yêu cầu phân tích đoạn, câu thơ.
- Đưa các nội dung chính của bài thơ, đoạn thơ thành các luận điểm lớn, nếu đề yêu cầu cảm nhận đoạn
thơ, câu thơ, thì các em chia nhỏ các nội dung có trong đoạn, trong câu, biến chúng thành các luận điểm
lớn đề đi sâu cảm nhận.
- Mỗi đoạn văn các em nên viết theo cách diễn dịch hoặc quy nạp, nhớ trình bày rõ câu chốt, câu diễn giải,
câu dẫn chứng, câu khái quát nội dung đoạn các em vừa phải khái quát được nội dung đoạn mình vừa viết,
vừa phải liên hệ được với nội dung mà đề yêu cầu, mỗi khi chuyển đoạn mới phải có liên kết đoạn.
- Phần thân bài các em cần triển khai khoảng bốn đến 5 đoạn, dựa vào khả năng viết của mình, nhào nặn
những nội dung cơ bản trong mỗi đoạn thành sản phẩm mang đậm cái tơi của chính mình trong bài viết.
<b>3. Kết bài:</b>
- Khái quát được nội dung đề yêu cầu.
- Từ những gì đã cảm nhận em rút ra được bài học rút ra cho bản thân hoặc liên hệ với cuộc sống.
Hi vọng với những gì cung cấp trong bài viết trên đây, các bạn sẽ tìm cho mình được một phương pháp
phân tích thơ tốt nhất, tránh được lỗi diễn xuôi câu thơ.
<b>VI. Những kiến thức bổ sung để phân tích thơ</b>
văn phải đảm bảo yêu cầu về những kiến thức hỗ trợ khác. Kiến thức càng phong phú thì việc phân tích
càng sâu sắc. Có thể nêu ra một số lĩnh vực kiến thức sau:
<b>1. Kiến thức văn học sử:</b>
Văn học là một hiện tượng lịch sử ra đời và phát triển theo thời gian. Tiếp nhận một tác phẩm văn học nói
chung, tác phẩm thơ nói riêng khơng nên tách nó ra khỏi phạm trù lịch sử, khơng nên xem nó như một cá
thể độc lập, thốt li hẳn mối quan hệ, ràng buộc của xã hội.
Kiến thức về văn học sử bao gồm là những hiểu biết về các trào lưu văn học, giai đoạn văn học, thời kì văn
học; nó cịn là những hiểu biết có hệ thống về từng tác gia cụ thể. Đứng trước một tác phẩm thơ, người làm
văn phải biết huy động sở biết của mình về hồn cảnh ra đời của tác phẩm, nó thuộc thời kì, giai đoạn và
trào lưu văn học nào?…, cuộc đời và quá trình sáng tác của tác giả ra sao?… để từ đó nhận xét và đánh giá
các vấn đề về phương diện lịch sử cũng như nghệ thuật trong thi phẩm.
Thực tê, trong chương trình sách giáo khoa về văn học, những kiến thức về văn học sử vẫn cịn ít, chưa có
tính hệ thống. Người học nếu cầu tiến tất phải tự tìm tịi, nghiên cứu ở những sách vở khác.
<b>2. Kiến thức lí luận văn học:</b>
Lí luận văn học là một bộ mơn cơng cụ, giúp độc giả có cơ sở thâm nhập vào thi phẩm. Loại kiến thức này
khá nhiều và tương đối phức tạp. Việc vận dụng kiến thức này vào bài làm khá linh hoạt và tuỳ theo từng
trường hợp mà có yêu cầu khác nhau. Trước hết, trong bài làm văn, người viết thường xuyên sử dụng các
thuật ngữ, khái niệm của lí luận văn học, như: hư cấu, điển hình, hình ảnh, hình tượng… Nếu khơng có sự
hiểu biết đầy đủ, người viết sẽ dùng sai khái niệm.
Ở mức độ phức tạp hơn, khi làm bài người viết phải có kiến thức lí luận để lí giải một vấn đề nào đó trong
Theo tôi nghĩ, thơ là ảnh, là nhân ảnh, thơ cũng ở loại cụ thể hữu hình. Nhưng nó khác với cái cụ thể của
văn. Cũng mọc lên từ đống tài liệu thực tế, nhưng từ một cái hữu hình, nó thức dậy những cái vơ hình bao
la, từ một cái điểm nhất định mà nó mở ra được cái diện khơng gian thời gian trong đó nhịp mãi lên một
tấm lòng sứ điệp. "
<i>(Thời và thơ Tú Xương – Nguyễn Tuân)</i>
<b>3. Kiến thức và kỹ năng sử dụng ngôn ngữ:</b>
Ngôn ngữ là phương tiện để con người thể hiện những điều mình đã tư duy. Bài phân tích thơ đúng và hay
tuỳ thuộc rất lớn vào kiến thức và kỹ năng sử dụng ngôn ngữ của người viết. Thật khó diễn đạt trọn vẹn cái
điều mình nhìn thấy, cảm thấy, tư duy thấy. Thực tế, rất nhiều lúc ngôn ngữ diễn đạt không theo kịp tư duy.
Để khắc phục những bất cập này, người làm văn phải có ý thức thường xun tích luỹ vốn ngơn ngữ, trau
dồi kỹ năng sử dụng ngôn ngữ. Kiến thức về ngôn ngữ giúp người viết vừa xâm nhập vào tác phẩm, vừa
diễn đạt những điều mình cảm nhận được từ tác phẩm. Riêng ở mặt sử dụng ngôn ngữ để diễn đạt, yêu cầu
người viết phải viết đúng và hay theo các cấp độ sau:
+ Dùng từ: Yêu cầu người viết phải biết dùng từ độc đáo. Sẽ rất chán nản cho người đọc khi một bài viết
không dùng được một từ cho hay, cho độc đáo. Dùng từ hay thì mới có đoạn hay rồi bài hay. Từ hay là từ
dùng đúng lúc, đúng chỗ, lột tả được cái thần thái của vấn đề nào đó trong bài thơ, làm cho câu văn có hồn,
có sinh khí, làm cho người đọc sung sướng thán phục. Hạ được từ có" thần", giá trị của bài viết được nâng
lên đáng kể. Thử xem và học tập cách dùng chữ của các nhà phê bình:
mật của mình và đau đáu hỏi:
Bất tri tam bách dư niên hậu Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như"
<i>(Xuân Diệu)</i>
"Loại từ" mảnh" trong " mảnh mặt trời" cũng mới lạ; người ta chỉ nói mảnh sành, mảnh giấy, thậm chí
mảnh trăng vì trăng khi trịn khi khuyết, có khi bị xẻ làm đơi. Hình ảnh" mảnh mặt trời" gợi ra cái nhìn tàn
bạo của con hổ muốn giẫm nát cả vũ trụ"
<i>(Nam Chi – Thế Lữ cuộc đời trong nghệ thuật)</i>
"Tú Bà nói khơng đầy nửa phút mà nước bọt mép của mụ văng ra mà tới ngàn năm" (Xuân Diệu)
Cũng nên lưu ý rằng từ hay, từ có" thần" khơng phải là những từ" đao to búa lớn", hoa mỹ, công thức, sáo
rỗng… mà là những từ bình thường nhưng quan trọng là sử dụng đúng chỗ.
+ Viết câu:
Phương tiện ngôn ngữ cơ bản để diễn ý là câu. Một câu luôn diễn đạt một nội dung nào đấy.
Muốn cách diễn đạt khỏi đơn điệu nhàm chán người viết phải biết cách sử dụng nhiều kiểu câu. Tính linh
hoạt trong việc sử dụng câu ở chỗ: tuỳ từng lúc, từng nơi, tuỳ giọng văn của từng đoạn mà có những loại
câu tương ứng. Khi người viết muốn biểu đạt tình cảm của mình thì dùng câu cảm thán; lúc muốn gây sự
chú ý cho người đọc ta có thể dùng câu nghi vấn để đặt vấn đề và tự trả lời để giải quyết vấn đề; khi muốn
nhìn nhận vấn đề ở nhiều góc độ theo nhiều mối quan hệ ta dùng câu có cặp quan hệ từ: tuy – nhưng,
càng – thì càng, khơng những – mà cịn, nếu – thì …, khi muốn khái quát vấn tổng hợp đề ta dùng kiểu câu
có tính chất quy nạp tồn thể với các từ mở đầu: nhìn chung, đại thể, về cơ bản, phần lớn …
+ Ngơn ngữ làm văn phân tích thơ cũng phải có tính tạo hình và gợi cảm:
Về mặt khoa học, bài phân tích thơ là loại văn của tư duy logic. Văn ý phải rõ ràng, sáng sủa, lập luận chặt
chẽ, giàu sức thuyết phục lí trí. Tuy nhiên, khơng phải vì thế mà bài phân tích thơ chỉ trình bày một cách
khơ khan máy móc, chối bỏ cảm xúc và hình ảnh. ngơn ngữ phân tích thơ thiết nghĩ cũng phải có chất thơ,
phải hấp dẫn lơi cuốn người đọc bằng từ ngữ có tính tạo hình và giàu sức biểu cảm. Ví dụ:
"Trước khơng có ai, sau khơng có ai, Hàn Mặc Tử như một ngơi sao chổi xoẹt qua bầu trời thi ca Việt
Nam với cái đuôi chói lồ rực rỡ của mình."
<i>(Chế Lan Viên)</i>
"Nếu chúng ta liệt Tú Xương vào loại đỉnh thơ Nơm, thì" Sơng lấp" chính là cái bóng cây hiên ngang trên
sườn non đó vậy. Dẫn thơ Tú Xương mà vơ tình hoặc cố ý đánh rớt bài" Sông lấp", tức là bước lên lầu táp,
mở của tầng này tầng kia mà quên mất cái chuông trên vọng lâu vậy"
<i>(Nguyễn Tuân – Thời và thơ Tú Xương)</i>
<b>4. Kiến thức về các bộ mơn liên quan:</b>
Sóng Hồng định nghĩa" Thơ là nhạc là hoạ là điêu khắc theo một phong cách riêng".
Định nghĩa này cho thấy thơ ca liên quan đến các ngành nghệ thuật khác. Hơn thế, thơ ca luôn chứa đựng
nhiều vấn đề, phạm trù xã hội khác nhau. Do vậy, để có thể xâm nhập trọn vẹn vào tác phẩm thơ, chúng ta
cần phải có hiểu biết về nhiều lĩnh vực trong cuộc sống, như: Lịch sử, Địa lý, Triết học, Đạo đức học …
Những kiến thức này là những luận cứ (vừa tiềm tàng vừa hiện thực) góp phần soi sáng các hiện tượng thơ
ca.
Để đi đến cái đích cuối cùng nội dung biểu đạt của từ" đế" trong bài" Nam quốc sơn hà" (Lí Thường Kiệt)
tất phải đụng đến lịch sử mà cụ thể là vấn đề phong vương xưng đế của các vị vua Trung Quốc và Việt
Nam lúc bấy giờ.
Để thấy rõ nỗi đau khi phải sống trong cảnh đội trời chung với giặc và khát vọng hồ bình hạnh phúc của
nhân dân vùng lục tỉnh thời năm 1862 thì phải nắm rõ các địa danh" Bến Nghé"," Đồng Nai" trong câu văn
sau:
"Binh tướng nó hãy đóng sơng Bến Nghé, ai làm nên bốn phía mây đen; Ơng cha ta cịn ở đất Đồng Nai, ai
<i>(Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc – Nguyễn Đình Chiểu)</i>
Thơ ca là hình thái tự do trung thành nhất của tư tưởng. Cảm thụ thơ ca vì thế phải có những hiểu biết rất
căn bản về các hệ tư tưởng, các trào lưu triết học để việc nhận xét đánh giá thêm sâu sắc.
Nếu khơng thơng hiểu triết học đơng tây kim cổ thì làm sao Hồi Thanh có được nhận xét sâu sắc sau:" Từ
cánh cò lặng lẽ bay với nắng chiều trong thơ Vương Bột đến cánh cò trong thơ Xuân Diệu cách nhau ngàn
năm và hai thời đại thi ca."
Và như hai câu thơ sau:
" Dạ thưa xứ Huế bây chừ
Vẫn là núi Ngự bên bờ sông Hương"
<i>(Bùi Giáng)</i>
Nếu không biết được" thấy núi vẫn là núi, thấy sông vẫn là sơng" trong tinh thần nhà Phật thì làm sao thấy
được vẻ đẹp an nhiên tự tại của câu thơ. . .