Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Tải Bài văn mẫu lớp 8: Cảm nhận về bài thơ Muốn làm thằng Cuội của Tản Đà - Những bài văn mẫu lớp 8 hay nhất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (252.72 KB, 10 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Bài văn mẫulớp 8: Cảm nhận về bài thơ “Muốn làm thằng Cuội” của thi sĩ Tản Đà</b>


<b>Bài tham khảo số 1</b>


Những năm hai mươi của thế kỉ XX, Tản Đà là thi bá trên thi đàn Việt Nam. Tài hoa, lãng
mạn, thốt li và ngơng là phong cách nghệ thuật của thi sĩ Tản Đà. Trong bài "Thú ăn chơi",


thi sĩ viết:


<i>"Trời sinh ra bác Tản Đà,</i>


<i>Q hương thời có, cửa nhà thời khơng.</i>
<i>Nửa đời Nam, Bắc, Tây, Đông,</i>
<i>Bạn bè sum họp, vợ chồng biệt li.</i>


<i>Túi thơ đeo khắp ba kỳ,</i>


<i>Lạ chi rừng biển thiếu gì gió trăng...".</i>


Bài “Muốn làm thằng Cuội" là bài thơ kiệt tác, tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của
Tản Đà:


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<i>Cành đa xin chị nhắc lên chơi.</i>
<i>Có bầu có bạn can chi tủi,</i>
<i>Cùng gió, cùng mây thế mới vui?</i>


<i>Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám,</i>
<i>Tựa nhau trông xuống thế gian cười"</i>


1. Mở đầu bài thơ là một tiếng kêu "buồn lắm chị Hằng ơi!". Một tiếng kêu đầy ắp tâm sự.
Thi sĩ Xuân Diệu đã nhận xét như vậy.



<i>"Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!</i>
<i>Trần thế em nay chán nửa rồi"</i>


Nỗi buồn đến mức "buồn lắm"; trong cô đơn chỉ còn biết gọi chị Hằng để dãi bày tâm sự.
Ba tiếng "chị Hằng ơi!" rất biểu cảm, ý vị làm cho giọng thơ thiết tha thân mật. Câu thơ
man mác sự buồn và chán. Tản Đà đã từng viết: "Đời đáng chán hay khơng đúng chán?",
nay thì đã "chán nửa rồi". Bài thơ in trong tập "Khối tình con" xuất bản năm 1916, qua đó
ta thấy rõ nguyên cớ sâu xa, buồn và chán vì trần thế, vì cuộc đời xấu xa, vì chế độ thực
dân nửa phong kiến ngột ngạt, thối nát, tù hãm. Vì cơng danh dở dang: "Tài cao, phận thấp,
chí khí uất". Buồn vì non nước đang bị ngoại bang thống trị "Lệ ai giàn giụa với giang san".
Đó là nỗi buồn của một thế hệ trong vịng nơ lệ lầm than. Là một thi sĩ đa cảm, đa tình, nỗi
buồn đã kết thành mối sầu:


<i>"Nửa ngòi bút ngỗng bao sinh lụy,</i>
<i>Một mối tơ tầm mấy đoạn vương".</i>


(Đề khối tình con thứ nhất)
2. Một chữ “xin” rất chân thành thiết tha, như nài nỉ:


<i>"Cung quế đã ai ngồi đó chửa</i>
<i>Cành đa xin chị nhắc lên chơi"</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<i>"Nghĩ đời lắm lúc không bằng mộng,</i>
<i>Tiếc mộng bao nhiêu lại ngán dời"</i>


(Nhớ mộng)
3. Có lên được cung quế mới đỡ "tủi", mới thỏa thích "thế mới vui". Có chị Hằng làm bầu
bạn. Có gió, có mây cùng chơi vơi. Điệp ngữ (có, cùng) và phép đối được vận dụng sáng
tạo, có cả tiểu đối và bình đối. Cách ngắt nhịp 2/2/3 tạo nên giọng thơ nhún nhảy lâng lâng.


Thấm đẫm vần thơ là chất phong tình lãng mạn. Đọc lên nghe rất thú vị:


<i>"Có bầu, có bạn can chi tủi,</i>
<i>Cùng gió, cùng mây thế mới vui"</i>


Đúng như nhà phê bình văn học Lê Thanh trong cuốn “Tán Đủ thi sĩ” (1939) đã nhận xét:
"Thơ của ông (Tản Đà) là chất thơ trong như lọc với những cảnh tượng khơng rõ rệt,
những hình ảnh mờ mờ, ông vẽ những bức tranh tuyệt bút; với những tư tưởng lâng lâng,
với những cảm giác mơ mộng, ông làm liên những câu thơ tuyệt mĩ...".


4. Cái ngông, cái phong tình của thi sĩ đã dâng lên cực điểm. Đêm rằm tháng tám, là đêm
Trung thu đẹp nhất. Chẳng còn buồn vì cơ đơn nữa, thi sĩ được cùng chị Hằng: “Tựa nhau
trông xuống thế gian cười”. Cái cử chỉ "tựa nhau" và nụ cười ấy cũng là một giấc mộng
đẹp. Thoáng một chút mỉa mai (cho trần thế) nhưng đầy thú vị vì được thốt li, được thỏa
thích nơi cung quế:


<i>"Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám,</i>
<i>Tựa nhau trông xuống thế gian cười"</i>


Cái kết thốt li. Một cách nói phong tình, tài hoa. Có đọc bài thơ "Hầu Trời" mới thấy được,
cảm được cái hay, cái thú vị của bài "Muốn làm thằng Cuội". Nửa đêm, Tản Đà tỉnh dậy
đun nước pha trà, rồi ngâm thơ... Trời nghe giọng ngâm bèn sai hai tiên nữ xuống cõi trần
rước thi sĩ bay lên. Thi sĩ đọc thơ cho Trời và bầy tiên nghe. Tất cả đều tấm tắc khen:


<i>“Văn đã giàu thay, lại lắm lối</i>
<i>Trời nghe Trời cũng bật buồn cười!</i>


<i>Chư tiên ao ước tranh nhau luận</i>
<i>Anh gánh lên đây bán chợ Trời”.</i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Bài "Muốn làm thằng Cuội" là một bài thơ có thi đề độc đáo, thú vị. Giọng thơ nhẹ nhàng,
thanh thốt, chơi vơi. Trí tưởng tượng phong phú, kì diệu. Chất mộng ảo, sắc màu lãng
mạn thấm đẫm bài thơ.


Tuy có nói đến buồn, nói đến chán, có nói đến thốt li, có thấm vị phong tình... nhưng tồn
bài thơ tốt lên một tinh thần phủ định thực tại xã hội thực dân nửa phong kiến xấu xa,
khao khát được sống trong sạch hơn, thanh cao hơn, để mãi mãi giữ trọn thiên lương cao
đẹp. Giá trị đích thực của bài thơ "Muốn làm thằng Cuội" là ở đó.


<b>Bài tham khảo 2</b>


Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu (1889 - 1939) là gương mặt đặc biệt trên thi đàn Việt Nam
những năm đầu thế kỉ XX, người đã mang đến một làn gió lạ cho thơ ca Việt Nam, với cái
ngông nghênh khinh bạc của nhà Nho cuối cùng và người tiên phong cho thi ca vào con
đường chuyên nghiệp. Tình say, ý lạ, tứ mới chưa làm nên một Tản Đà, mà điều chủ yếu
là sự thành thực tự nhiên trong cảm xúc, ngay cả khi thi nhân chìm đắm vào cõi mộng.
Những "khối tình", những "giấc mộng" làm nên một phần văn nghiệp Tản Đà. Muốn làm
thằng Cuội là một sự kết hợp của mộng và tình, để ta nhận ra chân dung của con người
dám lấy cái ngông như một sự thách thức với cuộc đời ơ trọc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

bổng của vị "trích tiên" tự coi mình là người lạc bước chốn trần gian, Thơ Tản Đà có một
khơng gian riêng với Tây Thi, Dương Quý Phi, Chức Nữ, Hằng Nga, những giai nhân
"hồng nhan tri kỉ" với khách tài tử phong lưu, Người đời đã cho Tản Đà là "ngông", nhưng
cần phải hiểu đó cũng chính là thái độ của ơng phản ứng lại xã hội thực dân phong kiến
vốn có quá nhiều điều khiến ông chán ngán buồn bực. Muốn làm thằng Cuội chính là một
phản ứng như vậy.


Dường như đối với Tản Đà, mùa thu cũng tạo nên nhiều duyên nợ. Từ khoảnh khắc "Vèo
trông lá rụng đầy sân" để nhận ra cơng danh như một thống chốc, đến đêm thu chìm đắm
trong mối sầu, thi nhân đã để cho những tâm tình bộc bạch cùng trời đất:



<i>"Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!</i>
<i>Trần thế em nay chán nửa rồi"</i>


Lại một đêm thu, lần này nhà thơ tìm đến với "chị Hằng". Mà lạ, khơng phải với cái cuồng
vọng địi cưới Hằng Nga mà lại là một chút khép mình xưng "em" rất ngọt! Cậu ấm Hiếu
đã mỏi mệt với những muộn phiền trần thế, nên thở ra một giọng chán đời chăng? Cái
buồn cố hữu của mùa thu khiến nhà thơ buồn, hay ánh trăng đối diện với con người gợi ra
cảm giác lẻ loi đến mênh mông? Tản Đà đã đến với trăng không phải bằng tư thế "đối
diện đàm tâm" - nhìn nhau chuyện trị trong im lặng bằng sự cảm thơng của đơi lịng, ơng
đã thốt lên Lời tha thiết nhắn nhủ "chị Hằng ơi!". Nỗi buồn trần thế tràn ngập đêm thu, từ
trong tỏa ra chứ khơng phải do "gió thu lạnh — sương thu bạch - khói thu xây thành" như
câu thơ trong "Cảm thu, tiễn thu" mà thi sĩ chạnh lòng. Điều khiến người đọc lưu tâm ở
câu thơ thứ hai là kiểu "chán nửa rồi" với "trần thế" chứ không phải là "chán hết rồi".
Chán nửa có nghĩa là chưa chán hẳn, còn thiết tha với cõi đời. Vậy là thi nhân mâu thuẫn
với chính mình, giữa ước muốn thốt li hẳn đời như các thi nhân xưa muốn về với cõi tiên
"lánh đục tìm trong" và tâm nguyện ở lại với đời để làm trịn "thiên lương" giúp ích cho
dân chúng. Đã có lần nhà thơ băn khoăn với câu hỏi "Đời đáng chán hay là không đáng
chán?" với bạn tri âm. Nhưng phút này đây, tri âm vắng bóng để nhà thơ vọng về trắng
tâm sự với chị Hằng.


Trí tưởng tượng phong phú và mãnh liệt của nhà thơ đã làm nên một ước vọng cao vời:
<i>"Cung quế đã ai ngồi đó chửa</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Hai câu thực làm rõ cho ước muốn của Tản Đà: Muốn làm thằng Cuội. Cung quế, cành đa
để gợi nhắc câu chuyện cổ tích nhưng dường như có sự so sánh ngầm trong ý thơ: Ở cõi
trần gian, "trích tiên" Tản Đà đang cơ đơn trong nỗi buồn của chính mình, cịn nơi cung
Quảng, Hằng Nga cũng đang cô đơn như khách trần gian. Hành trình tưởng tượng của nhà
thơ đã ngược về với thời gian cổ tích, để nhà thơ hóa thân vào chú Cuội. Duy chỉ có khác
một chi tiết nhỏ: Ngày xưa Cuội bám cành đa thần để bay lên trăng, cịn hiện tại thì cành


đa ấy lại là chiếc thang đón hồn thi nhân lên cung quế. Nghĩa là Tản Đà đến với Hằng Nga
để thay thế vai trò chú Cuội. Câu thơ có một chút hóm hĩnh trong ý tứ, nhưng đó là cách
cắt nghĩa cho tính chất cuộc gặp gỡ đặc biệt này: Giữa Hằng Nga và Tản Đà là mối quan
hệ của hai tâm hồn cô đơn đang cần tìm đến nhau. Tản Đà "xin" mà khơng cầu lụy, bởi lẽ
khi hướng về "cung quế", có lẽ thi nhân cũng hiểu thấu nỗi niềm Hằng Nga chăng?


Bởi thế, hai câu luận là sự sẻ chia của đôi hồn cơ đơn:
<i>"Có bầu, có bạn can chi tủi,</i>
<i>Cùng gió, cùng mây thế mới vui"</i>


Bản chất đa tình của thi sĩ đã hé lộ. Câu thơ không phải chỉ diễn tả tâm trạng từ một phía,
vì nếu như vậy chẳng hóa ra thi sĩ lên trăng chỉ là giải thốt cho nỗi buồn bực của riêng
mình? Cái nồng nàn trong tình ý câu thơ chính là ở chỗ nhà thơ cùng lúc diễn tả hai tâm
trạng: Một là của Hằng Nga - người cung Quảng Hàn, một là của Tản Đà - người trần thế.
Nét phóng khống tâm hồn thi nhân đâu chỉ là cái ước vọng lên trăng để vượt thốt cảnh
trần đầy chán ngán, mà chính là khi được làm chú Cuội nghĩa là đượclàm bạn cùng san sớt
nỗi buồn với giai nhân cung quế. Có như vậy mới thật sự là tri âm tri kỉ! Cái độc đáo Tản
Đà chính là ở chỗ cảm nhận được nỗi u buồn của Hằng Nga trong không gian quạnh quẽ
chốn Quảng Hàn. Cũng như đã có lần nhà thơ phát hiện giữa cõi tiên tấm lòng trần gian
của tiên nữ:


<i>Lá đào rơi rắc chốn Thiên Thai</i>
<i>Suối tiễn, oanh đưa luống ngậm ngùi</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

từng cảm nhận: "Từ độ sầu đến nay, ngày nào cũng có lúc sầu, đêm cũng có lúc sầu. Mưa
dầm lá rụng mà sầu, trăng trong gió mát mà càng sầu; nằm vắt tay lên trán mà sầu, đem thơ
văn ngâm vịnh mà càng sầu. sầu khơng có mối, chém làm sao cho đứt; sầu khơng có khối,
đập sao cho tan...". (Giải sầu). Trong nỗi sầu của nhà thơ, ta nhận ra những ám ảnh thời thế,
nhân thế và trần thế. Bầu bạn cùng chị Hằng, phải chăng là lúc nhà thơ thật sự thoát khỏi
những ám ảnh ấy khi được cận kề hồng nhan tri kỉ:



<i>Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám,</i>
<i>Tựa nhau trông xuống thế gian cười</i>


Bài thơ được mở đầu bằng lời than "buồn lắm", kết lại bằng nụ cười đêm rằm tháng Tám.
Niềm vui thay thế nỗi buồn khi những tấm lòng tri kỉ đã gặp gỡ được nhau. Cảm hứng của
bài thơ trọn vẹn với hình ảnh trăng thu tuyệt đẹp lay thức giấc mơ của bao kẻ mn lánh
đời thốt tục. Nhưng nếu chỉ có vậy thì cảm hứng bài thơ chưa vượt thốt khỏi khn sáo
cũ mịn của thơ xưa. Cái tình tứ "tựa nhau" đã làm hiện rõ chất lãng mạn độc đáo của tâm
hồn nhà thơ. Có lẽ chưa ai trước Tản Đà lại có sự liên tưởng táo bạo đến thế! Câu chữ
khéo léo, ý tình dào dạt của Tản Đà đã làm nên nét nghĩa mới của hình tượng: Chú Cuội
-Hằng Nga trong cổ tích đã hóa thân thành đơi lứa khăng khít Tản Đà tài tử và -Hằng Nga
giai nhân. Nhưng cõi trần "chán nửa" vẫn hiện diện cùng khoảnh khắc "trông xuống thế
gian" của đôi lứa tâm đầu ý hợp, làm nên nụ cười "rất Tản Đà". Cười cho trò đời bon chen,
cười trước tình đời nhạt nhẽo, và trên hếtlà nụ cười của kẻ vẫn còn nặng lòng trần thế,
canh cánh trong hồn thiên chức nhà văn: "Hai chữ thiên lương thằng Hiếu nhớ". Phải
chăng nụ cười ấy ẩn chứa một thông điệp hướng về tương lai rạng rỡ niềm vui? Và cũng
vì thế mà trăng phải là "rằm tháng Tám", vằng vặc, trịn đầy, trong trẻo. Tắm mình trong
ánh sáng dịu dàng giữa nơi cung quế là cả một tâm hồn thi nhân bay bổng tuyệt vời, thăng
hoa cùng vẻ đẹp tuyệt đối của "nghìn năm thơ thẩn bóng trăng chơi".


Bài thơ cho ta nhận ra một chân dung tâm hồn Tản Đà: Phóng khống, đa tình, nhiều
mộng tưởng mà vẫn vướng vít những ưu tư trần thế. Con người ấy muốn giữ trọn "thiên
lương" giữa cuộc đời ô trọc nên phải đắm chìm trong những "giấc mộng con" để sống
thành thực với chính mình và với cuộc đời. Ta chợt nhận ra một nhân cách cao quý không
bị vẩn đục bởi những toan tính vụ lợi tầm thường, một con người "đi qua cái hỗn độn của
xã hội Việt Nam đầu thế kỉ XX" mà vẫn giữ trọn "linh hồn cao khiết".


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

giấu giếm, như là một cách để đối lập với cả một xã hội thực dân — phong kiến. Tác
phẩm góp thêm luồng sinh khí cho cảm hứng lãng mạn, với trí tưởng tượng bay bổng và


cảm xúc mãnh liệt, sẽ phát triển mạnh mẽ trong phong trào Thơ mới 1932 — 1945.


<b>Bài tham khảo số 3</b>


Người ta nhắc tới Tản Đà với nhiều ấn tượng sâu đậm: là thi sĩ khởi đầu cho nền thơ lãng
mạn, là người chắp viên gạch nối thơ cổ đại với thơ hiện đại. Trong chất lãng mạn đó ẩn
chứa tư tưởng, tình cảm và tấm lịng u nước sâu sắc của ông. Bài thơ Muốn làm thằng
Cuội là một ví dụ tiêu biểu. Như ta đã biết, xã hội ông đang sống quá coi trọng đồng tiền
và địa vị. Tài năng, sức lao động, tình cảm sâu đậm không đem lại hạnh phúc cho con
người. Bao trùm bên trong là nỗi buồn về thực tại. Tản Đà đã bật lên một lời gọi, lời nhắn
gửi chị Hằng – người bạn muôn đời của những kẻ cô đơn:


Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!
Trần thế em nay chán nửa rồi.


Mở đầu bài thơ là một lời than thở, một nỗi sầu da diết. Giọng điệu thân thiết pha chút mỉa
mai bởi cuộc đời ngột ngạt, bon chen vì cơng danh dang dở: Tài cao, phận thấp, chí khí uất.
Là thi sĩ nên nỗi buồn đã kết thành nỗi sầu. Đây là thái độ khơng chấp nhận thực tại, bất
hồ thực tại, bất hồ với trần thế.


Ơng khát khao một cuộc sống đẹp hơn, vượt lên trên cái thấp hèn:
Cung quế đã ai ngồi đó chửa?
Cành đa xin chị nhắc lên chơi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Có bầu có bạn, can chi tủi
Cùng gió cùng mây thế mới vui


Thi sĩ lên cung quế có bạn, có bè quên đi nỗi ngán ngẩm, chán nản và giải toả được nồi
buồn – ông đã vui, đã cười – ông cười tất cả những giành giật, nhố nhăng nơi trần thế, cười
sung sướng khi thấy cõi trần không ai được như ông, được hưởng cuộc sơng thần tiên thốt


tục.


Hai câu thơ cuối thật độc đáo và lãng mạn:


Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám
Tựa nhau trông xuống thế gian cười.


Rằm tháng tám là khi trăng trong nhất, đẹp nhất và cũng là sáng nhất. Vào lúc tuyệt vời
nhất của trăng ấy, nhân vật trữ tình ước muốn cùng chị Hằng; ngồi bên chị Hằng tựa vào
nhau mà nhìn xuống trần thế để cười.


Câu thơ là đỉnh cao của cái ngơng rất phù hợp với tính chất Tản Đà. Ngồi bên cạnh người
đẹp, đó đã là một niềm hạnh phúc. Hơn thế nữa thi sĩ còn tự đặt mình lên một địa vị cao để
mà cười cợt. Cái ngơng này thật hiếm có, đáng u, đáng trân trọng ở trong giai đoạn này.
Các thi sĩ lãng mạn u nước nhưng khơng đủ dũng khí để chiến đấu – thường tìm đến
thiên nhiên hoặc trốn vào mộng tưởng để trốn đời.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10></div>

<!--links-->

×