Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.27 KB, 9 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>I/ Mở bài:</b> Ngơi kể thứ I (tơi) có mặt trong câu chuyện như người thứ 3 ngồi lão Hạc với ơng giáo
(phân biệt với người kể ở trong truyện của Nam Cao chính là ơng giáo)
Giới thiệu hồn cảnh lão Hạc sang nhà ơng giáo để kể chuyện bán chó. Ở đó có ơng giáo và người kể.
<b>II/ Thân bài:</b>
- Kể: lão Hạc kể chuyện bán chó với ơng giáo:
+ Lúc lão Hạc báo tin bán chó
+ Miêu tả: nét mặt đau khổ của lão Hạc
- Biểu cảm: nỗi ân hận của lão Hạc về việc bán chó và thái độ của ông giáo.
- Lão Hạc: chua chát kết thúc việc bán chó.
- Miêu tả: nét mặt của ơng giáo khi nhận được tin => suy tư nghĩ ngợi và đau khổ với lão Hạc
- Biểu cảm:
+ Nêu những suy nghĩ của bản thân với câu chuyện
+ Nêu những suy nghĩvề các nhân vật ở trong đó (về ơng giáo và lão Hạc)
<b>III/ Kết bài:</b>Nhắc lại sự việc bán chó. Đặc biệt là khi sự việc kết thúc. Nhận định, đánh giá chung về
sự việc đó. Trở lại hồn cảnh thực tại của mình.
Tơi chồng tỉnh giấc, dậy từ khi mặt trời cịn chưa treo ngọn tre. Đó là một thói quen bình thường của
người làm nghề nơng. Cả cái làng Vũ Đại này, có ai khơng làm nghề nơng chỉ trừ ơng Bình giáo ra.
Ơng ấy là người học rộng lại hiểu sâu, chính vì vậy mà tơi định đến nhà ông giáo để viết một số giấy tờ
nhà đất.
Con đường làng dài và hẹp. Gió thổi vi vu khiến cho những rặng tre xào xạc, đung đưa. Quanh nhà ông
giáo, những hàng râm bụt lá vàng úa vẫn còn tồn tại sau trận bão khủng khiếp. Vừa thấy tơi, ơng giáo
liền nói: "Chào bác". Tơi đáp lại:
- Vâng, chào anh! Hôm nay tôi sang đây là muốn nhờ anh viết một số giấy tờ đất đai!
- Vậy mời bác vào nhà nhà xơi nước cái đã!
Ông giáo mời tôi ngồi trước thềm nhà, chúng tôi đang bàn bạc thì bỗng đâu có tiếng nói hớt hải vọng
tới:
Cậu Vàng đi đời rồi ông giáo ạ!
sống như vậy cơ đơn, thui thủi một mình ngày này qua ngày khác. Nhưng có điều khiến tơi thấy rất lạ.
Hơm trước, tơi cịn sang xin nhà lão mấy củ gừng về pha nước thì thấy lão cưng nựng con chó lắm kia
mà; một điều "cậu" này, hai điều "cậu" nọ. Khi ăn thỉnh thoảng lão còn gắp thức ăn cho con chó của
lão. Vậy mà giờ lại phải bán nó đi sao? Ơng giáo hỏi:
- Thế nó cho bắt à?
Lúc bấy giờ thì mắt lão Hạc đã ầng ậc nước. Những nếp nhăn xô vào với nhau, ép cho nước mắt chảy
ra, trông lão giờ già đi đến hơn chục tuổi.
- Khốn nạn! Nó có biết gì đâu ơng giáo ơi! Nó thấy tơi gọi thì chạy ra. Cùng lúc đó thì chúng nó tóm
gọn con chó rồi lơi đi xềnh xệch.
Tôi bắt đầu hiểu ra câu chuyện của lão Hạc và mường tượng cảnh thằng Mục, thằng Xiên dốc ngược
con chó lên, trói chân, trói tay nó lại rồi mang đi. Lão Hạc mếu máo nói:
- Lúc đấy thì cu cậu mới biết là cu cậu chết! Mắt nó long sịng sọc rồi dại đi. Nó cứ ăng ẳng nhìn tơi
như thể nó nói: A! Lão già tệ lắm! Tôi ăn ở với lão thế nào mà giờ lão xử tôi như vậy hả.
- Cụ cứ khéo tưởng tượng đấy chứ nó có biết gì đâu. Vả lại! Ai ni chó mà chẳng để giết thịt. Ta giết
nó chính là hóa kiếp cho nó đấy chứ! - Ơng giáo nói.
Lão Hạc chua chát bảo:
- Ơng giáo nói phải! Ta hóa kiếp cho nó để nó được đầu thai thành kiếp khác may ra có là kiếp người.
Như ơng với tơi chẳng hạn!
Tơi nghe mà khơng kìm được nước mắt. Tơi cảm thấy đau khổ và xót thương cho lão Hạc quá! Lão chỉ
có mỗi con chó để bầu bạn hằng đêm. Có con chó đó cũng đỡ buồn và bù đắp được cho sự thiếu thốn
tình cảm của lão. Vậy mà giờ lão phải bán nó đi để lấy tiền để dành cho con sao! Lão Hạc quả là một
con người tốt và có tình thương u con sâu sắc mà hiếm ai có được.
Ơng giáo nói:
- Ơng giáo dạy phải! Nhưng giờ tơi có việc gấp phải đi bây giờ ơng giáo ạ!
- Cịn sớm mà, cụ hẵng ở lại chơi với chúng tôi cái đã!
- Ơng giáo cho tơi xin khất chứ hơm nay thì nhất quyết khơng được.
Vậy là lão Hạc lại loạng choạng ra về trong sự ái ngại của tôi và ông giáo. Thuốc lào đã được vo viên
Tơi, ơng giáo và lão Hạc, những người nông dân nghèo khổ, bị xã hội dồn đến đường cùng mà vẫn
phải sống, vẫn phải tồn tại trên cái thế giới này. Cảm ơn lão Hạc, lão đã cho tơi hiểu được tình thương
và lịng tự trọng q giá của một con người. Tôi sẽ mãi khắc sâu bài học này trong tâm can và ý chí
của mình đến cuối đời!
Ở xóm Giữa của làng Đại Hồng chỉ có khoảng vài chục nóc nhà. Lão Hạc là hàng xóm của gia đình
em và gia đình ơng giáo Tri. Ơng giáo Tri là người có học, hiểu biết rộng và tử tế nên được dân làng
tin cậy. Chiều chiều, lão Hạc thường xách cái vò đất nung sang nhà ông giáo để xin nước giếng. Lần
nào ông giáo cũng giữ lão Hạc lại chuyện trò, uống bát nước chè tươi hoặc hút điếu thuốc lào... để cho
lão bớt cảm thấy lẻ loi, cô độc. Vợ chết đã lâu, con trai lại đi phu cao su đất đỏ mãi tận Nam Kì, Lão
Hạc sống thui thủi một mình trong căn nhà nát chỉ có mỗi chú chó Vàng làm bạn. Lão quý nó như quý
con, cho nó ăn bằng bát như người.
Chiều nay, lão sang chơi sớm hơn mọi khi. Vừa thấy ông giáo, lão báo ngay:
– Cậu Vàng đi đời rồi, ơng giáo ạ!
Ơng giáo ngạc nhiên:
– Cụ bán nó rồi ư? Sao cụ bảo là...?
Lão Hạc gật đầu, cố lấy giọng vui vẻ nhưng miệng méo xệch và mắt thì đỏ hoe. Ơng giáo nhìn lão ái
ngại, lịng đầy thương xót:
cho nó ăn cơm. Nó đang ăn thì thằng Mục nấp trong nhà, ngay đằng sau nó, tóm lấy hai cẳng sau dốc
ngược lên. Cứ thế là thằng Mục với thằng Xiên, hai thằng chỉ loay hoay một lúc là trói chặt cả bốn
chân nó lại. Đấy giờ cu cậu mới biết là cu cậu chết!... Này! ơng giáo ạ! Cái giống nó cũng khơn! Nó
kêu ư ử và nhìn tơi, như muốn trách tôi rằng: "A! Lão già tệ lắm! Tôi ăn ở với lão như thế mà lão đối
xử với tôi như thế này à?". Thì ra tơi già bằng này tuổi đầu rồi mà cịn đánh lừa một con chó. Nó
khơng ngờ tơi nỡ tâm lừa nó!
Ơng giáo vỗ an, an ủi lão:
– Cụ cứ tưởng thế đấy chứ nó chả hiểu gì đâu! Vả lại, ai ni chó mà chả để bán hay giết thịt! Ta giết
nó chính là hố kiếp cho nó đấy, hố kiếp để cho nó làm kiếp khác cụ ạ!
Lão Hạc cố gượng cười:
– Ông giáo nói phải! Kiếp con chó là kiếp khổ thì ta hố kiếp cho nó để nó làm kiếp người, may ra
sung sướng hơn một chút... Kiếp người như kiếp tôi đây chẳng hạn!
Biết lão đang tự mỉa mai, ông giáo nói:
– Kiếp ai thì cũng thế cả thơi, cụ ạ! Cụ tưởng tôi sung sướng hơn chăng? Thôi, bây giờ có cái này là
sung sướng: Cụ ngồi xuống phản chơi, tôi đi luộc mấy củ khoai, nấu ấm nước chè, rồi tôi với cụ vừa ăn
khoai, uống nước hút thuốc lào vừa nói chuyện, thế là sướng!
Vẻ mặt lão Hạc nghiêm trang hẳn:
– Xin phép ông giáo để cho khi khác! Tôi muốn nhờ ông giáo giúp cho một việc.
– Việc gì thế cụ?
– Chuyện là thế này, ơng giáo ạ!
Thế rồi lão Hạc kể lể về anh con trai của lão chỉ vì khơng có tiền cưới vợ mà phẫn chí bỏ nhà đi phu
đồn điền cao su ở tận Nam Kì đã hơn năm nay. Lão nhờ ông giáo trông coi hộ mảnh vườn ba sào để
sau này, con trai lão về thì có sẵn đất đấy mà làm ăn. Còn chuyện thứ hai là lão gửi ông giáo giữ hộ ba
mươi đồng bạc dành dụm từ việc bán chút hoa lợi còm cõi và tiền vừa bán chó. Lão bảo rằng lão đã già
yếu, lại nay ốm mai đau, chẳng biết thế nào. Rủi có nằm xuống thì sẵn số tiền ấy, nhờ ơng giáo đứng ra
lo liệu cho, thiếu đâu đành trông cậy vào hàng xóm. Lặng nghe lão Hạc nói, ơng giáo trầm ngâm suy
nghĩ. Lão Hạc vốn là người khái tính, ít chịu phiền ai. Khơng biết lão có ý định gì mà hôm nay lại nhắc
đến những chuyện hệ trọng như thế?! Ông giáo động viên lão Hạc:
– Gớm, cụ cứ lo xa làm gì cho mệt? Cụ cịn khoẻ lắm, chết là chết thế nào? Cụ cứ để tiền mà ăn, khi
nào chết hãy hay, tội gì có tiền mà lại chịu nhịn đói?!
Lão Hạc vẫn năn nỉ:
Khơng thể từ chối, ông giáo đành nhận lời, nhưng vẫn băn khoăn hỏi lại:
– Có bao nhiêu tiền dành dụm, cụ gửi tơi cả thì từ mai lấy gì mà ăn?
Lão Hạc xua tay tỏ ý khơng cần:
– Ơng giáo đừng lo, tôi đã sắp xếp đâu vào đấy cả rồi ạ! Xin phép ông giáo, tôi về!
– Vâng! Cụ lại nhà!
Lão Hạc chậm chạp lê từng bước chân ra cổng, ơng giáo nhìn theo cái dáng lịng khịng, lam lũ của lão
mà động lòng thương. Dạo này, cà làng đói. Có người cả tháng khơng biết đến hạt cơm, chỉ củ khoai,
củ sắn, mớ rau lang, rau má... sống lay lắt qua ngày. Lão Hạc cũng thế, nhưng lão thà nhịn đói chứ
nhất quyết khơng bán mảnh vườn để dành cho con. Lúc bóng lão Hạc đã khuất sau rặng tre đầu ngõ,
ông giáo thở dài quay vào nhà, trong tay vẫn giữ chặt chiếc túi nhỏ màu nâu cũ kĩ đựng mấy chục đồng
bạc của lão Hạc gửi. Ông giáo lắc đầu, lẩm bẩm một mình: "Rõ khổ!".
Chứng kiến đầu đi câu chuyện, trong lịng em trào lên tình cảm xót xa và mến phục. Cuộc sống của
Tơi và ơng giáo là hai người hàng xóm thân thiết. Mỗi khi chiều xuống, tôi lại sang bên nhà ông giáo
cùng uống nước chè. Hơm nay cũng vậy, thật tình cờ, tơi đã chứng kiến trọn vẹn câu chuyện bán chó
của lão Hạc. Tơi khơng khỏi xúc động trước tấm lịng nhân hậu của lão – người đã gần đất xa trời.
cũng muốn giúp lão nhưng nhà nghèo, cố gắng lắm, thi thoảng tôi cũng chỉ giúp lão được củ khoai, bát
gạo,.
Buổi chiều hôm ấy, tôi và ông giáo đang ngồi nói chuyện thì lão Hạc sang. Dạo này chắc khơng có gì
ăn nên lão gầy q. Hơm nay trơng lão có vẻ buồn. Tơi phân vân khơng biết có chuyện gì xảy ra thì lão
báo tin đã bán con Vàng rồi. Cả tôi lẫn ông giáo đều sửng sốt vì ai cũng biết lão quý con Vàng như thế
nào. Nó chẳng những là kỉ vật con trai lão để lại mà còn là người bạn tâm giao của lão những khi vui
buồn, đời nào lão nỡ bán nó đi. Tất cả lặng thinh, bùi ngùi, chợt, ông giáo quay sang hỏi: “Thế nó cho
bắt à?”. Tơi cũng thêm vào: “Con Vàng dữ lắm, bắt nó cũng chẳng dễ gì”. Lão cố làm ra bộ vui vẻ,
nhưng hình như xót con Vàng quá, lão cười mà như mếu, rồi lão bắt đầu khóc. Giọng run run, vừa nói
vừa khóc, lão bảo con Vàng thấy lão gọi về ăn thì sung sướng lắm, đang ăn thì thằng Xiên, thằng Mục
lao ra, tóm gọn bốn chân nó. Nói xong, lão càng khóc nhiều hơn, lão mếu máo: “Này! Ông giáo ạ! Cái
giống nó cũng khơn! Nó cứ làm in như nó trách tơi; nó kêu ư ử, nhìn tơi như muốn bảo tôi rằng: “A!
Lão già tệ lắm! Tôi ăn ở với lão như thế mà lão xử với tôi như thế này à?”. Thì ra, tơi già ngần này tuổi
đầu rồi cịn đánh lừa một con chó, nó khơng ngờ tơi nỡ tâm lừa nó!”. Nghe lão kể mà tơi thấy đau lịng
q. Nghĩ lại thì cũng phải, lão cịn chẳng ni nổi lão, thêm con chó nữa thì lấy tiền đâu ra mà ăn.
Biết lão Hạc buồn, tôi và ông giáo đều cố gắng an ủi lão. Ông giáo nhẹ nhàng: “Cụ cứ tưởng thế đấy
chứ nó chả hiểu gì đâu! Vả lại ai ni chó mà chả bán hay giết thịt! Ta giết nó chính là hố kiếp cho nó
đấy, hố kiếp để cho nó làm kiếp khác”. Tơi cũng hùa theo ơng giáo: “Đúng đấy cụ ạ, nó cũng chỉ là
Hơm nay là một ngày khá là đẹp, mặt trời chiếu những tia nắng xen qua kẽ lá. Tôi đang lụi hụi nấu ăn,
cịn chồng thì chăm chú ngồi đọc sách. Chợt từ xa, lão Hạc với dáng vẻ buồn bã từ từ tiến lại gần nhà
tơi, khơng biết có chủ ý gì mà lão qua đây. Tị mị tơi ló đầu ra hóng chuyện.
Vừa đến cửa, lão nói với chồng tơi, gương mặt hốc hác cúi cằm xuống:
- Cậu Vàng đi rồi ơng Giáo ạ!
À thì ra lão qua đây để nói về con chó mà lão cưng, lão thương như vàng ấy. Không tránh khỏi sự ngạc
nhiên, ông nhà hỏi:
- Cụ đã bán rồi à?
- Vâng, tơi bán rồi.
Lão nói với giọng bùi ngùi, gương mặt lão cố tỏ ra vui vẻ nhưng thật ra trong lòng đau đớn đến tột
cùng. Lão cười, cười một cách quái dị, lão cười mà cứ như mếu. Trên đôi mắt đầy ắp những khổ cực
bắt đầu ngân ngấn nước, đỏ hoe. Ơng nhà tơi xót xa lắm, rót ly rượu mời lão rồi hỏi tiếp:
- Vậy nó cho bắt à?
Câu hỏi này có lẽ đã vơ tình đụng vào nỗi đau mà lão Hạc cố chơn vùi. Lão bắt đầu khóc, lão khóc hu
hu như một đứa trẻ, khóc như chưa từng được khóc. Nước mắt chan hòa với nỗi đau khiến lòng lão
quặn lại, tim đau từng hồi. Những giọt nước mắt ấy tưởng chừng sẽ khơng có ở cái tuổi gần đất xa trời
như lão, ấy vậy mà lại rơi vì trót lừa một con chó, lão nghẹn ngào:
tiền khơng tiêu, có ruộng vườn khơng bán, có chó khơng giết... nhưng bây giờ hiểu rõ sự tình, tơi thấy
thương cho hoàn cảnh lão lắm. Vợ mất sớm, nhà nghèo, con trai thì khơng lấy được vợ, đứa con trai
duy nhất phẫn chí bỏ đi phụ đồn điền cao su không biết khi nào về. Lão phải sống hiu quạnh cùng con
chó là kỉ niệm mà người con trai để lại, lão cưng nên gọi là “cậu Vàng”. Nhưng vì muốn giữ lại mảnh
vườn cho con, lão đứt ruột bán đi cậu Vàng dù trong lịng đau như cắt. Khơng biết cậu Vàng đi rồi, lão
Hạc sẽ sống chuỗi ngày còn lại như thế nào, ai sẽ quấn quýt bên lão những khi lão nhớ đến con trai, ai
bên cạnh lão khi lão ốm yếu? Càng nghĩ tôi càng thấy thương lão. Giật mình khi thấy đồng hồ điểm
mười hai giờ trưa, tơi phải tiếp tục nấu ăn. Cịn lão Hạc với chồng tơi vẫn nói chuyện ở gian trên.
Lão Hạc quả là một con người đáng thương, ơng có một tấm lòng yêu thương con trai và yêu con vật
như yêu chính bản thân. Cuộc đời quả thật trớ trêu khi bắt con người ta phải sống trong sự đau khổ,
kéo dài như thế. Cịn về phần ơng giáo cũng sống trong hồn cảnh túng quẫn. Tuy nhiên ơng có tấm
lịng rộng lớn qua việc mặc dù nhỏ tuổi hơn lão Hạc rất nhiều nhưng khi nghe lão tâm sự, ông vẫn lắng
nghe và chia sẻ cùng lão, không hề phàn nàn mà lại tỏ thái độ vô cùng lễ phép tôn trọng lão Hạc.