Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Luận văn thạc sĩ tội vận chuyển trái phép chất ma túy từ thực tiễn thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 86 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRƯƠNG VŨ THÙY TRANG

TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI, 2020


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRƯƠNG VŨ THÙY TRANG

TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
GS,TS NGUYỄN NGỌC ANH

HÀ NỘI, 2020



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu khoa học, độc lập của
tơi; các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.
Hà Nội, ngày …. tháng …. năm 2020
TÁC GIẢ LUẬN VĂN


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI
VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY ........................................... 8
1.1. Những vấn đề lý luận về tội vận chuyển trái phép chất ma túy ........... 8
1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội vận chuyển trái
phép chất ma túy ....................................................................................... 14
Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ
TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY TẠI THÀNH
PHỐ HÀ NỘI................................................................................................. 40
2.1. Khái quát tình hình, đặc điểm địa bàn thành phố Hà Nội có liên
quan đến tội phạm vận chuyển trái phép chất ma túy ............................... 40
2.2. Thực tiễn áp dụng quy định tội vận chuyển trái phép chất ma túy .... 41
2.3. Nhận xét, đánh giá ............................................................................. 46
Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP CHẤT
MA TÚY TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI THỜI GIAN TỚI .. 57
3.1. Dự báo tình hình tội phạm vận chuyển trái phép chất ma túy và
những yếu tố tác động đến cơng tác áp dụng pháp luật hình sự về tội
vận chuyển trái phép chất ma túy ............................................................. 57
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự đối với tội
vận chuyển trái phép chất ma túy ............................................................. 63
KẾT LUẬN .................................................................................................... 75

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 76


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS

Bộ luật Hình sự

BLTTHS

Bộ luật Tố tụng hình sự

NXB

Nhà xuất bản

TNHS

Trách nhiệm hình sự

TANDTC

Tịa án nhân dân tối cao

VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân tối cao

XHCN


Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU, HÌNH
Bảng 2.1. Thống kê số vụ, bị can bị khởi tố, điều tra các tội về ma túy và tội vận
chuyển trái phép chất ma túy của lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về
ma túy Công an thành phố Hà Nội từ năm 2015 – 2019................................ 41
Bảng 2.2. Đặc điểm nhân thân của các bị can phạm tội vận chuyển trái phép
chất ma túy ..................................................................................................... 42
Bảng 2.3. Mức hình phạt áp dụng khi xét xử tội mua bán trái phép chất ma túy
giai đoạn 2015 - 2019 (Đơn vị tính: bị cáo) ................................................... 47
Hình 2.1. Mức hình phạt áp dụng khi xét xử tội vận chuyển trái phép chất ma
túy giai đoạn 2015 - 2019...............................................................................51


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ những thập niên cuối của thế kỷ XX đến nay, nhân loại đang phải đối phó
với nhiều vấn đề nghiêm trọng, mang tính tồn cầu, như biến đổi khí hậu, ơ nhiễm
mơi trường, chiến tranh ly khai, khủng bố, dịch bệnh, tội phạm xuyên quốc gia,
trong đó có tội phạm về ma túy. Ma túy đã trở thành thảm họa chung của nhân loại,
là nguyên nhân làm gia tăng tội phạm, bạo lực và nhiều tệ nạn xã hội khác. Ma túy
không những hủy hoại sức khỏe lao động và sự phát triển bình thường của giống
nịi mà cịn làm suy thối nhân cách, phẩm giá con người, tàn phá cuộc sống hạnh
phúc của nhiều gia đình, gây xói mịn đạo lý xã hội, ảnh hưởng xấu đến sự ổn định
của một quốc gia, dân tộc và là tác nhân chủ yếu thúc đẩy căn bệnh thế kỷ
HIV/AIDS lan truyền rộng rãi.
Ở Việt Nam, vấn đề ma túy cũng có những diễn biến phức tạp, nhất là Hà
Nội. Với vị thế là thủ đơ, trung tâm chính trị của cả nước, thành phố Hà Nội có hệ
thống giao thơng đường bộ, đường sắt, đường biển, đường sông và đường hàng

không thuận lợi để kết nối, giao thương với các địa phương trong nước và quốc tế.
Những thuận lợi này cũng là nguyên nhân, điều kiện làm cho tình hình tội phạm, tệ
nạn xã hội tại thành phố Hà Nội phức tạp, trong đó có vấn đề ma túy nói chung, tội
phạm vận chuyển ma túy nói riêng. Theo số liệu thống kê của Công an thành phố
Hà Nội và TAND thành phố, giai đoạn 2015 - 2019, tội phạm vận chuyển trái phép
chất ma túy có chiều hướng gia tăng cả về số vụ lẫn bị can, bị cáo. Tội phạm hoạt
động ngày càng tinh vi, xảo quyệt, đối tượng luôn thay đổi phương thức, thủ đoạn
vận chuyển, đặc biệt là lợi dụng công nghệ, kỹ thuật để liên lạc, trao đổi thông tin,
cất giấu ma túy nhằm tránh sự giám sát, phát hiện, truy bắt của lực lượng chức
năng. Nguy hiểm hơn, tội phạm vận chuyển trái phép chất ma túy trên địa bàn Hà
Nội hoạt động theo tổ chức, đường dây, liên tỉnh, xuyên quốc gia, sự liên kết, đan
xen giữa tội phạm kinh tế - hình sự - ma túy ngày càng chặt chẽ; đối tượng vận
chuyển ma túy hầu hết đều tàng trữ trái phép vũ khí và sẵn sàng chống người thi
hành công vụ, gây tâm lý hoang mang, lo sợ trong quần chúng nhân dân.

1


Trước tình hình đó, Thành ủy, Ủy ban nhân dân thành phố, Công an thành
phố Hà Nội đã triển khai nhiều chủ trương, chính sách nhằm ngăn chặn và đẩy lùi
loại tội phạm này. Trong đó, các lực lượng chức năng ln nhất qn việc chủ động
phịng ngừa, nhanh chóng điều tra, làm rõ, xử lý đúng quy định pháp luật các hành
vi vận chuyển trái phép chất ma túy. Với tinh thần đó, tội phạm vận chuyển trái
phép chất ma túy bị phát hiện, xử lý ngày càng tăng, góp phần răn đe những đối
tượng có nguy cơ cao thực hiện hành vi phạm tội, vi phạm pháp luật. Tuy nhiên,
BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 chưa có văn bản hướng dẫn thực thi,
nhiều điều khoản liên quan định khung với tội danh về ma túy còn nhiều quan điểm
khác nhau nên việc áp dụng các quy định của pháp luật hình sự đối với tội vận
chuyển trái phép chất ma túy còn chưa thật sự hiệu quả; ở nơi này, nơi kia vẫn cịn
tình trạng định tội danh chưa chính xác và quyết định hình phạt chưa phù hợp đã

làm giảm hiệu quả đấu tranh phòng, chống tội phạm này.
Mặt khác, thời gian tới, hội nhập, hợp tác quốc tế, khu vực và kết nối giữa
các địa phương với nhau ngày càng được mở rộng, thuận lợi hơn nên tội phạm vận
chuyển trái phép chất ma túy cũng sẽ có điều kiện để gia tăng hoạt động. Điều này
đòi hỏi các lực lượng chức năng phải sớm khắc phục những khó khăn, vướng mắc
trong phịng, chống loại tội phạm này thời gian qua, cũng như có những giải pháp
đồng bộ để nâng cao hiệu quả. Cùng với đó, qua khảo sát sơ bộ, hiện chưa có cơng
trình khoa học nào nghiên cứu về thực tiễn phòng, chống tội phạm vận chuyển trái
phép chất ma túy trên địa bàn thành phố Hà Nội thời gian gần đây, nhất là từ sau khi
BLHS năm 2015 có hiệu lực. Từ những lý do nêu trên, tác giả lựa chọn vấn đề “Tội
vận chuyển trái phép chất ma túy từ thực tiễn thành phố Hà Nội” làm đề tài luận
văn thạc sĩ Luật học là cấp thiết, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, lý luận.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong thời gian qua việc nghiên cứu các tội phạm về ma túy nói chung và tội
vận chuyển trái phép chất ma túy nói riêng đã thu hút được sự quan tâm của nhiều
nhà nghiên cứu lý luận, các nhà khoa học pháp lý hình sự và cán bộ làm công tác
thực tiễn. Đến nay, ở nhiều mức độ khác nhau, đã có một số cơng trình nghiên cứu

2


được công bố dưới dạng các sản phẩm khoa học như: Luận văn, luận án, sách
chuyên khảo, tham khảo, bình luận khoa học, giáo trình và các bài tạp chí. Cụ thể
như:
- Về sách, giáo trình gồm có: GS.TS Võ Khánh Vinh (2001), Giáo trình luật
hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), Nxb Công an nhân dân; tập thể tác giả do
PGS.TSKH Lê Văn Cảm (chủ biên) (2003), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam
(Phần các tội phạm), Nxb đại học Quốc gia Hà Nội, Giáo trình Luật Hình sự Việt
Nam (GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa, chủ biên) (Phần các tội phạm), Nxb Tư Pháp, Hà
Nội, 2017. Ngoài ra, các vấn đề lý luận và thực tiễn xét xử còn được nghiên cứu

trong một số cơng trình nghiên cứu của Ths. Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học
BLHS, Tập IV: Các tội phạm về ma túy, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2006;
GS.TS. Nguyễn Ngọc Anh, Trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về ma túy
theo pháp luật hình sự Việt Nam (Sách chun khảo), Nxb Cơng an nhân dân, Hà
Nội, 2011.
- Về các luận văn, cơng trình nghiên cứu gồm có: Một số luận án tiến sĩ,
luận văn thạc sĩ luật học chuyên ngành Luật Hình sự và Tố tụng hình sự như:
“Trách nhiệm hình sự đối với các tội về ma túy trong Luật Hình sự Việt Nam” của
TS Phạm Minh Tuyên, công bố năm 2006 - Luận án nghiên cứu và đánh giá về đặc
điểm, tình hình các tội phạm về ma túy, phân tích một cách có hệ thống các chính
sách hình sự đối với tội phạm về ma túy, nguyên tắc xử lý hình sự đối với hành vi
phạm tội về ma túy, nghiên cứu các yếu tố cấu thành tội phạm về ma túy và thực
tiễn áp dụng trách nhiệm hình sự về ma túy, qua đó kiến nghị những vấn đề cần
hoàn thiện trong quy định của BLHS. Luận án “đấu tranh phòng chống các tội phạm
về ma túy ở Việt Nam” của TS.Nguyễn Tuyết Mai, bảo vệ năm 2007, Luận án
nghiên cứu chuyên sâu về tình hình, nguyên nhân, điều kiện của các tội phạm về ma
túy từ đó đề ra các giải pháp trong cơng tác phịng ngừa và đấu tranh với tội phạm
ma túy ở Việt Nam.
- Về các tạp chí, có nhiều bài viết về ma túy và tội phạm về ma túy được
công bố trên các tạp chí chun ngành như: Luật học, Tịa án nhân dân, Kiểm sát,

3


Nhà nước và pháp luật,…trong đó có thể kể đến các bài như: “Cần hoàn thiện một
số quy định trong BLHS về các hành vi tang trữ, vận chuyển, mua bán trái phép
hoặc chiếm đoạt chất ma túy” của tác giả Nguyễn Văn Trượng – Tạp chí Kiểm sát số
04/2004 (trang 47-51); “Một số vấn đề liên quan đến hướng dẫn áp dụng điều 194
BLHS” của tác giả Cao Thị Oanh – Tạp chí Luật học số 09/2012 (trang 33-38)…
Các cơng trình khoa học nói trên đều liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến

cơng tác đấu tranh phịng, chống tội phạm về ma túy trên phạm vi cả nước hoặc một
địa bàn cụ thể. Tuy nhiên, chưa có một cơng trình nào nghiên cứu trực tiếp, chun
sâu về tội phạm vận chuyển trái phép chất ma túy trên địa bàn Hà Nội thời gian gần
đây, đặc biệt là từ sau khi BLHS năm 2015 có hiệu lực. Do vậy, đề tài luận văn Tội
vận chuyển trái phép chất ma túy từ thực tiễn thành phố Hà Nội mà tác giả lựa
chọn để nghiên cứu là đề tài độc lập, mới, khơng trùng lặp với cơng trình khoa học
nào đã cơng bố. Q trình tổ chức nghiên cứu đề tài, tác giả sẽ tiếp thu, kế thừa kết
quả nghiên cứu của các cơng trình trên.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài này là nghiên cứu, phân tích làm sáng tỏ
các vấn đề lý luận về tội vận chuyển trái phép chất ma túy, cũng như đánh giá thực
tiễn áp dụng trên địa bàn thành phố Hà Nội. Từ đó xác định những tồn tại, bất cập
trong quy định của BLHS và đưa ra những kiến nghị giải pháp nhằm hoàn thiện
pháp luật hình sự, các văn bản hướng dẫn áp dụng về tội vận chuyển trái phép chất
ma túy để nâng cao hiệu quả phòng ngừa, đấu tranh với loại tội phạm này trên địa
bàn thành phố Hà Nội.
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn đặt ra những nhiệm vụ nghiên cứu sau:
-

Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận pháp luật về tội vận chuyển trái phép

chất ma túy theo pháp luật hình sự Việt Nam;
-

Phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về tội vận

chuyển trái phép chất ma túy trên địa bàn thành phố Hà Nội giai đoạn 2015 – 2019;
-

Dự báo và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng quy định của


pháp luật về tội vận chuyển trái phép chất ma túy trên địa bàn thành phố Hà Nội.

4


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Quy định của pháp luật hình sự về tội vận chuyển trái phép chất ma túy và
thực tiễn áp dụng pháp luật của lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy
Công an thành phố Hà Nội.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung, đề tài được thực hiện trong phạm vi chuyên ngành Luật Hình
sự và Tố tụng hình sự, nghiên cứu các quy định pháp luật và việc áp dụng pháp luật
trong phòng, chống tội phạm vận chuyển trái phép chất ma túy.
Về địa bàn, đề tài được thực hiện trong phạm vi thành phố Hà Nội.
Về thời gian, đề tài nghiên cứu số liệu thực tế trong giai đoạn từ năm 2015
đến năm 2019.
Về tội danh, đề tài nghiên cứu tội vận chuyển trái phép chất ma túy được quy
định tại Điều 194 BLHS năm 1999 và Điều 250 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung
năm 2017).
Về chủ thể đó là các cơ quan, lực lượng chuyên trách, trực tiếp áp dụng pháp
luật phòng, chống tội phạm vận chuyển trái phép chất ma túy, trọng tâm là lực
lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Hà Nội.
5. Phương pháp nghiên cứu
-

Cơ sở phương pháp luận nghiên cứu đề tài là phép biện chứng của chủ

nghĩa Mác-Lênin; quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng, pháp luật của Nhà nước;

chỉ đạo của Bộ Cơng an về đấu tranh phịng, chống tội phạm nói chung, phịng,
chống tội phạm ma túy nói riêng; phương pháp luận của Tội phạm học và phòng
ngừa tội phạm.
-

Phương pháp nghiên cứu cụ thể:

+ Phương pháp nghiên cứu tài liệu: BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm
2009); BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Bình luận khoa học BLHS
năm 2015, Phần các tội phạm; Giáo trình Tội phạm học, Tổng Cục Xây dựng lực
lượng Công an nhân dân năm 2011… Trên cơ sở nghiên cứu các tài liệu kể trên,

5


luận văn khái quát và làm rõ nhận thức cơ bản về hoạt động phòng ngừa tội phạm
vận chuyển trái phép chất ma túy trên địa bàn thành phố Hà Nội.
+ Phương pháp thống kê, so sánh, đối chiếu: Tiến hành nghiên cứu các báo
cáo tổng kết công tác năm, số liệu thống kê của các đơn vị nghiệp vụ từ năm 2015
đến hết năm 2019 để xây dựng các biểu thống kê. Từ đó, có sự phân tích, so sánh,
đối chiếu giữa các năm với nhau để rút ra các nhận xét, đánh giá và là căn cứ khoa
học để đưa ra dự báo.
+ Phương pháp chuyên gia: tiến hành trao đổi trực tiếp, phỏng vấn lãnh đạo,
chỉ huy và cán bộ, chiến sĩ thuộc lực lượng tham gia trực tiếp để tìm hiểu thực
trạng, cũng như trao đổi, làm rõ những vấn đề khó khăn, vướng mắc trong hoạt
động áp dụng pháp luật hình sự về tội vận chuyển trái phép chất ma túy trên thành
phố Hà Nội trong thời gian qua; xin ý kiến giáo viên hướng dẫn và lãnh đạo các đơn
vị nghiệp vụ để góp ý, chỉnh sửa, bổ sung, hoàn thiện đề cương chi tiết, báo cáo
tổng luận đề tài.
+ Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Trên cơ sở những lý luận cơ bản về

hoạt động áp dụng pháp luật hình sự về tội phạm vận chuyển trái phép chất ma túy
trên địa bàn thành phố Hà Nội, học viên tiến hành khảo sát thực tiễn, phân tích,
đánh giá để phát hiện những ưu điểm, hạn chế trong thực tiễn áp dụng pháp luật tội
phạm này. Từ đó, có cơ sở đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả cơng
tác áp dụng pháp luật hình sự về tội vận chuyển trái phép chất ma túy trên địa bàn
thành phố Hà Nội trong thời gian tới.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Đề tài là cơng trình nghiên cứu vừa có ý nghĩa lý luận và thực tiễn:
- Về ý nghĩa lý luận: Luận văn được thực hiện có ý nghĩa góp phần nhằm
làm rõ hơn những vấn đề về lý luận, quy định của pháp luật về tội vận chuyển trái
phép chất ma túy.
- Về ý nghĩa thực tiễn: Luận văn là tài liệu tham khảo cho các cơ quan tiến
hành tố tụng trong giải quyết vụ án hình sự về tội vận chuyển trái phép chất ma túy.
Cùng đó, luận văn cịn là tài liệu tham khảo cho các sinh viên, học viên chuyên

6


ngành luật hình sự trên các cơ sở đào tạo luật. Bên cạnh đó, việc tìm hiểu thực tiễn
áp dụng quy định của pháp luật hình sự về tội vận chuyển trái phép chất ma túy trên
thực tế tại thành phố Hà Nội từ đó đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc
áp dụng pháp luật, góp phần kiềm chế tội phạm, giảm thiểu hậu quả, tác hại cho
người dân sinh sống trên địa bàn.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo và phần kết luận, luận văn
được cấu trúc thành 3 chương; cụ thể như sau:
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về tội vận chuyển trái phép chất ma túy
Chương 2. Đặc điểm địa bàn và thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về tội
vận chuyển trái phép chất ma túy của lực lượng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma
túy Công an thành phố Hà Nội

Chương 3. Dự báo và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự
về tội vận chuyển trái phép chất ma túy trên địa bàn thành phố Hà Nội thời gian tới

7


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI VẬN CHUYỂN
TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
1.1. Những vấn đề lý luận về tội vận chuyển trái phép chất ma túy
1.1.1. Khái niệm tội vận chuyển trái phép chất ma túy
Để làm rõ nội hàm khái niệm tội vận chuyển trái phép chất ma túy, ta phải
làm rõ các thuật ngữ cấu thành như “trái phép”, “chất ma túy”…
Từ điển tiếng Việt, “trái phép” được hiểu là trái với pháp luật hoặc trái với
điều mà pháp luật cho phép [51, tr. 359].
Thuật ngữ "ma túy" xuất hiện từ lâu trên thế giới với nhiều cách hiểu khác
nhau nhưng các tổ chức quốc tế ln xác định tính chất nghiêm trọng của vấn đề
này và đặt ra yêu cầu hợp tác phịng ngừa, ngăn chặn. Để có căn cứ xác định loại
chất ma túy, Liên hợp quốc đã ban hành Công ước quốc tế về thống nhất các chất
ma túy năm 1961, 1971, 1988. Theo đó, ma túy là bất kỳ chất liệu nào được liệt kê
trong bảng I, III, IV của Công ước này, dù dưới dạng tự nhiên hay tổng hợp. Các
chất ma túy có thể phân loại ra thành các nhóm như sau:
- Theo đặc tính và mức độ tác động của chất gây nghiện, ma túy được chia
thành ba nhóm: Ma túy mạnh, ma túy trung bình, ma túy nhẹ.
- Theo nguồn gốc, cách thức tạo ra chất ma túy, ma túy được chia thành ba nhóm:
+ Ma túy tự nhiên: Các loại ma túy có nguồn gốc tự nhiên, thu được bằng
cách hái hoặc nuôi trồng như thuốc phiện (quả); lá, hoa, quả cây cần sa...;
+ Ma túy bán tổng hợp: Các chất ma túy được điều chế từ sản phẩm tự nhiên
bằng cách cho tác dụng với một số hóa chất để thu được chất ma túy có tác dụng
mạnh hơn chất ma túy ban đầu (Ví dụ: Hêrơin là chất ma túy bán tổng hợp từ

morphine bằng cách axetyl hóa morphine...);
+ Ma túy tổng hợp: Là các chất ma túy được điều chế bằng phương pháp
tổng hợp hóa học tồn phần từ các chất (gọi là tiền chất). Các chất ma túy tổng hợp
có tác dụng mạnh và nhanh hơn ma túy bán tổng hợp (methadone, dolargan,
methamphetamine...).
8


- Theo tác dụng về mặt sinh học trên cơ thể con người, ma túy được chia
thành tám nhóm: Các chất gây êm dịu, đam mê (các chất ma túy chính gốc) gồm
thuốc phiện và các chế phẩm của thuốc phiện như morphine, heroin, methadone,
dolargan, v.v.; Cần sa và các sản phẩm của Cần sa; Coca và các sản phẩm của Coca;
thuốc ngủ: Có tác dụng ức chế thần kinh (barbiturate, methaqualone,
mecloqualone...); các chất an thần: Các chất thuộc dẫn xuất của benzodiazepine,
meprobamate, hydroxyzin; các chất kích thích: Amphetamin và các dẫn xuất của
nó; các chất gây ảo giác: LSD, mescalin. các dẫn xuất của tryptamin, v.v.; dung môi
hữu cơ và các thuốc xông.
- Theo nguồn gốc và tác động dược lý, ma túy được chia thành năm loại: Ma
túy là các chất từ cây thuốc phiện (opiates); ma túy là các chất từ cây cần sa
(cannabis); ma túy là các chất kích thích (stimulants); ma túy là các chất ức chế
(depressants); ma túy là các chất gây ảo giác (hallucinorens).
Ở Việt Nam, thuật ngữ “ma túy” xuất hiện khá muộn và chính thức được sử
dụng lần đầu tiên trong pháp luật Việt Nam tại BLHS năm 1985. Từ đó đến nay,
thuật ngữ này được sử dụng nhiều và ở nước ta đã có hẳn 01 đạo luật về vấn đề này
đó là Luật Phịng, chống ma túy. Khoản 1 Điều 2 Luật Phịng, chống ma túy thì:
Chất ma túy bao gồm chất gây nghiện và chất hướng thần được quy định trong các
danh mục do Chính phủ ban hành. Để làm rõ hơn khái niệm này, Luật Phòng, chống
ma túy đã quy định thêm khái niệm “chất gây nghiện” và “chất hướng thần”. Theo
đó, “chất gây nghiện là chất kích thích hoặc ức chế thần kinh, dễ gây tình trạng
nghiện đối với người sử dụng”, và “chất hướng thần” là chất kích thích, ức chế thần

kinh hoặc gây ảo giác, nếu sử dụng nhiều lần có thể dẫn tới tình trạng nghiện đối
với người sử dụng. Như vậy, trong Luật Phòng, chống ma túy, cụm từ “chất ma
túy” được định nghĩa và giải thích một cách gián tiếp qua các khái niệm “chất gây
nghiện” và “chất hướng thần”.
Để cụ thể hóa chất nào là chất ma túy và bị cấm hay hạn chế sử dụng thì hiện
nay, Chính phủ quy định danh mục các chất ma túy và tiền chất tại Nghị định số
73/2018/NĐ-CP, ngày 15/5/2018. Theo đó, ở Việt Nam hiện có 515 chất ma túy

9


chia thành 03 danh mục theo mức độ độc hại và yêu cầu kiểm soát việc sử dụng các
chất này đó là:
Thứ nhất, các chất ma túy tuyệt đối cấm sử dụng trong y học và đời sống xã
hội; việc sử dụng các chất này trong phân tích, kiểm nghiệm, nghiên cứu khoa học,
điều tra tội phạm theo quy định đặc biệt của cơ quan có thẩm quyền.
Thứ hai, các chất ma túy được dùng hạn chế trong phân tích, kiểm nghiệm,
điều tra tội phạm, hoặc trong lĩnh vực y tế theo quy định của cơ quan có thẩm
quyền.
Thứ ba, các chất ma túy được dùng trong phân tích, kiểm nghiệm, nghiên
cứu khoa học, điều tra tội phạm hoặc trong lĩnh vực y tế, thú y theo quy định của cơ
quan có thẩm quyền.
Ngồi ra, Nghị định số 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 cịn quy định 47 tiền
chất khơng thể thiếu trong quá trình sản xuất, điều chế ma túy.
Việc phân các loại chất ma túy thành các nhóm như đã nói ở trên khơng chỉ
có ý nghĩa trong cơng tác nghiên cứu về mặt khoa học mà còn phục vụ đắc lực cho
cơng tác đấu tranh phịng, chống tội phạm về ma túy. Bởi lẽ, khi xác định được
nguồn gốc của các loại ma túy, đặc tính, hàm lượng, trọng lượng của từng loại ma
túy... thì có thể giải quyết một cách đúng đắn và có hiệu quả vấn đề TNHS của
người phạm tội nói riêng cũng như cơng cuộc đấu tranh phịng, chống tội phạm về

ma túy nói chung.
Tóm lại, để xác định một chất nào đó là ma túy thì chất đó phải có các đặc
điểm sau: Được quy định trong danh mục các chất ma túy ban hành kèm theo Nghị
định của Chính phủ; chất đó có nguồn gốc tự nhiên hoặc tổng hợp; là chất độc gây
nghiện; khi đưa các chất này vào cơ thể con người nó sẽ làm biến đổi một số chức
năng thần kinh, làm thay đổi trạng thái ý thức và sinh lý của người đó. Nếu lạm
dụng ma túy, sử dụng khơng đúng cách, khơng đúng liều lượng, khơng theo chỉ
định thì người sử dụng sẽ nhanh chóng bị lệ thuộc vào nó, khi đó ma túy sẽ gây tổn
thương về nhiều mặt cho sức khỏe về cả thể chất và tinh thần cho chính người sử

10


dụng, đồng thời còn tiềm ẩn nguy cơ gây thiệt hại cho cộng đồng và xã hội từ chính
người nghiện ma túy này.
Việc đưa ra một định nghĩa về ma túy xét ở một khía cạnh nào đó sẽ chỉ có ý
nghĩa trong việc nghiên cứu khoa học. Trên thực tế, khi cần xác định một chất có
phải là ma túy hay khơng thì các cơ quan có trách nhiệm cần phải trưng cầu giám
định để trả lời cho một loạt câu hỏi như: Loại ma túy gì? hàm lượng, khối lượng
chất ma túy đã được xác định là bao nhiêu? tiền chất dùng để sản xuất mà túy là loại
hóa chất nào?..., đồng thời phải căn cứ vào Danh mục các chất ma túy quy định tại
Nghị định số 73/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ để so sánh, đối chiếu.
Nghiên cứu Điều 250 BLHS năm 2015 cho thấy, điều luật không mô tả như
thế nào là hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy, hay nói theo cách khác là
không quy định khái niệm cụ thể về tội vận chuyển trái phép chất ma túy. Trong
khoa học luật hình sự Việt Nam hiện nay, mặc dù các nhà khoa học cịn có nhiều
điểm khác nhau về khái niệm tội vận chuyển trái phép chất ma túy, song nhìn
chung, các quan điểm đó vẫn khá thống nhất trong việc nêu ra nội dung và bản chất
pháp lý của tội phạm này.
Có quan điểm cho rằng: “Hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy là hành

vi đưa chất ma túy từ địa điểm này đến địa điểm khác mà khơng có giấy phép hợp
lệ. Hành vi vận chuyển chất ma túy có thể được thực hiện dưới bất kỳ hình thức nào
như mang theo người, chuyển qua đường bưu điện, đường hàng khơng...” [51,
tr.138]. Quan điểm này có điểm hợp lý là phù hợp với các quy định của pháp luật
hình sự Việt Nam, nhưng dưới góc độ khoa học, khái niệm đã nêu vẫn chưa đưa ra
được dấu hiệu chủ thể của tội phạm.
Quan điểm khác lại cho rằng: Hành vi “vận chuyển trái phép chất ma túy là
hành vi chuyển dịch trái phép chất ma túy không nhằm mục đích sản xuất, mua bán,
tàng trữ trái phép chất ma túy thuộc một trong những trường hợp được quy định tại
Điều 250 BLHS” [49, tr.4].
Mặc dù đã có nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm tội vận chuyển trái
phép chất ma túy, tuy nhiên các quan điểm này mới chỉ nêu ra được một cách khái

11


quát mà chưa nêu được một cách đầy đủ khái niệm của tội này một cách khoa học.
Tổng hợp từ những quan điểm của các nhà khoa học, tác giả xin đưa ra khái niệm
về tội vận chuyển trái phép chất ma túy như sau:
Tội vận chuyển trái phép chất ma túy là hành vi chuyển dịch trái phép chất
ma túy từ nơi này đến nơi khác dưới bất kỳ hình thức nào mà khơng nhằm mục đích
sản xuất, mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy do người có năng lực trách nhiệm
hình sự, đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý xâm phạm chế độ
quản lý độc quyền của Nhà nước về ma túy.
1.1.2. Sự cần thiết của việc quy định tội vận chuyển trái phép chất ma túy
trong luật hình sự Việt Nam
Trong đấu tranh phịng và chống tội phạm nói chung, phòng, chống tệ nạn
ma túy và tội phạm vận chuyển trái phép chất ma túy nói riêng, vấn đề đạo lý cũng
luôn được đặt ra để giáo dục và nâng cao ý thức chính trị, pháp luật của người dân đối
với những tác hại của tệ nạn ma túy và sự nguy hiểm của tội phạm ma túy đối với mỗi

người dân, mỗi gia đình, và xã hội. Chính bởi nhận thức trên mà người dân cũng sẽ có
trách nhiệm hơn và chú tâm hơn đến cuộc đấu tranh chung của toàn xã hội trong việc
ngăn chặn, đẩy lùi các tệ nạn xã hội và phòng, chống các loại tội phạm này.
Vận chuyển trái phép chất ma tuý không chỉ là hiện tượng nguy hiểm cho xã
hội, mà còn là những hành vi vi phạm pháp luật, trái với các chuẩn mực đạo đức xã
hội và đi ngược lại truyền thống văn hóa tốt đẹp của người Việt Nam. Hiện tượng
nguy hiểm này là có tính phổ biến, có tốc độ lây lan rất nhanh, tạo ra sự bất ổn trong
đời sống xã hội và gây ra nhiều thiệt hại nghiêm trọng về kinh tế, văn hóa, đạo đức,
xã hội,… Khi tội phạm vận chuyển trái phép chất ma túy đã trở nên phổ biến ở các
quốc gia trên thế giới và nó có thể trở thành một vấn đề mang tính tồn cầu, thì các
Nhà nước đều phải có những biện pháp cụ thể để ngăn chặn và tiến tới xóa bỏ hiện
tượng nguy hiểm này.
Để ngăn chặn và phịng, chống có hiệu quả đối với hiện tượng nguy hiểm
trên, Đảng và Nhà nước ta đã chủ động lập pháp để tạo cơ sở pháp lý, quán triệt,
phổ biến và tổ chức thực hiện pháp luật.

12


Trong lập pháp, nước ta đã từng bước xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật bao gồm các quy định của pháp luật hình sự và pháp luật TTHS; các quy định
của pháp luật hành chính và tố tụng hành chính; các quy định của pháp luật về thi
hành án hình sự và các quy định của pháp luật về phịng chống ma túy… nhằm mục
đích đấu tranh một cách quyết liệt hơn, hiệu quả hơn đối với tệ nạn ma túy và đặc
biệt đối với tội phạm vận chuyển trái phép chất ma túy. Qua đó, pháp luật thể hiện
vai trị quan trọng trong cơng tác đấu tranh phịng, chống tội phạm ma túy nói chung
và đặc biệt là tội phạm vận chuyển trái phép chất ma túy nói riêng bởi lẽ:
- Pháp luật là phương tiện ghi nhận và bảo tồn các giá trị đạo đức, truyền
thống văn hóa tốt đẹp của người Việt Nam;
- Pháp luật là phương tiện để Đảng và Nhà nước ta thể chế hóa đường lối đấu

tranh và kiểm tra đường lối đấu tranh phịng, chống tệ nạn ma túy nói chung và đối
với tội phạm vận chuyển trái phép chất ma túy nói riêng;
- Pháp luật là phương tiện tạo lập mơi trường thuận lợi góp phần thủ tiêu các
ngun nhân và điều kiện làm phát sinh tệ nạn ma túy và tội phạm ma túy nói
chung, tội phạm vận chuyển trái phép chất ma túy nói riêng;
- Pháp luật là phương tiện tổ chức và hoạt động của các cơ quan chức năng có
thẩm quyền trong đấu tranh phịng, chống tệ nạn ma túy;
- Pháp luật là phương tiện có hiệu lực để các cơ quan chức năng có thẩm
quyền tiến hành các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các hành vi phạm tội vận
chuyển trái phép chất ma túy.
Nhìn chung, việc quy định tội vận chuyển trái phép chất ma túy trong Luật
hình sự Việt Nam là một địi hỏi khách quan và có tính tất yếu cả về lý luận và thực
tiễn trong đời sống xã hội. Những quy định này không những phản ánh các điều
kiện kinh tế - xã hội, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ chính trị ở Việt Nam hiện
nay, mà còn thể hiện rõ những quan điểm, quyết tâm của Đảng và Nhà nước ta cũng
như nỗ lực của toàn thể dân tộc Việt Nam trong việc giải quyết vấn đề rất phức tạp
mang tính tồn cầu: Tệ nạn ma túy và tội phạm vận chuyển trái phép chất ma túy.

13


1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội vận chuyển trái
phép chất ma túy
1.2.1. Giai đoạn trước khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1985
Cây có chứa chất gây nghiện đã được đưa vào nước ta khá sớm, đầu tiên là
cây thuốc phiện và được trồng ở các tỉnh phía Bắc Việt Nam trong những năm đầu
của thế kỷ XVII. Ban đầu, thuốc phiện được coi là một thứ thần dược, có tác dụng
chữa nhiều bệnh, điều trị hiệu quả bệnh thấp khớp, đường ruột, giảm đau. Ngồi
những tác động này, các chính quyền phong kiến đã sớm nhận ra những tác hại của
việc sử dụng thuốc phiện, ngay từ năm Cảnh Trị thứ ba (1665) Nhà nước Phong

kiến ban hành luật đầu tiên về thuốc phiện, đạo luật này quy định: “Con trai, con gái
sử dụng thuốc phiện để thỏa lòng dâm dật, cướp dùng nó để nhịm ngó nhà người ta.
Trong thì kinh thành, ngồi thì thơn xóm, vì nó mà có khi hỏa hoạn, khánh kiệt tài
sản. Vì nó mà thân thể tàn tạ, người chẳng ra người” [13, tr.54]. Đạo luật này cịn
quy định: “Quan lại và dân chúng khơng được trồng hoặc mua bán thuốc phiện. Ai
đã trồng phải phá đi, người nào giữ thì phải hủy đi” [13, tr.55].
Vào năm 1820, để triệt đường cung cấp thuốc phiện từ nước ngoài vào Việt
Nam vua Minh Mạng đã ra quy định: Cấm các thuyền buôn từ Tân Châu (huyện
Trác Lộc, tỉnh Trực Lệ, Trung Quốc) vào Việt Nam. Khám xét tất cả các thuyền
bn nước ngồi vào các cảng dọc theo bờ biển nước ta, thuyền buôn nào chứa,
giấu thuốc phiện hoặc thuê mướn thuyền khác vận chuyển thì chủ thuyền phải chịu
tội tử hình. Nếu chứa thuốc phiện dưới 1 kg thì xử giam hậu, nếu trên 1 kg thì xử tội
giảo (tức là treo cổ).
Cùng với đó là các quy định cấm trồng, vận chuyển, sử dụng thuốc phiện: Kẻ
nào mua bán thuốc phiện thì bị xử phạt 60 trượng, xử tù 1 năm. Tịch thu toàn bộ vật
chứng dùng trong buôn bán thuốc phiện. Lái buôn nước ngồi bn bán thuốc phiện
thì bị đánh 100 trượng và tịch thu vật chứng. Đối với chủ hàng, chủ chứa bàn đèn
hút thuốc phiện bị xử phạt 100 trượng và bị xử tù 3 năm.
Song song với đó, triều đình nhà Nguyễn cịn có chính sách khen thưởng rất
hậu hĩnh cho người phát hiện hoặc cáo giác đúng người mua bán thuốc phiện.

14


Chẳng hạn trong Luật năm 1840 đã quy định rõ: “Người nào phát hiện kẻ tàng trữ,
buôn bán thuốc phiện dưới 1kg thì thưởng 100 quan tiền, trên 1 kg thì thưởng 150
quan tiền, từ 3kg trở lên được thưởng thêm. Quan lại khám xét ra được thưởng số
tiền tương đương một nửa vật chứng và được thăng một cấp” [56, tr.472].
Có thể nói từ thời vua Minh Mạng trở về trước việc trồng, vận chuyển, buôn
bán và sử dụng thuốc phiện được nhà nước kiểm soát chặt chẽ, nhờ vậy mà tình

hình tội phạm về thuốc phiện ở nước ta được kiềm chế. Các văn bản do vua Minh
Mạng ban hành đã thể hiện sự kết hợp chặt chẽ giữa đề cao vai trị của chính quyền
phong kiến các cấp với việc phát huy vai trò của quần chúng, của từng gia đình
trong cộng đồng phịng, chống tội phạm về ma túy.
Nhưng sau khi xâm chiếm nước ta, thấy rõ nguồn lợi nhuận lớn của thuốc
phiện, thục dân Pháp đã hợp thức hóa việc trồng, vận chuyển và sử dụng thuốc
phiện, coi đó là một trong những biện pháp cai trị người dân xứ thuộc địa. Vào ngày
28-12-1861, Đô đốc Hải quân Pháp Bonard đã ký Nghị định thiết lập cho trưng thầu
độc quyền khai thác thuốc phiện. Nội dung của nó là chính quyền bảo hộ cho phép
nhập khẩu thuốc phiện qua cảng Sài Gòn và Chợ Lớn, Nhà nước bảo hộ sẽ thu 10%
giá trị số thuốc phiện được nhập khẩu. Ngồi ra cịn quy định hàng năm Nhà nước
bảo hộ còn tổ chức đấu thầu việc nhập khẩu, mua bán thuốc phiện.
Trước việc thực dân Pháp hợp thức hóa việc mua bán thuốc phiện, việc cấm
cũng khơng có hiệu quả. Chính vì vậy, năm 1863, trong cuốn “Quốc triều chính
biên” vua Tự Đức quy định: Nay thôi cấm mà đánh thuế thật nặng để người bán ít
đi, từ đó người hút cũng ít theo. Bên cạnh đó nhà Nguyễn lập Ty Thuốc phiện ở
miền Bắc và nhượng quyền khai thác cho các thương gia người Hoa để thu một
khoản thuế. Do chính sách bng lỏng việc quản lý chất ma túy như vậy, cho nên
10 năm sau khi Vua Minh Mạng qua đời, tệ nạn nghiện thuốc phiện và tội phạm
buôn bán thuốc phiện đã gia tăng mạnh mẽ ở Việt Nam.
Chỉ khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hồ ra đời thì cơng tác phịng,
chống ma túy mới được các cấp chính quyền thực sự quan tâm. Một ngày sau khi
đọc Tuyên ngôn độc lập, ngày 03/9/1945, trong bài về “Những nhiệm vụ cấp bách

15


của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Chế độ
thực dân đã đầu độc dân ta với rượu và thuốc phiện. Nó đã dùng mọi thủ đoạn nhằm
hủ hóa dân tộc chúng ta bằng những thói xấu, lười biếng gian giảo, tham ô và những

thói xấu khác. Chúng ta có nhiệm vụ cấp bách là phải giáo dục lại nhân dân chúng
ta... Cuối cùng tôi đề nghị tuyệt đối cấm thuốc phiện”. Cùng với đó là Sắc lệnh tạm
giữ những luật lệ của Sở Tổng thanh tra muối và thuốc phiện và các sở Thương
chính ngày 10/9/1945.
Thực hiện chỉ thị của Hồ Chủ Tịch, ngày 05/3/1952, Thủ tướng Chính phủ
đã ban hành Nghị định số 150/TTg ấn định chế độ tạm thời về thuốc phiện, trong
Nghị định chỉ rõ thuốc phiện là loại sản phẩm đặc biệt, chỉ có các cơ quan chuyên
trách của Nhà nước mới được phép vận chuyển, lưu trữ thuốc phiện.
Tiếp theo đó, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Nghị định số 225/TTg ngày
22/12/1952 quy định những người có hành vi vi phạm thể lệ quản lý thuốc phiện bị
xử lý như: tịch thu thuốc phiện tàng trữ hoặc vận chuyển trái phép; phạt tiền từ một
đến năm lần trị giá số thuốc phiện lậu. Người vi phạm có thể bị truy tố trước Tồ án
nhân dân.
Năm 1954, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, hồ bình lập
lại, trong cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Đảng và Nhà nước ta
tiếp tục quan tâm đến việc xây dựng hệ thống pháp luật mới, trong đó có cơng tác
đấu tranh chống bn lậu thuốc phiện và các chất ma tuý khác. Ngoài Nghị định số
580/TTg ngày 15/9/1955 của Thủ tướng Chính phủ quy định những trường hợp cụ
thể có thể đưa ra Tồ án để xét xử, Bộ Tư pháp cịn ban hành Thông tư số
635/VVH-HS ngày 29/3/1945 và Thông tư số 33/VHH-HS ngày 5/7/1958 hướng
dẫn đường lối truy tố và xét xử những vụ án về buôn lậu thuốc phiện.
Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, vấn đề pháp luật cũng
cần thống nhất trong cả nước, ngày 25/3/1977, Hội đồng Chính phủ đã ban hành
Nghị định số 76/CP về chống buôn lậu thuốc phiện. Trên cơ sở Nghị định này,
TANDTC, VKSNDTC, Bộ Nội vụ đã ra một số thông tư liên ngành hướng dẫn áp
dụng pháp luật trong cả nước. Tuy chỉ điều chỉnh chất ma túy duy nhất là thuốc

16



phiện nhưng với việc ban hành các văn bản trên đã cho thấy quyết tâm của Đảng và
Nhà nước ta về phịng chống ma túy, qua đó góp phần ngăn chặn, xử lý kịp thời tội
phạm tàng trữ, vận chuyển, mua bán, chiếm đoạt trái phép chất ma túy.
1.2.2. Giai đoạn sau khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1985 đến trước
khi ban hành Bộ luật Hình sự năm 1999
Năm 1985, BLHS đầu tiên của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam ra đời, Bộ
luật này khơng có quy định riêng về tội vận chuyển trái phép chất ma túy. Trong
thời kỳ này, những hành vi mua bán, tàng trữ, vận chuyển, chiếm đoạt chất ma túy
được pháp luật hình sự giải quyết bằng các quy định khác nhau tương ứng với hành
vi cụ thể. Đối với hành vi mua bán, tàng trữ chất ma túy thì áp dụng Điều 166
BLHS năm 1985 với tội danh “buôn bán hoặc tàng trữ hàng cấm”. Nếu tàng trữ,
mua bán trái phép với mục đích vận chuyển qua biên giới thì bị xử vào “tội bn
lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hố, tiền tệ qua biên giới”, Điều 97. Đối với
hành vi chiếm đoạt chất ma túy thì được thực hiện thơng qua các hành vi phạm tội
như tham ô, cướp giật, cưỡng đoạt, trộm cắp, lừa đảo... được áp dụng các điều luật
tương ứng.
Do diễn biến của các tội phạm về ma túy ngày càng phức tạp, tính chất
nghiêm trọng của hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép chất ma túy, ngày
28 tháng 12 năm 1989, tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam
khóa VIII đã thơng qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 1985
trong đó có bổ sung Điều 96a. Tội sản xuất, tàng trữ, mua bán, vận chuyển trái phép
các chất ma tuý và quy định tội này nằm trong Chương các tội xâm phạm an ninh
quốc gia.
Trước tình hình tội phạm về ma túy nói chung ngày càng gia tăng, nhiều
hành vi nguy hiểm chưa được quy định cụ thể vào trong luật thành điều luật riêng.
Do đó, ngày 10 tháng 5 năm 1997 tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội nước Cộng hoà
XHCN Việt Nam khố IX đã thơng qua luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ
luật hình sự năm 1985. Trong Luật sửa đổi bổ sung, đã bổ sung Chương VIIA “Các
tội phạm về ma tuý” vào “Phần các tội phạm” của BLHS gồm có 14 điều luật từ


17


Điều 185a đến Điều 185o. Trong đó, từng hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán
trái phép, chiếm đoạt chất ma túy được quy định riêng trong bốn điều luật khác
nhau, từ Điều 185c đến Điều 185e, với tên gọi cụ thể: Điều 185c. Tội tàng trữ trái
phép chất ma túy; Điều 185d. Tội vận chuyển trái phép chất ma túy; Điều 185đ. Tội
mua bán trái phép chất ma túy; Điều 185e. Tội chiếm đoạt chất ma túy.
So với Điều 96a trước đây thì các điều 185c, 185d, 185đ, 185e có nhiều điểm
mới, cụ thể: Trong luật sửa đổi bổ sung năm 1997 thì Điều 185c, 185d, 185đ, 185e
với 4 khung hình phạt (Điều 96a chỉ có 3 khung hình phạt), ngồi việc bỏ tình tiết
định khung có tính chất chuyên nghiệp thì bổ sung thêm những tình tiết định khung
mới như: tại Điểm b, Khoản 2 các điều nêu trên “phạm tội nhiều lần”; các khoản 3,
4 các điều đều có tình tiết định khung quy định sẽ phải chịu hình phạt quy định tại
khung hình phạt đó nếu có nhiều tình tiết quy định tại khoản trước đó.
Ngồi ra tại khoản 2, Điều 185d có các tình tiết định khung mới so với Điều
96a như: “đ. Vận chuyển qua biên giới; e. Sử dụng người chưa thành niên vào việc
phạm tội”. Khoản 2, Điều 185đ có các tình tiết định khung mới: “e. Mua bán qua
biên giới; g. Sử dụng người chưa thành niên vào việc phạm tội”. Điều 185e tại
khoản 2 có các tình tiết định khung mới: “đ. Có sử dụng vũ khí hoặc phương tiện
nguy hiểm”.
Một điểm mới quan trọng của các điều 185c, 185d, 185đ, 185e so với Điều
96a là việc khơng cịn quy định mang tính chất định tính như: “hàng phạm pháp có
số lượng lớn” mà thay vào đó, trong các điều luật mới có quy định trọng lượng, thể
tích các chất ma túy tương ứng với từng khung hình phạt.
Về hình phạt bổ sung, theo quy định tại khoản 2 Điều 100 BLHS năm 1985
(chưa sửa đổi) quy định: “Công dân Việt Nam phạm tội sản xuất, tàng trữ, vận
chuyển, mua bán trái phép chất ma túy thì bị phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một
năm đến năm năm”. Nay Điều 185 khơng quy định hình phạt bổ sung quản chế hoặc
cấm cư trú đối với người phạm các tội này.

Để thực hiện thống nhất các quy định của BLHS về hành vi mua bán, tàng
trữ, vận chuyển trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy, trong thời gian từ năm 1990

18


đến năm 1998, Nhà nước đã ban hành 9 thông tư liên ngành, thơng tư liên tịch có
chứa nội dung hướng dẫn áp dụng các quy định của BLHS năm 1985 về tội phạm
ma túy. Đó là: Thơng tư liên ngành số 01-TTLN ngày 01/02/1990, số 11/TTLN
ngày 20/11/1990 của VKSNDTC, TANDTC, Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp; Thông tư
liên ngành số 02/TTLN ngày 20/12/1991 của TANDTC, VKSNDTC; Thông tư liên
ngành số 07/TTLN ngày 05/12/1992 của Bộ Nội vụ, VKSNDTC, TANDTC; Thông
tư liên ngành số 02/TTLN ngày 20/3/1993 của TANDTC, VKSNDTC, Bộ Nội vụ,
Bộ Tư pháp; Thông tư liên ngành số 05/TTLN ngày 14/02/1995 của TANDTC,
VKSNDTC, Bộ Nội vụ, Bộ Tư pháp; Thông tư liên ngành số 09/TTLN ngày
10/10/1996; Thông tư liên tịch số 01/1998/TTLT-TANDTC- VKSNDTC-BNV
ngày 02/01/1998 của TANDTC, VKSNDTC, Bộ Nội vụ; Thông tư liên tịch số
02/1998/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA

ngày

05/8/1998

của

TANDTC,

VKSNDTC, Bộ Công an. Các văn bản này, ở những thời điểm khác nhau có những
hướng dẫn khác nhau về đường lối xử lý tội phạm tàng trữ, vận chuyển, mua bán
trái phép chất ma túy.

Tại Thông tư liên ngành số 09/TTLT ngày 10/10/1996 của TANDTC,
VKSNDTC, Bộ Nội vụ về hướng dẫn áp dụng Điều 96a và Điều 203 BLHS, tại tiểu
mục 4, mục I, phần B quy định cụ thể; “Hành vi vận chuyển trái phép chất ma túy là
hành vi chuyển dịch bất hợp pháp ma túy từ nơi này đến nơi khác được thực hiện
dưới bất kỳ hình thức nào mà khơng nhằm mục đích mua bán và người có hành vi
phạm tội này bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “vận chuyển trái phép chất ma
túy”. Nếu người vận chuyển chất ma túy hộ cho người khác mà biết mục đích mua
bán trái phép chất ma túy này của người đó thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về
tội “mua bán trái phép chất ma túy” với vai trị của người đơng phạm (người giúp
sức). Người nào vận chuyển trái phép chất ma túy qua biên giới thì bị truy cứu trách
nhiệm hình sự theo Điều 96a BLHS; ...”
Trong số các Thơng tư vừa nêu, thì Thơng tư liên tịch số 01/1998/TTLTTANDTC-VKSNDTC-BNV ngày 02/01/1998 và Thông tư liên tịch số
02/1998/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA

19

ngày

05/8/1998

của

TANDTC,


×