Tải bản đầy đủ (.docx) (44 trang)

LÝ LUẬN CƠ BẢN VÈ HẠCH TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH TRONG CÁC DOANH NGHIỆP VẬN TẢI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (242.91 KB, 44 trang )

LÝ LUẬN CƠ BẢN VÈ HẠCH TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ
TÍNH GIÁ THÀNH TRONG CÁC DOANH NGHIỆP VẬN TẢI
1.1. Nội dung chi phí vận tải và đối tượng tập hợp chi phí vận tải
1.1.1. Chi phí vận tải
Những năm gần đây, nền kinh tế nước ta đang chuyển sang nền
kinh tế thị trường, các doanh nghiệp vận tải tiến hành hoạt động kinh
doanh theo chế độ hạch toán kinh tế và chịu sự tác động của các quy
luật trong nền kinh tế thị trường như: quy luật cung cầu, quy luật lưu
thông tiền tệ…Các loại hình doanh nghiệp vận tải thuộc các thành phần
kinh tế ngày càng phát triển đa dạng, phong phú, tạo nên sự cạnh tranh
giữa các doanh nghiệp. Vận tải là ngành đảm bảo cho quá trình hoạt
động sản xuất kinh doanh của các ngành nghề trong nền kinh tế được
thực hiện môt cách nhịp nhàng, ăn khớp, đảm bảo cho việc giao lưu văn
hóa, kinh tế giữa các khu vực trong và ngoài nước bởi vậy nó đóng một
vai trò quan trọng.
Để tồn tại và hoạt động ngành vận tải, các doanh nghiệp vận tải nói
chung và các doanh nghiệp vận tải biển nói riêng phải bỏ ra các chi phí
cho cá hoạt động bao gồm chi phí về lao động sống và lao động vật hóa
phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp để tạo
ra sản phẩm phục vụ khách hàng với điều kiện lấy thu bù chi và có lãi.
Như vậy, việc hạch toán đầy đủ các khoản thu nhập và chi phí là hết sức
cần thiết. Để thực hiện tốt vấn đề này phải xác định được đúng đắn nội
dung và phạm vi chi phí vận tải. Điều này sẽ giúp cho việc tăng cường
công tác quản lý, giám sát hạch toán các chi phí vận tải, laoij trừ các chi
phí bất hợp lý, tạo điều kiện cho việc tiết kiệm chi phí, hạ giá thành vận
tải, trên cơ sở đảm bảo cho doanh nghiệp tự trang trải các khoản chi phí
bỏ ra và có lãi.
Chi phí vận tải
Vận tải là một ngành sản xuất vật chất đặc biệt, không sản xuất ra
những sản phẩm hữu hình, không tạo ra giá trị sử dụng mới cho xã hội,
sản phẩm của vận tải là việc vận chuyển hàng hóa và hành khách từ địa


điểm này đến địa điểm khác. Cũng như các ngành sản xuất kinh doanh
khác, ngành vận tải cũng phải có đầy đủ ba yếu tố cơ bản là sức lao
động, đối tượng lao động và tư liệu lao động. Song do tính chất đặc biệt
của ngành vận tải nên đối tượng lao động vận tải cũng có tính chất đặc
biệt, khác với các ngành sản xuất khác, đó là hành khách và hàng hóa
mà quá trình vận chuyển không làm thay đổi tính chất lý hóa của đối
tượng lao động đó. Sự tham gia của các yếu tố sản xuất vào quá trình
sản xuất kinh doanh ở các doanh nghiệp có khác nhau và hình thành
nên các yếu tố chi phí tương ứng. Để tăng cường hiệu lực của công tác
quản lý, sử dụng thông tin hạch toán chi phí vận tải vào giá thành của
sản phảm vận tải có hiệu quả phải hiểu được một cách sâu sắc, bản
chất của chi phí vận tải và giá thành sản phẩm vận tải. Thực tế hiện nay
vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau về bản chất và nội dung kinh tế của
chi phí sản xuất, kinh doanh và giá thành sản phẩm. Để đi đến sự thống
nhất về vấn đề này, trước tiên cần phải phân biệt được giữa chi phí với
chi tiêu. Chi phí vận tải là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí lao
động sống cần thiết và hao phí lao động vật hóa cho quá trình hoạt động
kinh doanh mà doanh nghiệp cần phải chi ra trong một kỳ hạch toán. Chi
phí về lao động sống như tiền lương, còn chi phí về lao động vật hóa
như nhiên liệu, vật liệu, phụ tùng thay thế, khấu hao cơ bản và các chi
phí khác. Ngoài ra, còn bao gồm một phần nhỏ thu nhập thuần túy của
xã hội như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn…phần
này nhiều hay ít tùy thuộc vào đường lối kinh tế, chính sách tài chính
của mỗi quốc gia trong từng thời kỳ. Như vậy, thuộc phạm vi chi phí, chỉ
được coi là chi phí vận tải của kỳ hạch toán những hao phí về tài sản và
lao động có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ, chứ
không phải mỗi khoản chi ra trong kỳ hạch toán.Còn chi tiêu là sự giảm
đi đơn thuần các loại vật tư, tài sản và tiền vốn của doanh nghiệp bất kể
nó được dùng vào mục đích nào. Toàn bộ chi tiêu trong kỳ của doanh
nghiệp bao gồm: chi tiêu cho quá trình cung cấp như mua nguyên vật

liệu, nhiên liệu, công cụ dụng cụ, tài sản cố định…chi tiêu cho việc sản
xuất, kinh doanh, chi tiêu cho các hoạt động khác của doanh nghiệp. Xét
về khía cạnh hạch toán thì có những khoản chi tiêu của doanh nghiệp lại
không được tính vào chi phí, bên cạnh đó có những khoản chi tính vào
chi phí sản xuất kinh doanh nhưng lại không phải là chi tiêu trong kỳ đó
như những khoản chi phí phải trả…
Giữa chi phí vận tải và chi tiêu có mối quan hệ mật thiết với nhau.
Biểu hiện của mối quan hệ đó là: Chi tiêu là cơ sở phát sinh của chi phí,
không có chi tiêu thì không có phát sinh chi phí. Tổng số chi phí trong kỳ
của doanh nghiệp gồm toàn bộ giá trị tài sản hao phí hoặc tiêu dùng cho
quá trình kinh doanh tính vào kỳ hạch toán. Chi phí và chi tiêu không chỉ
khác nhau về mặt lượng mà còn khác nhau cả về điểm phát sinh, có
những khoản chi tiêu kỳ này nhưng chưa được tính vào chi phí (chi mua
nhiên liệu, nhưng chưa sử dụng trong kỳ này). Mặt khác, có những
khoản đưa vào kỳ này nhưng thực tế chưa phát sinh (chi phí trích
trước). Nguyên nhân dẫn đến sự khác biệt giữa chi phí và chi tiêu trong
doanh nghiệp là do đặc điểm, tính chất vận động và phương thức dịch
chuyển giá trị của từng loại tài sản vào quá trình sản xuất kinh doanh và
yêu cầu về kỹ thuật hạch toán chúng.
Như vậy chi phí vận tải là toàn bộ các khoản chi mà doanh nghiệp
vận tải phải tiêu dùng trong một kỳ kinh doanh tạo ra sản phẩm vận tải.
1.1.2. Phân loại chi phí vận tải
Hiện nay có nhiều tiêu thức khác nhau để phân loại chi phí vận tải.
Mỗi cách phân loại chi phí đáp ứng mục đích hạch toán, quản lý và
kiểm tra, kiểm soát chi phí phát sinh, cung cấp thông tin cho việc phân
tích giá thành ở các góc độ khác nhau. Song, việc nêu lên một cách
phân loại nào đó cần phải xuất phát từ những yêu cầu sau:
Đáp ứng được yêu cầu hạch toán kinh tế nội bộ và hạch toán kinh
tế toàn doanh nghiệp.
Đáp ứng yêu cầu quản lý chi phí một các tiết kiệm và hiệu quả.

Đảm bảo giảm tối đa hao phí trong công tác tổ chức hạch toán chi
phí và tính giá thành sản phẩm vận tải.
- Cung cấp thông tin phục vụ công tác quản trị doanh nghiệp và tính
toán hiệu quả kinh tế.
a. Phân loại chi phí vận tải theo yếu tố
Theo tiêu thức phân loại này, chi phí vận tải biển được chia thành
các chi phí khác nhau. Những chi phí có cùng tính chất kinh tế được
phân vào một yếu tố chi phí. Trong chi phí vận tải, chi phí phân loại theo
yếu tố gồm:
+ Chi phí khấu hao tài sản cố định
+ Chi phí nhiên liệu
+ Chi phí vật liệu, dụng cụ
+ Chi phí tiền lương
+ Khoản trích BHXH, BHYT, KPCĐ
+ Chi phí dịch vụ mua ngoài
+ Các chi phí khác
Phân loại chi phí vận tải biển theo yếu tố là vấn đề cần thiết và có ý
nghĩa để xác định tính chất của doanh nghiệp. Vì, khi thay đổi mối tương
quan của các yếu tố chi phí sẽ thể hiện sự thay đổi tính chất và điều
kiện hoạt động của doanh nghiệp. Phân loại chi phí theo yếu tố còn làm
căn cứ để lập kế hoạch chi phí.
b. Phân loại chi phí vận tải theo công dụng kinh tế của chi phí
Mỗi yếu tố chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ đều có những công
dụng nhất định.Theo tiêu thức phân loại này, người ta căn cứ vào công
dụng kinh tế của cá khoản chi phí mà sắp xếp chi phí vận tải thành các
khoản mục chi phí, bao gồm các mục dưới đây:
+ Lương lái tàu, phụ tàu và nhân viên tổ máy
+ Khoản trích BHXH, BHYT, KPCĐ của công nhân lái tàu
+ Nhiên liệu, động lực. Tính vào yếu tố này còn bao gồm cả chi phí
chuyên chở về kho và hao hụt trong định mức.

+ Vật liệu
+ Khấu hao phương tiện vận tải: các tàu
+ Sửa chữa thường xuyên phương tiện vận tải
+ Chi phí dịch vụ mua ngoài
+ Chi phí thuê tàu
+ Chi phí công cụ, dụng cụ
+ Chi phí khác
Phân loại chi phí theo công dụng, trước hết nhằm mục đích quản lý
chi phí theo từng khoản mục của sản phẩm, xác định rõ nguyên nhân
tăng giảm của từng khoản mục chi phí, phát hiện khả năng tiềm tàng để
hạ giá thành sẩn phẩm, giúp cho việc phân tích hoạt động kinh doanh
trong doanh nghiệp. Phân loại trong doanh nghiệp còn xuất phát từ thực
tế khách quan là chi phí phát sinh cho vận tải và quản lý không bao giờ
có thể hạch toán trực tiếp theo từng đối tượng chịu chi phí mà có thể
phải phân bổ gián tiếp. Thực tế đã chỉ ra rằng: Trình độ quản lý nói
chung và trình độ tổ chức hạch toán chi phí, giá thành cao, tổ chức hạch
toán kinh tế nội bộ càng chặt chẽ thì số lượng khoản mục chi phí có thể
càng cần phải tinh giản.
c. Phân loại chi phí theo quá trình tập hợp chi phí
Theo tiêu thức phân loại này, chi phí vận tải được chia thành chi phí
trực tiếp và chi phí chung.
- Chi phí trực tiếp: Là những chi phí trực tiếp liên quan đến đối
tượng tập hợp chi phí như một loại sản phẩm, lao vụ hay một địa điểm
kinh doanh nhất định. Các chi phí này được tập hợp trực tiếp cho từng
đối tượng chịu chi phí. Trong doanh nghiệp vận tải biển, đó là các khoản
chi phí nhiên liệu, chi phí tiền lương trả cho lái tàu, chi phí khấu hao
phương tiện.
- Chi phí chung: Là những chi phí liên quan đến nhiều đối
tượng tập hợp chi phí như nhiều lại sản phẩm, lao vụ hoặc
nhiều địa điểm kinh doanh khác nhau. Các chi phí này không

tập hợp trực tiếp được cho các đối tượng chịu chi phí mà phải
tập hợp chung để cuối kỳ phân bổ cho từng đối tượng chịu chi
phí theo tiêu thức hợp lý. Trong doanh nghiệp vận tải biển đó
là các khoản chi phí quản lý đội tàu, chi phí vật liệu, chi phí
dịch vụ mua ngoài và các chi phí khác bằng tiền.
d. Phân loại theo nội dung của chi phí
Theo tiêu thức phân loại này, chi phí vận tải biển được chia thành 3
khoản:
Chi phí nhiên liệu, vật liệu trực tiếp: là toàn bộ chi phí nhiên liệu, vật
liệu được sử dụng trực tiếp để thực hiện hoạt động vận chuyển hành
khách, hàng hóa.
Chi phí nhân công trực tiếp: là các chi phí trả cho lái tàu, phụ tàu
trực tiếp hoạt động vận tải như tiền lương, tiền công, tiền ăn ca, các
khoản phụ cấp, các khoản trích theo lương của lái tàu, phụ tàu như kinh
phí công đoàn, bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội.
Chi phí sản xuất chung là những chi phí trực tiếp khác sử dụng cho
hoạt động vận tải ngoài chi phí nhiên liệu trực tiếp, và chi phí nhân công
trực tiếp như chi phí quản lý tổ, đội tàu, khấu hao tài sản cố định, phí
bảo hiểm tàu, các chi phí khác bằng tiền.
Tiêu thức này đảm bảo xác định đúng đắn nội dung các khoản chi
phí phát sinh, liên quan trực tiếp đến sản phẩm hoàn thành, làm cơ sở
xác định giá thành sản phẩm dịch vụ vận tải. Nó còn có ý nghĩa và tác
dụng quan trọng trong kế toán tài chính về chi phí và giá thành dịch vụ
vận tải, phù hợp với việc phân loại chi phí trong kế toán tài chính để sử
dụng các tài khoản kế toán hợp lý theo chế dộ kế toán chung.
e. Phân loại theo mối quan hệ với doanh thu vận tải
Chi phí biến đổi
Chi phí cố định
Chi phí biến đổi: là những khoản chi phí khi doanh thu vận tải tăng
hay giảm thì số tiền chi phí cũng tăng hay giảm theo nhưng chi phí cho

1đ hoặc 1000đ doanh thu ( tỷ suất chi phí ) thì hầu như không đổi ( hoặc
thay đổi không đáng kể ). Việc tỷ suất chi phí thay đổi nhiều hay ít phụ
thuộc vào mối quan hệ giữa tốc độ tăng doanh thu vận tải và tốc độ tăng
chi phí biến đổi. Nếu tốc độ tăng chi phí biến đổi và tốc độ tăng doanh
thu vận tải tương đương nhau thì tỷ suất chi phí không đổi, nếu tốc độ
tăng chi phí biến đổi lớn hơn tốc độ tăng doanh thu vận tải thì tỷ suất chi
phí tăng và ngược lại. Tuy nhiên, về mặt lý thuyết cũng như trên thực tế,
tốc độ tăng doanh thu và tốc độ tăng chi phí biến đổi là xấp xỉ như nhau,
nên tỷ suất chi phí biến đổi là không tăng, không giảm. Thuộc loại chi
phí biến đổi bao gồm cá khoản chi phí như chi phí tiền lương, bảo hiểm
xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn của lái tàu, phụ tàu ( trong
trường hợp doanh nghiệp áp dụng lương khoán theo sản phảm hoặc
theo doanh thu vận tải ), chi phí nhiên liệu, động lực…
Chi phí cố định: là những khoản chi phí khi doanh thu vận tải tăng
hay giảm thì số tiền chi phí không thay đổi hoặc giảm không đáng kể,
nhưng số tiền chi phí tính cho 1đ ( hoặc 1000đ ) doanh thu ( tỷ suất chi
phí ) thì thay đổi theo chiều ngược lại (hoặc giảm hoặc tăng ). Lẽ đương
nhiên, việc tăng hoặc giảm của tỷ suất chi phí cố định cũng phụ thuộc
vào tốc độ tăng của chi phí cố định và tốc độ tăng của doanh thu vận tải.
Song trong những trường hợp đầu tư trang bị mới thì chi phí cố định sẽ
tăng lên đột ngột, nếu nhìn trên đồ thị thì đường chi phí này có dạnh bậc
thang. Vì lẽ đó, khi nghiên cứu khái niệm cố định và biến đổi cũng chỉ
mang tính tương đối.
Có thể tóm tắt mối tương quan của doanh thu vận tải với chi phí vận
tải như sau:
Loại chi phí Doanh thu vận tải Số tiền chi phí Tỷ suất chi phí
Chi phí biến đổi
Chi phí cố định
Tăng ( giảm )
Tăng ( giảm )

Tăng ( giảm )
Không đổi
Không đổi
Giảm ( tăng )
Nếu biểu diễn chúng trên đồ thị, ta có dạng như sau:
Chi phí

y = ax + b
y = n+ b
y = b


Doanh thu
Phương trình y = ax + b biểu thị mối quan hệ giữa số tiền chi phí
khả biến và doanh thu vận tải
Phương trình y = b hoặc y = n + b thể hiện số tiền chi phí cố định

Chi phí
y = a + b/x
Doanh thu
Phương trình y = a + b/x biểu thị tỷ suất chi phí cố định
Cách phân loại này giúp ta có thể nghiên cứu giai đoạn biến động
của các loại chi phí khác nhau làm cơ sở cho công tác kế hoạch hóa và
khảo sát sự ảnh hưởng của khối lượng sản phẩm tới giá thành dịch vụ.
Phân loại chi phí theo tiêu chuẩn này có ý nghĩa và tác dụng lớn trong
việc xác đinh điểm hòa vốn, dự đoán chi phí và phục vụ cho công tác kế
toán quản trị doanh nghiệp.
1.1.3. Đối tượng tập hợp chi phí vận tải
Việc xác định đối tượng tập hợp chi phí vận tải là khâu cần thiết đầu
tiên của công tác chi phí vận tải, có xác định đúng đối tượng tập hợp chi

phí phù hợp với đặc điểm tổ chức kinh doanh và yêu cầu quản lý mới tổ
chức tốt công tác kế toán chi phí vận tải từ khâu đầu tiên là hạch toán
ban đầu đến khâu tổng hợp, tổ chức vận dụng tài khoản kế toán, sổ
sách kế toán phù hợp và đúng đối tượng tập hợp chi phí vận tải.
Đối tượng tập hợp chi phí vận tải là phạm vi giới hạn mà các loại
chi phí vân tải cần được tập hợp nhằm phục vụ cho việc kiểm tra, phân
tích chi phí và giá thành sản phẩm. Tùy theo tính chất, công dụng của
từng loại chi phí mà kế toán có phương pháp tập hợp và phân bổ chi phí
thích hợp. Mỗi loại vận tải có những nét đặc thù riêng nên đối tượng tập
hợp chi phí cũng khác nhau. Việc nghiên cứu, xác định đối tượng tập
hợp chi phí có ý nghĩa thiết thực cả về lý luận và thực tiễn, giúp cho đảm
bảo việc tập hợp chi phí được đúng theo đối tượng tập hợp chi phí, và
nó là tiền đề cho việc tính giá thành chính xác.
Việc xác định đối tượng tập hợp chi phí vận tải ở công ty vận tải
biển phải căn cứ vào các vấn đề sau:
+ Căn cứ vào đặc điểm tổ chức kinh doanh, trình độ nghiệp vụ
chuyên môn, trình độ quản lý của công ty
+ Căn cứ vào yêu cầu quản lý giá thành và đối tượng tính giá thành
Tùy theo đặc điểm của từng doanh nghiệp mà thông thường đối
tượng hạch toán chi phí có thể là:
+ Loại sản phẩm
+ Đơn đặt hàng
+ Chi tiết sản phẩm
+ Phân xưởng sản xuất, địa điểm sản xuất
+ Giai đoạn sản xuất
+ ….
Vậy đối tượng tập hợp chi phí vận tải là phạm vi, giới hạn mà các
loại chi phí vận tải cần được tập hợp. Như vậy, việc xác định đối tượng
tập hợp chi phí vận tải chính là xác định phạm vi và giới hạn tập hợp đối
với cá khoản chi phí vận tải tương ứng của từng loại hình vận tải, từng

doanh nghiệp vận tải.
Trong công ty vận tải biển, có thể tập hợp chi phí vận tải theo từng
đoàn tàu hay con tàu cụ thể.
1.2. Nội dung giá thành vận tải và đối tượng tính giá thành vận tải
1.2.1. Nội dung giá thành vận tải
1.2.1.1. Khái niệm về nội dung kinh tế của giá thành vận tải.
Giá thành sản phảm vận tải là một phạm trù kinh tế của sản xuất
hàng hóa. Trong giá thành sản phẩm chỉ bao gồm những chi phí tham
gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất phải được bồi hoàn
để tái tạo sản xuất kinh doanh ở doanh nghiệp, giá thành sản phẩm
không bao gồm toàn bộ chi phí phát sinh trong kỳ của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp vận tải là đơn vị sản xuất vật chất đặc biệt, sản phẩm
sản xuất ra không mang tính vật chất, vì vậy đơn vị đo lường của sản
phẩm vận tải khác với đơn vị đo lường của sản phẩm khác. Công ty vận
tải biển vận chuyển hàng hóa thì đơn vị đo lường là tấn.km hàng hóa
vận chuyển, còn vận tải hành khách thì sản phẩm vận tải được đo bằng
chỉ tiêu số lượng hành khách, hành khách.km vận chuyển. Chỉ tiêu
chung của ngành vận tải là tấn.km tính đổi.
Do đặc điểm kinh doanh của các công ty vận tải biển là không có
sản phảm dở dang, nên giá thành sản phẩm vận tải thể hiện bằng toàn
bộ hao phí về lao động sống cần thiết và lao động vật hóa thực tế phát
sinh tính cho toàn bộ số lượng sản phẩm hoàn thành trong kỳ. Còn giá
thành đơn vị sản phẩm vận tải là chi phí vận tải tính cho một đơn vị sản
phẩm vận tải hoàn thành.
Trên góc độ kinh tế, giá thành sản phẩm là thước đo chi phí và khả
năng sinh lời trong điều kiện giá bán không đổi thì giá thành và lợi
nhuận là hai đại lượng chi phối lẫn nhau. Trong phạm vi doanh nghiệp,
nếu giá thành sản phẩm càng thấp thì hiệu quả của hoạt động sản xuất
kinh doanh càng cao. Như vậy, phấn đấu hạ giá thành sản phẩm là mục
tiêu quan trọng của tất cả các doanh nghiệp vận tải. Để có những biện

pháp hữu hiệu nhằm hạ giá thành sản phẩm vận tải thì trước hết phải
xác định được nội dung kinh tế chi phí trong giá thành sản phẩm.
Giá thành là giới hạn bù đắp chi phí vận tải, là căn cứ để xác định
khả năng bù đắp chi phí trong quá trình thực hiện dịch vụ vận tải. Giá
thành vận tải còn là căn cứ để lập giá kinh doanh vận tải, là xuất phát
điểm để xác định giá cước phí dịch vụ.
Như vậy, giá thành vạn tải là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh
chất lượng công tác quản lý của doanh nghiệp vận tải. Thông qua chỉ
tiêu giá thành có thể xác định hiệu quả của việc sử dụng nhân, tài, vật
lực trong doanh nghiệp, cũng như đánh giá một cách có cơ sở các biện
pháp tổ chức quản lý, kỹ thuật mà doanh nghiệp đã thực hiện trong quá
trình hoàn thành các dịch vụ.
Nội dung kinh tế của giá thành sản phẩm vận tải bao gồm các yếu
tố sau đây:
- Yếu tố chi phí liên quan đến hao phí lao động vật hóa
Đây là các khoản chi phí liên quan tới đối tượng lao động và tư liệu
lao động mà doanh nghiệp thực sự bỏ ra trong quá trình sản xuất sản
phẩm hay thực hiện dịch vụ vận tải. Do đặc điểm kinh tế , kỹ thuật của
vận tải là không sản xuất ra những sản phẩm có hình thái vật chất,
không sáng tạo ra giá trị sử dụng mới nên trong doanh nghiệp vận tải,
yếu tố chi phí này bao gồm: chi phí khấu hao phương tiện vận tải, chi
phí nhiên liệu, vật liệu, chi phí khác
- Yếu tố chi phí liên quan đến hao phí lao động sống
Yếu tố chi phí này bao gồm tiền lương của thuyền trưởng, phụ lái,
bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và kinh phí công đoàn tính trên lương
của thuyền trưởng, thuyền viên
- Chi phí chung khác: Đây là những khoản chi phí như chi phí dịch
vụ mua ngoài, các chi phí khác
Các doanh nghiệp cần tính đúng, tính đủ các khoản chi phí trên vào
giá thành, tránh tình trạng hạch toán các khoản chi phí không thuộc nôi

dung giá thành vào giá thành, phấn đấu hạ giá thành, tăng chất lượng
phục vụ, đảm bảo cạnh tranh chiếm ưu thế trên thị trường. Tóm lại, giá
thành vận tải là toàn bộ chi phí vận tải mà doanh nghiệp chi ra đẻ hoàn
thành khối lượng dịch vụ hoặc công việc vận tải trong kỳ. Tuy nhiên có
những chi phí thực tế phát sinh kỳ này nhưng tính vào giá thành dịch vụ
vận tải kỳ sau và có những chi phí chưa phát sinh kỳ này nhưng phải
tính trước vào giá thành vận tải kỳ này.
Do đó giá thành vận tải được thể hiện theo sơ đồ sau:
Chi phí kỳ trước chuyển sang Chi phí kỳ này
Giá thành dịch vụ vận tải kỳ này Chi phí chuyển sang kỳ sau
Nhân viên kế toán và nhà quản lý phải phân biệt các loại giá thành dịch vụ nhằm quản lý tốt quá trình
tính giá thành
1.2.1.2. Các loại giá thành
Để đáp ứng được các yêu cầu của công tác quản lý, kế hoạch hóa
và hạch toán giá thành, người ta cần xem xét nó dưới nhiều góc đọ,
nhiều phạm vi tính toán khác nhau. Về lý luận cũng như thực tiễn ở các
doanh nghiệp vận tải theo yêu cầu quản lý giá thành, giá thành được
chia thành 3 loại, đó là: Giá thành kế hoạch, giá thành định mức và giá
thành thực tế
+ Giá thành kế hoạch..
Trước khi thực hiện một hoạt đọng sản xuất kinh doanh nào đó, nhà
quản lý phải dự tính xem họ được hưởng bao nhiêu lợi nhuận bằng
cách dự tính các khoản thu nhập và các khoản chi phí, so sánh giữa thu
nhập với chi phí để biết kết quả. Vì vậy, họ phải xác định giá thành kế
hoạch của hoạt động mà họ sẽ bắt tay vào kinh doanh. Do đó , giá
thành kế hoạch là một chỉ tiêu kinh tế quan trọng trong hệ thống các chỉ
tiêu kế hoạch của hoạt động sản xuất kinh doanh vận tải. Nó được tính
toán trước khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh trên cơ sỏ các
chỉ tiêu kế hoạch hay dự toán chi phí và sản lượng công việc dịch vụ.
Trong điều kiện kinh doanh theo cơ chế thị trường hiện nay, vấn đề kế

hoạch giá thành là một trong những mục tiêu quan trọng của hệ thống
kế hoạch tác nghiệp, giúp cho doanh nghiệp có biện pháp cụ thể để
phấn đấu hạ giá thành sản phẩm.
Giá thành định mức

×