Tải bản đầy đủ (.pdf) (70 trang)

Luận Văn SỰ DUNG HỢP PHẬT GIÁO VÀ TÍN NGƢỠNG DÂN GIAN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.35 MB, 70 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN
KHOA TRIẾT HỌC
-----------------------

KIỀU THỊ YẾN

SỰ DUNG HỢP PHẬT GIÁO VÀ TÍN NGƢỠNG DÂN GIAN
TẠI HAI HUYỆN THẠCH THẤT – QUỐC OAI
(Qua khảo sát chùa Thầy và chùa Tây Phƣơng)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH TRIẾT HỌC

Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2016-X
NGƢỜI HƢỚNG DẪN: PGS. TS TRẦN THỊ HẠNH

HÀ NỘI, 2020


LỜI CẢM ƠN
Trong suốt q trình học tập và hồn thành khóa luận này, tơi xin chân
thành cảm ơn sự quan tâm, giúp đỡ của lãnh đạo và Quý thầy cô khoa Triết
học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG Hà Nội.
Đặc biệt, tôi xin được bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc đến PGS.TS Trần Thị
Hạnh đã tận tình chỉ bảo, giúp tơi hồn thành khóa luận tốt nghiệp này một
cách tốt nhất theo khả năng của tơi.
Mặc dù có nhiều cố gắng trong q trình thực hiện, song do nhận thức
cịn hạn chế nên khóa luận cịn nhiều sai sót là điều khơng thể tránh khỏi. Tơi
rất mong nhận được những đóng góp q báu từ Quý thầy cô để rút ra bài học
cho những lần nghiên cứu sau này được hồn thiện hơn.


Tơi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 24 tháng 05 năm 2020
Người thực hiện
Kiều Thị Yến

1


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi. Các kết
quả nêu trong khóa luận là trung thực, có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng. Các
kết luận chưa được công bố ở bất cứ một cơng trình nào.
Tác giả khóa luận

Kiều Thị Yến

2


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 5
1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................. 5
2. Tình hình nghiên cứu .................................................................................. 7
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu............................................................. 8
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.............................................................. 8
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu ............................................... 9
6. Đóng góp của khóa luận ............................................................................. 9
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của khóa luận .............................................. 9
8. Bố cục của khóa luận ................................................................................ 10
CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ SỰ DUNG HỢP GIỮA PHẬT

GIÁO VÀ TÍN NGƢỠNG DÂN GIAN TẠI ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ ...... 11
1.1.Sự dung hợp Phật giáo và tín ngƣỡng dân gian tại Đông bằng Bắc Bộ
qua các giai đoạn lịch sử ................................................................................. 11
1.2.Tình hình Phật giáo và tín ngƣỡng dân gian tại hai huyện Thạch Thất
– Quốc Oai........................................................................................................ 17
1.2.1. Phật Giáo tại hai huyện Thạch Thất – Quốc Oai ............................... 17
1.2.2. Tín ngƣỡng dân gian tại hai huyện Thạch Thất – Quốc Oai ............ 26
1.3.Sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngƣỡng dân gian tại Thạch Thất –
Quốc Oai........................................................................................................... 37
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 ................................................................................. 42
CHƢƠNG 2: BIỂU HIỆN CỦA SỰ DUNG HỢP GIỮA PHẬT GIÁO VÀ
TÍN NGƢỠNG DÂN GIAN QUA KHẢO SÁT HAI NGỒI CHÙA:
CHÙA THẦY VÀ CHÙA TÂY PHƢƠNG. ................................................. 44
2.1.

Biểu hiện qua nghi lễ của Phật giáo tại hai ngôi chùa ...................... 44

2.2.

Biểu hiện qua kiến trúc của hai ngôi chùa ......................................... 50

2.3.

Biểu hiện qua nghệ thuật bài trí tƣợng thờ trong hai ngơi chùa ..... 53

3


2.4. Một số vai trò xu hƣớng phát triển chủ yếu của sự dung hợp giữa
Phật giáo và tín ngƣỡng dân gian tại hai huyện Thạch Thất – Quốc Oai . 58

KẾT LUẬN ...................................................................................................... 63
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................... 65
PHỤ LỤC ......................................................................................................... 67

4


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phật giáo đã du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, khoảng thế kỷ thứ I
TCN, từ đó đến nay, đã phát triển và nhanh chóng hịa nhập, trở thành tơn
giáo mang đậm sắc thái văn hóa Việt. Phật giáo với vai trị là một tơn giáo
lớn ở Việt Nam, có đóng góp đối với lịch sự dân tộc, đời sống văn hóa, xã
hội của người dân Việt, cùng với đó nó cịn góp phần tạo nên những cơng
trình kiến trúc mang đậm tính nghệ thuật.
Trước khi Phật giáo du nhập vào, nước ta đã có những tín ngưỡng
dân gian mang đặc tính bản địa. Mỗi cộng đồng dân cư, mỗi khu vực riêng
lại có những loại hình tín ngưỡng riêng, mang bản sắc riêng của mình.
Nhưng khi Phật giáo tràn vào, với các giáo lý giải thoát, tinh thần từ bi, hỷ
xả thì nó đã nhanh chóng được quần chúng người Việt tiếp nhận trong sự
hịa quyện cùng với tín ngưỡng dân gian. Biểu hiện rõ nhất là các ngôi
chùa ở những làng quê ngày càng mọc lên nhiều, cho đến ngày nay, hầu
như mỗi thơn, mỗi làng nào cũng đều có một ngơi chùa của riêng mình.
Do tính chất hỗn dung giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian, nên các ngơi
chùa hầu hết đều bị bản địa hóa, trong chùa khơng chỉ thờ Phật, mà cịn
thờ cả Thần, Thánh, Mẫu, tổ tiên,…
Đồng bằng Bắc Bộ là cái nôi của nền văn minh lúa nước, nên việc thờ
các vị thần tự nhiên như một lẽ tất yếu của cuộc sống người dân, chính vì
vậy, khi Phật giáo du nhập vào, hịa quyện, hỗn dung cùng với tín ngưỡng
dân gian, thì các vị thần tự nhiên này cũng được Phật hóa và được thờ tụng

trong chùa. Ngoài ra, sự dung hợp này còn dẫn đến việc trong chùa thờ cả
vong linh người đã khuất, người có cơng với đất nước được người dân tôn
lên làm Thánh (Đức Thánh Trần), thờ Sơn Thần,… Các ngôi chùa mang
sắc thái hỗn dung này đã đánh dấu bước chuyển biến về đời sống văn hóa,

5


tinh thần và tôn giáo của người dân Việt, đi kèm với đó là sự phát triển của
nghệ thuật kiến trúc dân gian của người Việt.
Tại những ngôi chùa này, người dân vừa đi lễ Phật, lại lễ cả Mẫu và
Thánh, đó là sự kết hợp để hình thành nên Phật giáo dân gian, khơng cịn
các triết lý xa vời khó hiểu, mà nó được dân gian hóa, ngày càng gần gũi
với quần chúng, mang nặng tư tưởng nhập thế.
Thạch Thất – Quốc Oai là hai huyện giáp với trung tâm kinh tế, chính
trị, văn hóa Thăng Long xưa, lại nằm trên nền văn hóa xứ Đồi, chính vì
vậy khu vực này cũng được tiếp nhận Phật giáo từ rất sớm. Phật giáo khu
vực này cũng từng ngày hòa nhập với các tín ngưỡng bản địa và phát triển
theo xu hướng chung của Phật giáo Việt Nam hiện nay, đó là xu hướng
dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian. Việc phát triển theo xu
hướng này giúp Phật giáo ngày càng gắn bó với người dân trong khu vực,
đồng thời ảnh hưởng tích cực lên đời sống nhân dân, giúp nâng cao tinh
thần đoàn kết, tạo tiềm lực cho sự phát triển về mọi mặt kinh tế, văn hóa,
chính trị, xã hội của khu vực này nói riêng và cả đất nước nói chung.
Vì vậy, việc nghiên cứu sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng
dân gian tại khu vực Thạch Thất – Quốc Oai, biểu hiện qua hai ngôi chùa:
Chùa Thầy và Chùa Tây Phương sẽ giúp chúng ta hiểu rõ các nét văn hóa
được biểu hiện qua các nghi lễ, lễ hội hay các thần tích liên quan đến các
nhân vật được thờ cùng với Phật trong chùa. Đây cũng là nét độc đáo đặc
sắc riêng biệt của Phật giáo Việt Nam nói chung và khu vực Thạch Thất –

Quốc Oai nói riêng.
Chính vì lý do như vậy, tôi chọn đề tài: “Dung hợp giữa Phật giáo và
tín ngưỡng dân gian tại khu vực Thạch Thất – Quốc Oai, biểu hiện qua hai
ngôi chùa: Chùa Thầy và Chùa Tây Phương” làm cơng trình nghiên cứu
của mình.
6


2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề dung hợp, hỗn dung giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian
cũng đã được nhắc tới khơng ít ở một số bài viết, vì từ lâu, do đặc điểm
tâm thức của người nông dân Đồng bằng Bắc Bộ, hầu như ít tơn giáo, tín
ngưỡng nào có thể tồn tại độc lập, mà thường có sự hỗn dung với nhau. Sự
dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian được đa số các nhà
nghiên cứu đồng thuận và nó cũng được nhắc nhiều trong các bài viết của
họ, tuy nhiên để đặt thành một vấn đề được nghiên cứu độc lập và cụ thể
thì lại không nhiều.
Theo như những tài liệu được biết, tôi mới chỉ thấy được cơng trình
nghiên cứu của Tiến sĩ tơn giáo học Thích Đồng Bổn nghiên cứu về
“Những tập tục dân gian chịu ảnh hưởng Phật giáo Đại Thừa” là nghiên
cứu tập chung đối tượng là mối quan hệ giữa Phật giáo Đại thừa và những
tập tục (tuy nhiên chủ yếu là ở các vùng Nam Bộ). Trong một số bài viết
của Trần Lâm Biền, Chu Quang Trứ, Hà Văn Tấn, Nguyễn Quốc Tuấn…
đều có nhắc đến sự dung hợp này, như: “Qua bước đi của di tích Hà Nam
Ninh”; “Về một vài yếu tố mang tính triết học của kiến trúc cổ truyền
Việt”, hay “Phật giáo với văn hóa Việt Nam và Nhật Bản qua một cách
tham chiếu” của Nguyễn Thanh Tuấn cũng đã bước đầu phân tích sự kết
hợp này, nhưng chỉ dừng lại ở những phân tích sơ lược, rời rạc.
Một số tạp chí cũng có những bài viết về mối quan hệ này như: Báo
Phật Giáo online, Đạo Phật ngày nay, Tạp chí Triết học, Tạp chí Nghiên

cứu Phật học,… Có thể kể đến những bài viết như: “Tìm hiểu về Phật giáo
và tín ngưỡng dân gian”; “Đạo Phật Và Tín Ngưỡng Nhân Gian!”; “Tín
ngưỡng thờ Mẫu trong mối quan hệ với tín ngưỡng, tơn giáo khác”,…
Nhìn một cách tổng thể, nhiều cơng trình nghiên cứu, bài viết đã chạm
đến các khía cạnh khác nhau của đề tài, song nghiên cứu về sự kết hợp
giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian biểu hiện qua những ngơi chùa cịn
7


khá ít và thiếu tính hệ thống. Chưa có một cơng trình nghiên cứu nào
nghiên cứu một cách hệ thống mối quan hệ hỗn dung giữa Phật giáo và tín
ngưỡng dân gian thể hiện qua các ngôi chùa ở khu vực Thạch Thất – Quốc
Oai, để từ đó có được những đánh giá khách quan và khoa học về vai trị,
vị trí của Phật giáo và tín ngưỡng dân gian trong đời sống văn hóa – xã hội
của người dân nơi đây. Đây cũng là mục đích chính mà khóa luận hướng
tới trong q trình nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
 Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở trình bày một số nội dung lý luận về mối quan hệ giữa Phật
giáo và tín ngưỡng dân gian tại Đồng bằng Bắc Bộ, khóa luận tập trung
khảo sát và phân tích những biểu hiện của sự dung hợp giữa Phật giáo và
tín ngưỡng dân gian tại khu vực Thạch Thất – Quốc Oai, biểu hiện qua hai
ngôi chùa: Chùa Thầy và Chùa Tây Phương. Từ đó chỉ ra vai trò và xu
hướng phát triển của mối quan hệ này.
 Nhiệm vụ nghiên cứu
- Trình bày hệ thống lý luận về sự dung hợp giữa Phật giáo và tín
ngưỡng dân gian tại Đồng bằng Bắc Bộ
- Phân tích và chỉ ra những biểu hiện của sự dung hợp giữa Phật giáo và
tín ngưỡng dân gian tại hai ngơi chùa: Chùa Thầy và chùa Tây Phương.
- Đưa ra vai trò và xu hướng phát triển của sự dung hợp giữa Phật giáo

và tín ngưỡng dân gian.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
 Đối tƣợng nghiên cứu
Sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian tại khu vực Thạch
Thất – Quốc Oai, biểu hiện qua hai ngôi chùa: Chùa Thầy và Chùa Tây
Phương.

8


 Phạm vi nghiên cứu
Khóa luận nghiên cứu sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân
gian tại khu vực Thạch Thất – Quốc Oai, biểu hiện qua hai ngôi chùa:
Chùa Thầy và Chùa Tây Phương trên các lĩnh vực như: nghi lễ, kiến trúc
nghệ thuật,…
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
 Cơ sở lý luận:
Khóa luận dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử về tơn giáo và tín ngưỡng.
 Phương pháp nghiên cứu:
Khóa luận sử dụng một số phương pháp cơ bản của phép biện chứng
duy vật như: phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, so sánh; và một số
phương pháp của các khoa học khác như: điều tra, điền dã, khảo sát,…
6. Đóng góp của khóa luận
- Trình bày rõ một số nội dung lý luận của mối quan hệ giữa Phật giáo và
tín ngưỡng dân gian tại Đồng bằng Bắc Bộ.
- Chỉ ra sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian tại khu vực
Thạch Thất – Quốc Oai, biểu hiện trong hai ngôi chùa: Chùa Thầy và
Chùa Tây Phương. Đưa ra một số vai trò chủ yếu và xu hướng phát
triển của mối quan hệ này đối với xã hội.

7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của khóa luận
 Ý nghĩa lý luận
Khóa luận góp phần làm rõ hơn giá trị văn hóa và bản sắc riêng của
những ngơi chùa thơng qua việc tìm hiểu sự dung hợp giữa Phật giáo và
tín ngưỡng dân gian, biểu hiện qua các lĩnh vực: nghi lễ, kiến trúc nghệ
thuật,… Kết quả của khóa luận đặt ra vấn đề mà các nhà quản lý văn hóa,

9


tơn giáo, tín ngưỡng cần quan tâm, đó là làm thế nào để bảo tồn và phát
huy những giá trị văn hóa lành mạnh của văn hóa Việt.
 Ý nghĩa thực tiễn
Khóa luận có thể làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu và
học tập về tôn giáo và tín ngưỡng dân gian.
8. Bố cục của khóa luận
Ngồi phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, phần Nội dung
chính của khóa luận được bố cục thành 2 chương và 8 tiết.

10


CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ SỰ DUNG HỢP GIỮA PHẬT
GIÁO VÀ TÍN NGƢỠNG DÂN GIAN TẠI ĐỒNG BẰNG BẮC BỘ
1.1.

Sự dung hợp Phật giáo và tín ngƣỡng dân gian tại Đông bằng Bắc
Bộ qua các giai đoạn lịch sử
Đồng bằng Bắc bộ là cái nôi văn minh lúa nước của dân tộc Việt Nam,


vì vậy nơi đây cịn lưu giữ được tính chất thuần t của văn hố Việt Nam.
Đồng bằng Bắc bộ cũng chính là nơi Phật giáo lần đầu tiên du nhập vào Việt
Nam. Người dân nơi đây xem Phật giáo vừa thiêng liêng vừa gần gũi với họ,
nên trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc, chùa chiền được xây dựng khắp
mọi nơi, hầu như khơng một làng q nào lại khơng có chùa thờ Phật. Chính
vì vậy, Phật giáo ở Đồng bằng Bắc Bộ cũng có những nét riêng của mình, và
một trong số đó là sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian nơi
đây.
Phật giáo truyền vào nước ta rất sớm, từ những năm đầu Công nguyên.
Tại Luy Lâu (Thuận Thành, Bắc Ninh ngày nay) đã có một trung tâm Phật
giáo và Phật học khá phồn thịnh. Từ đó đến thế kỷ 10 chính là giai đoạn
truyền đạo của Phật giáo. Ban đầu là sự ảnh hưởng của các nhà sư Ấn Độ,
nhưng sau đó, sự ảnh hưởng của các nhà truyền giáo Trung Quốc lại tăng lên,
các phái Thiền Trung Quốc dần du nhập vào Việt Nam.
Bắt đầu từ thế kỷ 10, Việt Nam bước vào kỷ nguyên độc lập tự chủ sau
1000 năm Bắc thuộc đã tạo điều kiện cho Phật giáo phát triển. Trong thời kỳ
này, các vị vua nhà Đinh, Tiền Lê đã có chính sách nâng đỡ Phật giáo. Những
bước đệm này đã giúp cho Phật giáo phát triển đỉnh cao ở thời Lý và thời
Trần với tinh thần tùy tục, tùy duyên, hòa quang đồng trần, cư trần lạc đạo,
nhập thế hành đạo nên đã sản sinh ra những thiền sư luôn luôn hướng về cuộc
sống, hoà nhập với cuộc đời. Lúc này từ vua tôi đến quần chúng nhân dân đều
tôn sùng đạo Phật, tư tưởng Phật giáo được lấy làm hệ tư tưởng xã hội. Phật
giáo đã kết hợp với tín ngưỡng dân gian, với yếu tố thần thuật của Đạo giáo
11


pháp thuật nên mới có câu chuyện những thiền sư tiên đoán việc xã tắc như
Vạn Hạnh, dùng pháp thuật để chữa bệnh trừ tà, để giáng long phục hổ, hay
bay trên không, đi dưới nước như Nguyễn Minh Không; để trả thù cho cha,
hay để đầu thai như Từ Đạo Hạnh v.v…

Tại Đồng bằng Bắc Bộ, nhiều chùa tháp được xây dựng trong thời kỳ
này, tiêu biểu như: Chùa Một Cột, Chùa Thầy, Chùa Dạm, Chùa Lý Triều
Quốc Sư,… Sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian trong thời kỳ
này cũng được biểu hiện rất rõ qua những ngôi chùa này.
Chùa Một Cột: tọa lạc tại số 1 phố chùa Một Cột, phường Đội Cấn,
Quận Ba Đình, Hà Nội. Trước kia đây là thơn Phụ Bảo, tổng Yên Thành,
huyện Vĩnh Thuận, đến giữa thế kỷ 19, thôn Phụ Bảo đổi tên là Thanh Bảo.
Chùa được xây dựng năm 1049 sau giấc mơ của Lý Thái Tông thấy Quan Thế
Âm Bồ Tát ngồi trên tòa sen, sau đó dắt vua lên tịa. Nhưng theo tấm bia dựng
năm Cảnh trị đời thứ 3 (1665), đời vua Lê Huyền Tơng do Lê Tấn Đạt ghi thì:
“năm đầu niên hiệu Hàm Thông đời Đường (860) dựng một cột đá ở giữa hồ.
Trên cột xây một tịa lầu ngọc trong đó đặt tượng Phật Quan Âm để thờ
cúng… Khi triều Lý xây dựng kinh đô ở đây, do vua Lý chưa có con, đến đây
cầu nguyện thấy linh ứng, vua sửa thêm ngôi chùa Diên Hựu ở bên phải chùa
Một Cột để mở rộng việc thờ cúng làm sáng rõ sự tơn sùng…”(14, Tr.115).
Ngay trong sự tích về ngơi chùa này đã cho thấy sự ước vọng của người dân
Đông bằng Bắc Bộ luôn cầu mong một cuộc sống không ngừng sinh sôi nảy
nở, một cuộc sống được che chở bởi Phật Bà Quan Âm. Chùa Một Cột và
Phật Bà Quan Âm giống như hình ảnh biểu trưng cho nguyên lý Mẹ, cho tín
ngưỡng phồn thực, cho ước mơi sinh sơi này nở, luôn luôn no đủ, và cả cho
tinh thần cứu khổ cứu nạn của Phật giáo.
Chùa Dạm (hay còn gọi là chùa Rặn, thuộc xã Nam Sơn, huyện Quế
Võ, tỉnh Bắc Ninh) được vua Lý Nhân Tông (1072 – 1127) cho xây dựng vào
năm Quang Hựu thứ 2(1086). Đây là một ngơi chùa điển hình thể hiện sự hỗn
12


dung giữa giáo lý Phật giáo và triết lý của tín ngưỡng dân gian của người Việt
ở Đồng bằng Bắc Bộ được xây dựng trong thời kỳ này.
“Mười lăm trăng náu

Mười sáu trăng treo
Mười bẩy phẩy giường
Mười tám đóng cửa chùa Dạm.”
Những câu thơ lưu truyền kia đã nói lên sự bề thế của chùa Dạm, có
nghĩa là sau ngày Rằm người ta sẽ đóng cửa chùa, bắt đầu từ xẩm tối đến lúc
trăng lên cao mới đóng được hết tất cả các cửa chùa. Theo thuyết phong thủy,
chùa Dạm hội tụ đủ huyết mạch linh thông, chùa đặt ở sườn núi phía Nam của
dãy Lãm Sơn, chính giữa ngọn cao nhất, núi Rùa làm tiền án, ngòi Con Tên
làm minh đường, bên tả có Thanh Long, bên hữu có Bạch Hổ chầu về. Mối
quan hệ hỗn dung giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian tại chùa Dạm khơng
chỉ thể hiện qua giáo lý của Phật giáo, mà còn thể hiện ước vọng sinh sơi nay
nở, mưa thuận gió hòa của cư dân lúa nước Đồng bằng Bắc Bộ.
Sự dung hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian cũng được thể hiện
rõ ngay trong nguồn gốc ra đời và thần tích của chùa Lý Triều Quốc Sư, bộc
lộ ra truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, “tôn sư trọng đạo” của người Việt
ta. Chùa Lý Triều Quốc Sư tọa lạc tại số 50, phố Lý Triều Quốc Sư, quận
Hoàn Kiếm, Hà Nội (xưa thuộc thôn Tiên Thị, tổng Tiên Túc, huyện Thọ
Xương với tên gọi đền Lý Quốc Sư hay đền Tiên Thị). Nơi đây thờ thiền sư
Nguyễn Minh Không người đã chữa khỏi bệnh cho vua Lý Thần Tơng. Ơng
được phong làm Quốc sư và được triều đình phong ấp ở làng Tiên Thị (nay là
Điềm Xá), huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Khi ơng mất, dân làng lập đền
thờ gọi là "Lý Quốc Sư Tự". Năm 1932, thiền sư Nguyễn Văn Định trụ trì đã
bài trí thêm tượng Phật nên đền được gọi là chùa Lý Triều Quốc Sư.
13


Năm 11 tuổi, ngài xuất gia tu Phật cầu đạo với Thiền sư Từ Đạo Hạnh,
được khen tài giỏi, thông minh và được ấn chứng sau sẽ trở thành “Pháp khí”
trong Thiền mơn, ban pháp danh Minh Khơng, đời thứ 13 dòng Tỳ Ni Đa Lưu
Chi. Qua thời gian dài theo thầy học đạo, chứng ngộ chân không Bát nhã,

ngài về trụ trì chùa Giao Thủy (Nam Định). Minh Khơng là bậc đại sư thông
tuệ Phật pháp được giới tăng ni ngưỡng vọng, cũng như được Quốc vương
kính trọng. Tương truyền lúc cịn đang học đạo, Từ Đạo Hạnh hóa hổ để dọa
ngài, ngài bèn nói: “Nếu thầy muốn vậy, sau này chắc sẽ phải chịu quả báo
như thế”. Từ Đạo Hạnh hối hận: “Xưa kia Đức Thế Tôn đạo quả viên thành
còn chịu báo kim sương, mã mạch, huống chi ta sinh thời mạt pháp đâu có thể
tránh được, đời sau sẽ làm Quốc chủ và sẽ chịu báo này, ơng với ta có nhân
dun thầy trị, lúc đó sẽ cứu ta”(14, Tr.108). Sau khi Từ Đạo Hạnh hóa, đầu
thai làm vua Lý Thần Tông, lên ngôi chưa được bao lâu, tháng 3 năm 1136,
vua bị bệnh nặng, lông lá đầy mình, gầm thét như hổ suốt ngày, các danh y tài
giỏi được triệu đến đều không chữa khỏi. Chính Đại sư Minh Khơng là người
chữa khỏi được cho vua. Sau khi khỏi bệnh, cảm phục tài năng, vua Lý Thần
Tông phong ngài làm Quốc Sư. Trong Quốc sử còn chép: “Tục truyển khi sư
Từ Đạo Hạnh sắp trút xác, trong khi ốm đem thuốc niệm thần chú rồi giao lại
cho học trị là Nguyễn Chí Thành, tức Minh Không, dặn rằng 20 năm sau nếu
thấy Quốc vương bị bệnh lạ thì đến chữa ngay, có lẽ là việc này”(14, Tr.110).
Ngày 1 tháng 8, niên hiệu Đại Định thứ 2, Tân Dậu (1141), sau khi phó chúc
mơn đồ, Quốc sư an nhiên ngồi hóa tại chùa Giao Thủy, thọ 76 tuổi. Để ghi
nhớ công ơn, vua Lý Anh Tông và nhân dân đã lập đền thờ ngài tại đền Tiên
Thị (nguyên là Tịnh xá vua Lý Thần Tông ban cho ngài).
Thêm nữa, đó là hệ thống chùa thờ Tứ pháp tại vùng Dâu bao gồm:
chùa Dâu thờ Pháp Vân, chùa Đậu thờ Pháp Vũ, chùa Tướng thờ Pháp Lôi,
chùa Dàn thờ Pháp Điện và chùa Tổ thờ Man Nương – mẹ của Tứ Pháp. Với
sự tiếp nhận Phật giáo, những vị thần nông nghiệp như bà Dâu, bà Đậu, bà
14


Tướng, bà Dàn đã trở thành những vị Phật bà (Tứ pháp). Có thể thấy sự hình
thành và phát triển của hệ thống chùa Tứ pháp chính là sự dug hợp giữa Phật
giáo và tín ngưỡng dân gian khi trong chùa những vị thần có nguồn gốc tự

nhiên được đẩy lên trên hệ thống tượng Phật. Sự kết hợp này làm nên nét đặc
sắc của Phật giáo dân gian Đồng bằng Bắc Bộ.
Như vậy, qua một số chùa vừa kể trên cho thấy các ngơi chùa đều có
một đặc điểm chung là khơng chỉ thờ Phật mà cịn thờ cả Thần. Sự dung hợp
giữa giáo lý Phật giáo và triết lý của tín ngưỡng dân gian người Việt ở Đồng
bằng Bắc Bộ giống như một thể hòa quyện vào nhau, từ trong những lịch sử
hình thành, thần tích, huyền thoại của mỗi ngôi chùa, đến nề nếp lối sinh hoạt
tâm linh của người dân.
Cũng trong thời kỳ này, bản lĩnh độc lập tự cường kết hợp truyền thống
chống ngoại xâm, kể cả chống về mặt tư tưởng, cùng tính uyển chuyển, linh
hoạt của cư dân lúa nước Đồng bằng Bắc Bộ nên khi Phật giáo du nhập và
phát triển tại đây, đã phục vụ cho cái đạo yêu nước yêu dân của dân tộc, phục
vụ những yêu cầu cuộc sống của dân tộc. Với tinh thần phá chấp triệt để và
khả năng dung hợp rộng mở, với tính phóng khống và dân chủ của mình,
Phật giáo Thiền tơng đã bắt gặp tinh thần bình đ ng, dân chủ, lịng nhân ái
của người dân ở đây nên nó đã dễ dàng hịa hợp và bắt rễ nhanh chóng, đã ảnh
hưởng sâu rộng trong đời sống con người.
Khoảng từ thế kỷ 14, Phật giáo bắt đầu bước vào giai đoạn suy thoái do
nhiều nguyên nhân khác nhau: tầng lớp quý tộc nhà Trần ủng hộ Phật giáo
mạnh mẽ đang dần mất đi uy lực về chính trị và kinh tế bởi chế độ sở hữu
ruộng đất kiểu điền trang thái ấp khá phổ biến đã bắt đầu tan rã. Trong khi đó,
Nho giáo với chế độ thi cử đang dần chiếm thế thượng phong. Các quan lại
xuất thân từ Nho giáo đang dần nắm giữ các vị trí quan trọng trong bộ máy
nhà nước. Mặt khác, lúc này số lượng người xuất gia đã quá đông, lượng tăng
đồ trong các chùa rất lớn, điều này dẫn đến sự nảy sinh những vấn đề tiêu cực
15


tại cửa chùa, ảnh hưởng đến đời sống xã hội. Đến thế kỷ 15, Phật giáo càng bị
hạn chế nặng nề, chùa quán bị cấm xây thêm, mất đi vai trò đối với tầng lớp

thống trị và chỉ còn những ảnh hưởng nhất định trong dân gian. Điều này
cũng một phần thúc đẩy Phật giáo đến sự hỗn dung với tín ngưỡng dân gian
để có thể tiếp tục phát triển và lan rộng trong quần chúng nhân dân.
Sang giai đoạn từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 18, đây là thời kỳ Phật giáo dần
như “sống lại” và phát triển mạnh mẽ. Sau khi nhà Mạc sốn ngơi nhà Lê,
chiến tranh xảy ra liên miên làm cho đời sống nhân dân lầm than, khốn khổ,
chính quyền suy yếu, Nho sỹ suy thoái khiến niềm tin của các nhà tri thức,
nhà chính trị vào Nho giáo ngày càng lung lay, thì lúc này, Phật giáo vốn tiềm
tàng trong giới bình dân lại có chiều hướng phất lên. Ngồi ra, cảnh chiến
tranh loạn lạc với sự thống khổ triền miên cùng những nỗi oan trái đã khiến
con người tìm đến với tư tưởng và tình cảm của đạo Phật: “trong đau khổ
cùng cực, người ta lại quay trở về với đạo Phật – một đạo lấy đức từ bi làm
gốc và kỹ thuật trị thế chỉ là thứ yếu”(12). Kết quả là trong vùng Đồng bằng
Bắc Bộ, các ngôi chùa cũ được trùng tu, mở rộng và các chùa mới được xây
dựng khá nhiều mang nhiều nét đặc trưng của Phật giáo thời kỳ này. Có
những ngơi chùa giữ được nét kiến trúc tiêu biểu của thời kỳ này cho đến tận
ngày nay.
Dưới triều Nguyễn, Phật giáo phát triển khá mạnh mẽ dưới sự quan tâm
của triều đình, tuy nhiên từ giữa thế kỷ 19, Pháp xâm lược Việt Nam và đã có
những chính sách khai thác thuộc địa đã tác động không nhỏ đến Phật giáo.
Đến những năm đầu thế kỷ 20, phòng trào Chấn hưng Phật giáo diễn ra đã tạo
điều kiện cho Phật giáo trở mình, đánh dấu bằng sự ra đời của các tổ chức
giáo hội Phật giáo. Khi đất nước bị chia cắt trong hai cuộc kháng chiến chống
Pháp và Mỹ, Phật giáo đã kết hợp cùng các tín ngưỡng dân gian, với các giá
trị tốt đẹp của mình, lan tỏa trong đời sống nhân dân, góp khơng ít sức người

16


sức của vào cơng cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Điều này đã thể hiện chủ

trương hịa bình, “Phật pháp bất ly thế gian” của đạo Phật.
Phật giáo sau ngày giải phóng đất nước thì cũng được thống nhất bởi sự
ra đời của Giáo hội Phật giáo Việt Nam. Với hệ thống quản lý quy mô, hiện
đại, đến nay Phật giáo đã có những bước đi lên mạnh mẽ, dần phát triển theo
xu hướng kết hợp cùng tín ngưỡng dân gian.
1.2.

Tình hình Phật giáo và tín ngƣỡng dân gian tại hai huyện Thạch
Thất – Quốc Oai

1.2.1. Phật Giáo tại hai huyện Thạch Thất – Quốc Oai
 Quá trình phát triển của Phật giáo tại Thạch Thất – Quốc Oai
Thạch Thất và Quốc Oai là hai huyện nằm ở phía Tây trung tâm thành phố
Hà Nội. Đây là hai huyện có địa hình trải rộng, thuận lợi để phát triển kinh tế
nơng nghiệp, cơng nghiệp, du lịch văn hóa và các ngành nghề thủ công. Đi
cùng với sự phát triển của Phật giáo cả nước nói chung, thì Phật giáo tại hai
huyện Thạch Thất và Quốc Oai cũng phát triển và có ảnh hưởng tích cực đến
đời sống tinh thần của quần chúng nhân dân tại đây.
Thạch Thất - Quốc Oai thuộc vùng đất xứ Đoài, cùng với các huyện khác
của xứ Đoài, những trung tâm Phật giáo nơi đây được hình thành từ thời Lý
với những ngơi chùa nổi tiếng như: chùa Tây Phương, chùa Trăm Gian, Chùa
Bối Khê, chùa Thầy. Trong đó chùa Thầy và chùa Tây Phương là hai ngôi
chùa nổi tiếng, được nhiều người biết đến, và cũng là hai ngơi chùa chiếm
một vị trí quan trọng, làm nên nét đặc trưng riêng của Phật giáo khu vực
Thạch Thất - Quốc Oai, cũng như Phật giáo xứ Đồi.
Chùa Thầy là một ngơi chùa nằm tại chân núi Sài Sơn, huyện Quốc Oai,
tỉnh Hà Tây cũ (nay thuộc Hà Nội), cách trung tâm Hà Nội khoảng 20km về
phía Tây Nam. Sài Sơn có tên Nơm là núi Thầy, nên chùa có tên gọi là chùa
Thầy. Chùa Thầy là một trong những ngôi chùa nổi tiếng nhất Hà Nội, ngôi
17



chùa gắn liền với quãng đời sau cùng và thoát xác của vị Thiền sư nổi tiếng
thế hệ thứ 12 của dịng Thiền Tì ni đa lưu chi, Thiền sư Từ Đạo Hạnh.
Chùa được xây dựng từ thời nhà Lý (có tài liệu cho rằng chùa được xây
dựng vào thời Đinh). Nơi đây từng là nơi tu hành của thiền sư Từ Đạo Hạnh,
khi ấy, núi Thầy còn được gọi là núi Phật Tích. Chùa đã qua nhiều lần trùng
tu. Ban đầu, chùa Thầy chỉ là một am nhỏ, gọi là Hương Hải am, sau đó vua
Lý Nhân Tơng đã cho xây dựng lại, gồm hai cụm chùa: chùa Cao( đỉnh Sơn
Tự) ở trên núi, và chùa Dưới( gọi là chùa Cả, tên chữ là Thiên Phúc Tự). Vào
thế kỷ 17, Dĩnh Quận Cơng cùng hồng tộc chăm lo việc trùng tu, xây dựng
điện Phật, điện Thánh, sau đó là nhà hậu, nhà bia, gác chuông. Xét về phong
thủy, chùa được xây trên thế đất hình con rồng. Phía trước chùa, bên trái là
ngọn Long Đẩu, lưng chùa và bên phải dựa vào núi Sài Sơn. Chùa quay mặt
về hướng Nam, trước chùa, nằm giữa Sài Sơn và Long Đẩu là một hồ nước
rộng mang tên Long Chiểu hoặc Long Trì, giữa hồ có một thủy đình nhỏ
vng vắn, thường được dùng làm nơi múa rối nước (Từ Đạo Hạnh được cho
là ơng tổ của hình thức biểu diễn dân gian này). Hai bên chùa có hai chiếc cầu
có mái, do Hoàng giáp Phùng Khắc Khoan(1528-1613) xây dựng vào năm
1602. Cầu Nhật Tiên ở bên trái, nối vào đền Tam Phủ xây trên một đảo nhỏ
giữa hồ. Bên phải là cầu Nguyệt Tiên, dẫn vào con đường lên núi.
Chùa Thầy gồm ba tòa nhà dài nằm song song với nhau. Tịa nhà ngồi
cùng gọi là nhà tiền tế hay cịn gọi là chùa Hạ thờ các tượng Đức Ông, Thánh
Hiền, xung quanh để thờ các tượng Bát bộ Kim Cương. Tòa giữa là Trung
điện hay gọi là chùa Trung, thờ Phật, hai bên có hai tượng Hộ pháp và Thiên
vương. Tòa trong cùng là Thượng điện hay gọi là chùa Thượng, thờ tượng Di
Đà tam tơn, tượng Thích ca, tượng các hóa thân của vị Thiền sư Từ Đạo
Hạnh. Gian giữa Thượng điện có một bệ đá hình chữ nhật, phần trên chạm
hình những cánh hoa sen, bốn mặt chạm hình rồng và hoa lá, bốn góc có hình
thần điểu Garuda. Đây là loại bệ đá xuất hiện nhiều ở thế kỷ XIV. Ngay trước

18


bệ đá này là tượng Từ Đạo Hạnh khi đã đắc đạo, đội mũ hoa sen, tay chắp
trước ngực, khoác áo vàng, đặt trên một bệ tượng bằng đá thời Lý, có hình sư
tử đội tịa sen. Đây là di vật thời Lý duy nhất còn lại ở chùa Thầy. Bên trái là
tượng Từ Đạo Hạnh đặt trong khám. Tượng bằng gỗ, có khớp và có thể cử
động được (tuy nhiên hiện tại hệ thống khớp điện tự động đã bị tháo đi) và
được đặt trên ngai vàng, phía sau có chữ ghi năm Thiệu Phong thứ 6 đời Trần
Dụ Tông (1346). Bên phải là tượng của Lý Thần Tông, được coi là hậu thân
của Từ Đạo Hạnh.
Hai bên chùa là hành lang dài, phía sau là gác chng và gác trống, tương
truyền do bà Chúa Chè Tuyên Phi Đặng Thị Huệ xin với Chúa Tĩnh đô vương
Trịnh Sâm xây dựng khi về thăm chùa. Qua cầu Nguyệt Tiên có con đường
bậc đá đi lên núi, tại đây có khắc bài thơ của Trịnh Căn (1682-1709) "như
viên ngọc nổi lên giữa đám sỏi đá, rạng vẻ xuân tươi khắp cả bốn mùa. Động
trên hệt như cõi thanh hư, bên vách cịn in mây ráng. Ao rồng thơng sang bến
siêu độ, cầu tiên Nhật Nguyệt đơi vầng. Hình tựa bình phong, sông như dải
lụa". Lên trên núi là chùa Cao, tương truyền rằng đây là nơi Thiền sư Từ Đạo
Hạnh đến tu đầu tiên. Sau chùa là hang “Thánh Hóa”, tương truyền đây là nơi
mà Thiền sư Từ Đạo Hạnh thoát xác để đầu thai thành vua Lý Thần Tông. Từ
chùa Cao đi vịng ra phía sau, đi theo lối mịn ở ven núi sẽ đến được hang Cắc
Cớ, xưa kia trai gái thường rủ nhau đến chơi ngày hội. Từ hang Cắc Cớ ngược
lên, đến đền Thượng. Cách một đoạn, đến hang Gió, ở đây gió thường xuyên
thổi mạnh qua hai cửa hang, ở chân núi phía tây có chùa Bối Am, cịn gọi là
chùa Một Mái, chùa có tên như vậy vì chỉ có một mái ngói, mặt sau chùa dựa
vào vách núi. Có thể thấy, quanh núi Thầy, khơng phải chỉ có chùa Thầy,
thường được gọi là chùa Cả ở chân núi, mà có cả một cụm kiến trúc Phật giáo
được xây dựng trong những thời kỳ khác nhau.
Chùa Tây Phương, có tên chữ là Sùng Phúc Tự, được dựng trên một

ngọn núi tên là Tây Phương( xưa núi này có tên là Câu Lậu). Đây là một ngọn
19


núi cao khoảng 50m, nằm tại xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất, Hà Nội (xưa là
Hà Tây), cách trung tâm Hà Nội khoảng 40km về phía Tây.
Chùa Tây Phương được xây dựng vào khoảng thế kỷ 8 và là chùa cổ
thứ 2 ở nước ta, sau chùa Dâu ở Bắc Ninh, và đã trải qua nhiều lần trùng tu.
Tuy nhiên, có một số thơng tin cho rằng được xây dựng từ thời nhà Mạc,
nhưng lại không chứng minh. Tuy nhiên mốc thời gian này cũng có thể tin
được, vì đầu thế kỷ 17, vào những năm 30 chùa đã phải sửa chữa lớn, và hơn
nữa trong chùa cịn có hai tấm bia đều bị mờ chữ nhưng còn đọc được rõ tên
bia ở mặt ngồi là Tín thí và Tây Phương sơn Sùng Phúc tự thạch bi, còn mặt
trong áp vào tường hồi tịa chùa giữa nên khơng đọc được, các hoa văn trang
trí cũng thuộc cuối thế kỷ 16, đầu thế kỷ 17.
Năm 1632, vào đời vua Lê Thần Tông, chùa xây dựng Thượng điện 3 gian
và hậu cung cùng hành lang 20 gian. Khoảng những năm 1657 – 1682, Tây
Đô Vương Trịnh Tạc lại cho phá bỏ chùa cũ, xây lại chùa mới và tam quan.
Đến năm 1794 dưới thời Tây Sơn, chùa lại được đại tu hoàn toàn với cái tên
“Tây Phương cổ tự” với diện mạo còn đến tận bây giờ.
Từ dưới chân núi, leo qua 237 bậc đá ong thì đến cửa chùa. Chùa có ba
nếp nhà song song gồm: bái đường, chính điện và hậu cung. Mỗi nếp nhà có
hai tầng mái kiểu chồng diêm với các đầu đao cong vút lên. Đặc biệt, chùa
Tây Phương có hệ thống tượng gồm 64 pho tượng cùng với các phù điêu có
mặt tại mọi nơi. Các pho tượng đều được tạc bằng gỗ mít và được sơn son
thếp vàng. Mỗi pho tượng là một tác phẩm riêng biệt, vừa hiện thực, vừa giàu
tính nghệ thuật. Các pho tượng được chạm khắc với nhiều hình dáng và biểu
cảm đa dạng, tinh tế khác nhau. Những người thợ mộc của làng nghề mộc
truyền thống Chàng Sơn là tác giả của những kiệt tác tuyệt vời ấy của nền mỹ
thuật Việt Nam.


20


Chùa Tây Phương đã là một cơng trình kiến trúc tôn giáo đặc sắc tiêu biểu
cho mỹ thuật Việt Nam thời Hậu Lê (thế kỷ 17-18). . Chùa Tây Phương được
cơng nhận là Di tích Quốc gia đặc biệt và bộ tượng Phật giáo thời Tây Sơn tại
chùa được công nhận là Bảo vật Quốc gia.
Người có cơng lan tỏa Phật giáo tại xứ Đồi nói chung hay khu vực
Thạch Thất - Quốc Oai nói riêng, khơng ai khác chính là vị Thiền sư nổi tiếng
Từ Đạo Hạnh.
Thân thế và hành trạng của Thiền sư Từ Đạo Hạnh đã được nhiều
thư tịch ghi chép lại, như: Thiền Uyển tập anh, Đại Việt sử lược, Lĩnh Nam
chích quái. Tuy mỗi thư tịch lại có những tình tiết ghi chép khác nhau, nhưng
tựu chung lại thì thân thế và hành trạng của Thiền sư đã khá rõ ràng. Thiền sư
họ Từ, tên Lộ, tự là Đạo Hạnh, ở chùa Thiên Phúc, núi Phật Tích. Cha ơng là
quan Đơ sát Từ Vinh, mẹ ông là Tăng Thị Loan. Do cha ông – Từ Vinh bị
giết bởi một pháp sư tên Đại Điên. Từ đó Từ Đạo Hành đã có ý đi sang Tây
Thiên tu luyện phép thuật để về giết Đại Điên, trả thù cho cha. Nhưng đi được
nửa đường, Ngài quay lại và chọn núi Sài Sơn, Chùa Phật Tích làm nơi tu
hành. Ngài chuyên trì kinh "Đại Bi Tâm Đà La Ni" của đức Quán thế Âm tới
khi cảm ứng, có vị thần tự xưng Trấn Thiên vương hiện lên và xin làm đệ tử
để cho ngài sai khiến. Sau đó ngài dùng gậy đánh chết Đại Điên.
Đại Điên cũng là người tu hành nên sau đó đã tái sinh thành đứa trẻ, tuy
mới 3 tuổi nhưng cái gì cũng biết, tự xưng là Giác Hồng. Lúc ấy, vua Lý
Nhân Tơng biết chuyện kỳ lạ bèn đón về Kinh Sư và cho nó ở chùa Báo
Thiên. Vua muốn nhận đứa trẻ làm con nhưng quần thần và dân chúng không
nghe, nên vua bèn lập đàn cầu nguyện pháp hội kéo dài 7 ngày, nhằm để đứa
trẻ linh dị này đầu thai vào trở lại vào nơi cấm cung. Từ Đạo Hạnh biết đứa
trẻ là do Đại Điên đầu thai vào để mê hoặc dân chúng, làm nhiễu loạn chính

pháp, nên đã nhờ người chị của mình mang lá bùa, giả làm người chơi hội rồi

21


treo ở tấm rèm nơi đứa bé ở. Tới ngày thứ 3, đứa trẻ này ốm và chết. Lý Nhân
Tông truy ra và bắt Từ Đạo Hạnh đem về giam tại Hưng thánh lâu.
Từ Đạo Hạnh xin với em vua là Sùng Hiền Hầu cứu thoát và hứa là
kiếp sau sẽ đầu thai làm con của Sùng Hiền Hầu để trả ơn. Tuy nhiên, phải
báo cho Ngài biết trước khi vợ của Sùng Hiền Hầu sắp sinh.
Sau này, khi vợ Sùng Hiền Hầu trở dạ mãi không sinh, liền báo cho Từ
Đạo Hạnh. Ngài nhận tin, liền tắm rửa sạch sẽ, thay quần áo, vào hang trút
xác mà qua đời. Ngài đầu thai làm con của Sùng Hiền Hầu. Do vua Lý Nhân
Tơng khơng có con, truyền ngơi cho con của Sùng Hiền Hầu là Lý Dương
Hốn, người này chính là Từ Đạo Hạnh đầu thai, tức vua Lý Thần Tơng.
Tại huyện Thạch Thất (2017) có tổng cộng 70 ngơi chùa, 40 vị Tăng
ni. Trong đó có 12 ngơi chùa được xếp hạng cấp Quốc gia, 19 ngôi chùa được
xếp hạng cấp Thành phố. Trong số các chùa tại Thạch Thất thì ngơi chùa nổi
tiếng nhất là chùa Tây Phương được xây dựng với lối kiến trúc hình chữ Tam
và những hoa văn tuyệt mỹ được xếp vào bậc nhất nước ta hiện nay.
Tại huyện Quốc Oai (2017) có tổng cộng 73 ngôi chùa, 81 vị Tăng ni,
với 34 chùa có sư trụ trì và 19 chùa chưa có sư trụ trì. Trong số các chùa tại
Quốc Oai thì ngơi chùa nổi tiếng nhất là chùa Thầy với tuổi đời lâu năm và
gắn với quãng đời sau cùng và thoát xác của Thiền sư Từ Đạo Hạnh.
Với số lượng chùa và số lượng Tăng ni, trụ trì như vậy có thể thấy được
tình trạng rằng Phật giáo trong khu vực hai huyện này cịn gặp nhiều khó
khăn khi mà địa bàn thì rộng, nhân sự lại ít. Từ đó dẫn đến việc quản lý Tăng
ni – tự viện, Hoằng pháp hay phục vụ tín ngưỡng cho nhân dân cịn gặp khó
khăn hơn rất nhiều.
Tuy nhiên, với sự nỗ lực của Ban trị sự Phật giáo thì Phật giáo trên cả

hai huyện đều đang khơng ngừng phát triển, hồn thành xuất sắc các nhiệm
22


vụ được giao. Đặc biệt, với công tác giáo dục Tăng ni thì hiện trên địa bàn hai
huyện đã và đang có được lớp Tăng ni trẻ với trình độ chuyên sâu về Phật học
và thế học, tiếp cận được thời kỳ hội nhập của đất nước. Trong tương lai sẽ là
lớp đưa Phật giáo trong khu vực ngày càng cắm sâu rễ trong đời sống nhân
dân, từ đó phát triển đi lên.
Về việc xây dựng, trùng tu và bảo tồn, thì các chùa trong khu vực đã
được xây dựng, kiến thiết ngày càng trang nghiêm để phục vụ cho nhu cầu
giữ gìn, phát triển Phật giáo cũng như nhu cầu tâm linh, tín ngưỡng của người
dân tại đây. Ví dụ như: chùa Thầy, chùa Long Đẩu, chùa Phúc Đức, chùa Cực
Lạc, chùa Am Thanh, chùa Hưng Sơn, Chùa Kim Quan, chùa Báo Ân,... với
kinh phí hàng trăm tỷ đồng.
Như vậy, Phật giáo khu vực này nhờ sự quan tâm của các cấp, chính
quyền cùng sự ủng hộ của quần chúng nhân dân nên ngày càng phát triển, và
có những ảnh hưởng tích cực đến đời sống văn hóa tâm linh của người dân
nơi đây.
 Đặc điểm Phật giáo khu vực Thạch Thất, Quốc Oai
Với vị trí địa lý đặc biệt, 2 huyện Thạch Thất - Quốc Oai thuộc trấn Đoài
xưa, một trong tứ trấn của Thăng Long, nên khu vực này cũng được tiếp nhận
sớm nền Phật giáo khi mà Phật giáo du nhập, hình thành và phát triển tại phía
Bắc nước ta. Tuy gần sát Thăng Long – Hà Nội - một trung tâm, đô thị nổi bật
trong lịch sử Việt Nam, nhưng dân cư trong khu vực này vẫn gắn bó với làng
q của mình, vẫn xây dựng đình, chùa, cổng làng, vẫn giữ nét văn hóa làng
xã. Chính văn hóa làng xã của cư dân nơng nghiệp trồng lúa nước là mảnh đất
màu mỡ cho giáo lý của Phật giáo du nhập và bén rễ.
Kể từ khi Phật giáo được xem là Quốc giáo trong triều đại Lý – Trần,
thì Phật giáo nơi đây cũng phát triển mạnh mẽ, ảnh hưởng sâu rộng đến đời


23


sống nhân dân. Đây cũng là thời kỳ chùa chiền được xây dựng rất rầm rộ với
quy mô rộng lớn.
Do điều kiện hình thành và phát triển, Phật giáo tại khu vực này có ba
đặc điểm chính, đó là: Tính tổng hợp, Tính hài hịa âm dương, Tính linh họat.
Thứ nhất, Tính tổng hợp:
Cho đến nay, Phật giáo ở khu vực hai huyện này vẫn mang tính cổ
truyền, là sự tổng hợp giữa Phật giáo và các giáo phái khác, là kết quả của sự
dung hợp giữa cái “hữu nghĩa” của đạo Nho, cái “vô ngã” của đạo Phật, cái
“vô vi” của đạo Lão, và cái “phồn thực” và lòng trắc ẩn của đạo Mẫu.
Phật giáo nơi này cịn có sự tổng hợp giữa các tông phái với nhau. Nổi
bật nhất có thể thấy là dịng Tỳ ni đa Lưu chi được pha trộn với Mật tơng. Ví
dụ như Thiền sư Từ Đạo Hạnh rất giỏi pháp thuật và có tài thần thơng biến
hóa. Hay là sự kết hợp giữa Thiền tông và Tịnh độ tông khi tụng niệm Phật A
Di Đà và Bồ Tát. Ở các ngôi chùa trong khu vực này có thể thấy được trên
các điện thờ rất phong phú bởi có sự xuất hiện của các loại tượng Phật, Bồ
tát, La hán của các tông phái khác nhau. Hay trang phục của các sư, các Phật
tử, bên cạnh việc mặc áo vàng cịn có áo nâu, áo lam.
Ngồi ra, Phật giáo cịn có sự tổng hợp với Tín ngưỡng dân gian. Phật
giáo là thờ Phật trong chùa, tín ngưỡng dân gian nơi đây là thờ Thần trong
miếu và thờ Mẫu trong phủ. Bốn vị Thần được thờ nhiều nhất đó là Tứ pháp:
Mây, mưa, sấm chớp. Và do đặc tính tổng hợp này nên bốn vị thần đã được
Phật hóa. Các pho tượng này thường được gọi tượng Phật Pháp Vân, Phật
Pháp Vũ, Phật Pháp Lôi và Phật Pháp Điện. Các hệ thống thờ phụ này tổng
hợp với nhau tạo nên các ngôi chùa "tiền Phật, hậu thần" hay "tiền Phật, hậu
Mẫu". Người dân nơi đây đưa các vị Thần, Thánh, Mẫu, thành hoàng thổ địa,
anh hùng dân tộc... vào thờ trong chùa. Đa số các chùa còn để cả bia hậu, bát

nhang cho các linh hồn đã khuất.
24


×