Tải bản đầy đủ (.pdf) (58 trang)

SKKN Ứng Dụng Bản Đồ Tư Duy Trong Giảng Dạy Âm Nhạc Ở Trường THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.49 MB, 58 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

ĐỀ TÀI:
"ỨNG DỤNG BẢN ĐỒ TƯ DUY TRONG GIẢNG DẠY ÂM NHẠC
Ở TRƯỜNG THCS"


PHẦN THỨ NHẤT – ĐẶT VẤN ĐỀ
I – Cơ sở khoa học của sáng kiến kinh nghiệm
1- Cơ sở lý luận:
Có thể nói, nền giáo dục nước ta đã trải qua hai giai đoạn cơ bản và hiện nay đang
trong giai đoạn tiến tới giai đoạn thứ ba. Nếu ở hai giai đoạn trước, với chủ trương lấy
người thầy là hạt nhân, trung tâm của mơ hình và q trình giáo dục với hình thức “ thầy
giáo chỉ đạo tồn diện học tập của học sinh” thì ở giai đoạn mới này chúng ta đã tiến
thêm một bước và sự có thay đổi cơ bản mà trung tâm của quá trình giáo dục là đối tượng
học sinh.
Luật giáo dục điều 28.2 đã nêu “ phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy
tính tính cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng
lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng, vận dụng kiến thức
vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”.
Như vậy để đáp ứng điều này trong dạy – học, buộc các nhà giáo phải thay đổi phương
pháp giáo dục sao cho phù hợp với nhu cầu và quá trình học tập của học sinh, đáp ứng
được yêu cầu xu thế phát triển của thời đại, góp phần đào tạo con người theo hướng có đủ
Đức - Trí - Thể - Mỹ.
Chúng ta đã biết, nhiệm vụ cơ bản nhất của mọi hình thái giáo dục là truyền đạt
kiến thức cho học sinh. Kiến thức được giáo viên nghiên cứu và lĩnh hội trước sau đó mới
truyền tải các kiến thức này cho học sinh. Việc truyền tải đó được diễn ra như thế nào,
bằng phương tiện nào, phương thức nào không phải là vấn đề mà điều quan trọng nhất là
những thông tin, kiến thức phải được truyền tải một cách đầy đủ, chính xác.
Trên thực tế khi truyền đạt kiến thức đến học sinh, giáo viên được phép sử dụng bất
cứ phương pháp (có thể là thuyết trình, giảng giải hay kể cả là đọc – chép) và loại


phương tiện giáo dục nào để có thể đạt được mục đích của mình (có thể là bảng đen,
phấn, thước kẻ, các dụng cụ thí nghiệm, các vật mẫu).


Nếu ở hình thái giáo dục cũ, một giáo viên lên lớp sẽ giảng giải, thuyết trình (hay
đọc bài) cho một số đông học sinh (nghe và chép). Với cách dạy này, người thầy đã máy
móc, rập khn trong dạy học, dễ có tư tưởng phó mặc, khơng hứng thú trong cập nhật
kiến thức, khơng sáng tạo trong việc tìm kiếm các phương án thiết kế bài dạy phù hợp với
mọi đối tượng học sinh trong lớp mình phụ trách để kết quả giảng dạy đạt mức tối ưu.
Người học theo cách này sẽ trở nên thụ động, chỉ biết thu nhận kiến thức một chiều,
không động não suy nghĩ, khơng biết tự mình chiếm lĩnh tri thức, trở nên thui chột về tư
duy, khó vận dụng kiến thức vào cuộc sống. Học sinh khi học, chép được điều gì thì lúc
thi có thể lại chép những điều ấy vào bài làm, thường thì các em sẽ hiểu bài một cách
máy móc khơng sáng tạo, khơng thể hiện được “cái riêng” của mình hoặc khơng dám thể
hiện “cái riêng” của mình. Tiết dạy theo phương pháp cũ (nối đọc – chép) tất yếu phải
được tổ chức theo phương thức diễn dịch, do đó sẽ nhàm chán và mang tính áp đặt.
Khắc phục tình trạng đó là một u cầu cần thiết để nâng cao chất lượng dạy học
đối với tất cả các mơn học. Đó là một nhiệm vụ vơ cùng khó khăn phức tạp trong điều
kiện hiện nay của ngành giáo dục nước nhà nói chung và của các nhà trường nói riêng.
Để bỏ được phương pháp cũ trong dạy – học là cả một quá trình lâu dài với sự cố gắng
của nhiều đối tượng khác nhau trong đó sự tận tâm của thầy cơ giáo là điều hết sức quan
trọng mới có thể có kết quả.
Trong giai đoạn hiện nay, xu hướng dạy học hiện đại với sự kết hợp những thành
tựu công nghệ thông tin đã và đang diễn ra một cách khá phổ biến ở các ngành học, cấp
học. Công nghệ thông tin với tư cách là một phương tiện hỗ trợ cho việc đổi mới phương
pháp dạy học đang chứng tỏ những ưu thế và hiệu quả trong q trình dạy học nói chung.
Tuy nhiên, việc có phương tiện hỗ trợ tốt là chưa đủ mà để có các tiết dạy – học tốt ta cần
phải có phương pháp tốt.
Để tối ưu hố các tính năng của các thiết bị dạy học hiện đại và hiện thực hoá việc
chống dùng phương pháp cũ hay thuyết trình một chiều trong dạy - học thì việc lựa chọn,

ứng dụng bản đồ tư duy vào dạy – học như một phương pháp mới là điều tất yếu.
Vậy Bản đồ tư duy là gì, tác dụng ra sao?


Bản đồ tư duy (Mindmap) là phương pháp (do tác giả Tony Buzan - người Anh
phát triển từ những năm 1980) được đưa ra như là một phương tiện mạnh để tận dụng
khả năng ghi nhận hình ảnh của bộ não. Đây là cách để ghi nhớ chi tiết, để tổng hợp, hay
để phân tích một vấn đề ra thành một dạng của lược đồ phân nhánh. BĐTD đã thể hiện ra
bên ngoài cách thức mà não bộ chúng ta hoạt động. Đó là liên kết, liên kết và liên kết.
Mọi thông tin tồn tại trong não bộ của con người đều cần có các mối nối, liên kết để có
thể được tìm thấy và sử dụng. Khi có một thông tin mới được đưa vào, để được lưu trữ và
tồn tại, chúng cần kết nối với các thông tin cũ đã tồn tại trước đó. Khác với máy tính,
ngồi khả năng ghi nhớ kiểu tuyến tính (ghi nhớ theo 1 trình tự nhất định chẳng hạn như
trình tự biến cố xuất hiện của 1 câu truyện) thì não bộ cịn có khả năng liên lạc, liên hệ
các dữ kiện với nhau. BĐTD khai thác cả hai khả năng này của bộ não.
Đây là một kĩ thuật để nâng cao cách ghi chép. Bằng cách dùng giản đồ ý, tổng thể
của vấn đề được chỉ ra dưới dạng một hình trong đó các đối tượng thì liên hệ với nhau
bằng các đường nối. Với cách thức đó, các dữ liệu được ghi nhớ và nhìn nhận dễ dàng và
nhanh chóng hơn.
Thay vì dùng chữ viết để miêu tả một chiều BĐTD biểu thị toàn bộ cấu trúc chi tiết
của một đối tượng bằng hình ảnh hai chiều. Nó chỉ ra dạng thức của đối tượng, sự quan
hệ tương hỗ giữa các khái niệm (hay ý) có liên quan và cách liên hệ giữa chúng với nhau
bên trong của một vấn đề lớn.
BĐTD thể hiện vấn đề một cách đơn giản nhưng chi tiết, chỉ cần nhìn hình đã hiểu,
khơng cần diễn giải dài dịng, cũng khơng cần quan tâm đến "mục đích, yêu cầu, ý nghĩa"
vốn nhiều khi chỉ mang tính cơng thức.
BĐTD dễ hình dung, dễ áp dụng, xin hãy xem minh họa này. Với việc đơn giản
nhất là shopping mà cũng có thể vẽ bản đồ thế này, nói gì những vấn đề nghiêm túc như
dạy – học.



Ở vị trí trung tâm sơ đồ là một hình ảnh hay một từ khóa thể hiện một ý tưởng hay
khái niệm chủ đạo. Ý trung tâm sẽ được nối với các hình ảnh hay từ khóa cấp 1 bằng các
nhánh chính, từ các nhánh chính lại có sự phân nhánh đến các từ khóa cấp 2 để nghiên
cứu sâu hơn. Cứ thế, sự phân nhánh cứ tiếp tục và các khái niệm hay hình ảnh ln được
nối kết với nhau. Chính sự liên kết này sẽ tạo ra một “bức tranh tổng thể” mô tả về ý
trung tâm một cách đầy đủ và rõ ràng.
BĐTD rất logic, mạch lạc mà tư duy cần nhất điều này.
BĐTD rất trực quan, thể hiện rõ mọi liên hệ, liên kết, quan hệ... từ cái gì đến cái
gì...
BĐTD rất tổng thể, như sơ đồ của thành phố, nhìn là thấy ngay cái gì ở đâu, như
thế nào, tương tác ra sao với những cái còn lại. Đây là ưu thế hơn hẳn so với sự diễn tả
của phương pháp diễn dịch (ví dụ như: Ý I ở trang 4, ý II ở trang 13, ý III ở.... Lúc cần
tìm các ý quả là một thách đố. Mà tìm liên hệ giữa chúng thì lại càng đáng nản.)
2- Cơ sở thực tiễn:
Như chúng ta biết, Âm nhạc trong nhà trường phổ thông là một môn học, là sư
phạm nghệ thuật chứ không nhằm mục đích đào tạo năng khiếu ca hát, mà điều quan
trọng hơn cả là qua bộ mơn, giúp học sinh có hứng thú tìm hiểu những kiến thức căn bản


về âm nhạc, phần nào có được khả năng cảm thụ âm nhạc. Muốn thực hiện điều đó các
em phải được đào tạo có bài bản và đảm bảo về nội dung kiến thức cơ bản, đặc biệt là
kiến thức về lí thuyết và lịch sử âm Âm nhạc.
Tuy nhiên trong thực tế hiện nay môn âm nhạc ở trường phổ thơng chưa thực sự
làm được điều đó vì hầu hết giáo viên chưa thực sự dạy âm nhạc một cách bài bản, hầu
hết vẫn chỉ dạy theo hướng truyền khẩu (theo phương pháp cũ) với quan điểm: việc giáo
dục âm nhạc trong nhà trường phổ thông chưa thực sự cần thiết, nhất là các trường ở khu
vực nông thôn - chỉ cần dạy cho các em các bài hát, hát thuộc lời ca, hát to, hát rõ lời là
được. Bên cạnh đó lại cịn nhiều học sinh chưa hứng thú với học và tìm hiểu về mơn âm
nhạc nói chung hay các phân mơn Nhạc lí; Âm nhạc thường thức nói riêng trong khi đó

hầu hết các giáo viên lại cho rằng do các em không tập chung, không chú ý khi học mà
khơng tìm hiểu ngun nhân sâu xa của vấn đề.
Qua thực tế giảng dạy và nghiên cứu tôi thấy, không phải các em không thể chú ý
mà hầu hết là do giáo viên chưa thực sự quan tâm tới việc thu hút sự chú ý của học sinh
khi dạy và học các nội dung lí thuyết hay nói cách khác là giáo viên chưa làm được điều
đó. Qua khảo sát thực trạng nhằm ứng dụng BĐTD vào dạy – học ở trường THCS Tống
Trân tôi nhận thấy một số ưu nhược điểm sau:
* Về ưu điểm (thuận lợi):
Trường THCS Tống Trân (từ ban giám hiệu đến giáo viên) có lịng u nghề, có
phong trào tích cực tìm hiểu học tập và áp dụng phương pháp mời vào giảng dạy. Các em
học sinh chăm học, hiếu học bên cạnh đó cịn nhận được sự quan tâm, tạo điều kiện của
địa phương cũng như của phòng giáo dục huyện.
Theo luật giáo dục điều 28.2 đã nêu “ phương pháp giáo dục phổ thơng phải phát
huy tính tính cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của
từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng, vận dụng kiến
thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học
sinh”. Với chủ trương đó, những năm gần đây, Bộ giáo dục và đào tạo, Sở giáo dục và


đạo tạo tỉnh Hưng Yên, Phòng giáo dục và đạo tạo huyện Phù cừ cũng như trường THCS
Tống Trân thường xuyên tổ chức triển khai, tập huấn và áp dụng những phương pháp mới
vào dạy học.
Nhằm đổi mới phương pháp dạy học bắt kịp với yêu cầu của thời đại, từ năm học
2011 – 2012 ngành giáo dục các cấp đã triển khai đồng loạt việc ứng dụng bản đồ tư duy
trong dạy học ở các trường phổ thông. Hưởng ứng phong trào đó, tồn trường THCS
Tống Trân đã đẩy mạnh việc ứng dụng BĐTD trong công tác và giảng dạy. Thường
xuyên tổ chức các chương trình bồi dưỡng nghiệp vụ, chuyên đề về BĐTD, bên cạnh đó
các giáo viên còn tự học, tự nghiên cứu qua các tài liệu, sách tham khảo và tích cực ứng
dụng BĐTD trong các tiết dạy của mình, đây cũng chính là nhiệm vụ trọng tâm, là tiêu
chí thi đua của mỗi giáo viên trong nhà trường.

Về cơ sở vật chất, trong những năm gần đây nhà trường đã ngày càng được trang bị
đầy đủ về trang thiết bị dạy - học: Có nhiều máy tình với cấu hình khá mạnh và được nối
mạng internet, có máy chiếu projector…
Học sinh rất hứng thú với các mơn học có áp dụng các phương pháp mới đặc biệt là
ứng dụng BĐTD vào dạy học trong đó có mơn âm nhạc.
Đó thực sự là những điều kiện thuận lợi để thực hiện đề tài SKKN ứng dung BĐTD
trong dạy - học môn âm nhạc ở trường THCS.
* Về nhược điểm (khó khăn):
Trực tiếp giảng dạy mơn âm nhạc ở trường THCS Tống Trân và được thâm nhập ở
một số trường THCS khác về môn học âm nhạc. Bản thân tôi thấy rõ thực trạng của việc
dạy môn âm nhạc cịn hạn chế và có nhiều bất cập đặc biệt là các phân mơn mang tính lí
thuyết trong giảng dạy.
Quy trình soạn giảng một tiết âm nhạc có ứng dụng BĐTD cịn phức tạp vì đặc thù
bộ mơn hầu hết là thực hành, các nội dung lí thuyết thường được chia nhỏ trong các tiết
học.


Việc ứng dụng BĐTD trong học tập của học sinh mới chỉ là bước đầu, do vậy các
em còn chưa thực sự lắm vững kĩ thuật thiết lập BĐTD và chưa hình thành được thói
quen học tập, ghi chép thơng tin bằng BĐTD, hơn thế nữa ứng dụng BĐTD đôi khi cịn
mất nhiều thời gian trong tiết học vì học sinh thường lúng túng, thiếu tự tin trong việc
triển khai ý tưởng.
Tống Trân là một xã nằm xa trung tâm đơ thị nên đời sống kinh tế cịn khó khăn, cơ
sở vật chất trang thiết bị đặc biệt là thiết bị tin học còn thiếu thốn. Nhu cầu và hiểu biết
về nhạc lí hay khả năng thường thức âm nhạc của học sinh chưa cao. Do vậy khi triển
khai BĐTD các em có ít sự hiểu biết, ít thơng tin liên quan tới nội dung bài học.
* Để tăng hứng thú cho học sinh trong các giờ học âm nhạc, đặc biệt là việc học các
phân mơn lí thuyết, trong q trình thực hiện giảng dạy bộ mơn, tơi ln quan tâm tìm tịi
sự đổi mới trong thiết kế và phương pháp lên lớp từ đó đã phát hiện ra một trong những
vấn đề cần quan tâm là phải đổi mới phương pháp theo hướng “ứng dụng bản đồ tư duy”

trong soạn bài và giảng dạy trên lớp cho học sinh để phù hợp hơn với nhu cầu và môi
trường giáo dục hiện đại. Định hướng chung của phương pháp giảng dạy mới này là
chuyển từ mơ hình “thuyết trình”; “đọc – chép” với vai trò độc diễn của giáo viên sang
mơ hình “cộng tác” “tư duy, sáng tạo” thân thiện giữa giáo viên và học sinh với sự trợ
giúp đắc lực của kĩ thuật bản đồ tư duy, của máy tính và các phần mềm giáo dục. Để
khẳng định những ưu việt của việc áp dụng phương pháp dạy học mới, từ kinh nghiệm
thực tế giảng dạy tôi đã tìm hiểu, áp dụng và viết đề tài" Ứng dụng BĐTD trong dạy –
học môn âm nhạc ở trường THCS"
II - Mục đích của SKKN:
Mục đích là tìm ra phương pháp hay nhất, hiệu quả nhất để dạy học cho học sinh
THCS âm nhạc là nghệ thuật truyền tải âm thanh bằng thời gian nó có ý nghĩa to lớn phát
huy trí tưởng tượng, óc tư duy sáng tạo.
Qua nghiên cứu nội dung và chương trình sách giáo khoa mơn âm nhạc đặc biệt
qua việc trực tiếp giảng dạy bản thân tôi - người viết sáng kiến kinh nghiệm này có rất


nhiều trăn trở trong việc dạy âm nhạc đặc biệt là khả năng cảm thụ âm nhạc cho học sinh
THCS. Theo tơi, chương trình sách giáo khoa mới đã có rất nhiều điểm tích cực, qua cách
dạy và học đó học sinh đã được tư duy trực quan bằng nhiều thao tác, phát huy tốt các
năng lực của bản thân nhưng thực tế nếu ta chỉ dạy đơn thuần theo đúng nội dung từng
bài học đương nhiên đã cung cấp được các kiến thức cơ bản cho học sinh xong để phát
huy tối đa và biến những năng lực âm nhạc của học sinh thành khả năng cảm thụ và thái
độ u thích âm nhạc thì người giáo viên cần phải tìm ra những phương pháp dạy tối ưu
nhất, phù hợp nhất với từng đối tượng học sinh của mình.
Khi nghiên cứu và ứng dụng các phương pháp mới trong công tác giảng dạy để
tăng hứng thú cho học sinh trong học tập môn âm nhạc, tôi tự nhận thấy mình cần nghiên
cứu, tìm hiểu và áp dụng nhiều hơn, triệt để hơn kĩ thuật sử dụng BĐTD. Trong đề tài
này, những vấn đề đưa ra cho dù vẫn còn trong phạm vi rất nhỏ nhưng tôi viết sáng kiến
kinh nghiệm với đề tài " Ứng dụng BĐTD trong dạy – học môm âm nhạc ở trường
THCS" với mong muốn cùng chia sẻ và trao đổi những kinh nghiệm giảng dạy của bản

thân với các đồng nghiệp mong qua đó sẽ tìm được những lời giải hay nhất, phương pháp
tốt nhất nhằm khắc phục được những vấn đề còn tồn tại trong dạy và học môn âm nhạc.
Với thực trạng về kĩ năng và hứng thú học, tìm hiểu về âm nhạc của học sinh
trường THCS Tống Trân nơi trực tiếp giảng dạy, qua đề tài này tơi muốn tìm ra phương
pháp tối ưu nhất để phục vụ, hỗ trợ cho cơng việc giảng dạy của mình, nhằm giúp cho
học sinh có được những kĩ năng cơ bản đặc biệt là có hứng thú với việc học âm nhạc nói
chung và các phân mơn lí thuyết âm nhạc nói riêng.
III - Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu:
1- Đối tượng nghiên cứu
Đây là đề tài "Ứng dụng BĐTD trong dạy – học mơm âm nhạc ở trường THCS"
vì vậy đối tượng nghiên cứu là học sinh và môn âm nhạc trường THCS ( từ lớp 6 đến lớp
8)
2- Phạm vi nghiên cứu:


Tại trường THCS Tống Trân (gồm các lớp 6A, 6B, 7A, 7B 8A và 8B).
IV - Kế hoạch và phương pháp nghiên cứu:
1. Kế hoạch nghiên cứu:
+ Thời gian nghiên cứu và thực nghiệm đề tài kinh nghiệm "Ứng dụng BĐTD
trong dạy –học môm âm nhạc ở trường THCS”: năm học 2012 - 2013
+ Thời gian kiểm định, đánh giá và hoàn thiện SKKN: Tháng 4 năm 2013.
2. Phương pháp nghiên cứu:
a. Phương pháp quan sát:
Thu thập thông tin về các em thuộc các lớp từ khối 6 đến khối 8 bằng cách tri giác
trực tiếp các nhân tố có liên quan.
b. Phương pháp điều tra:
Thu thập các thông tin trên cơ sở các câu trả lời về hứng thú và khả năng nhận thức
của các em học sinh về mơn âm nhạc.
c. Phương pháp tổng hợp tài liệu:
Tìm hiểu tài liệu và học hỏi những người đi trước có liên quan đến đề tài và đã giải

quyết như thế nào? Hiệu quả của các biện pháp đã sử dụng...
d. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm:
Kết hợp lý luận với thực tiễn tại trường, đem lý luận phân tích kinh nghiệm của
thực tiễn rồi từ những phân tích đó rút ra kết luận những bài học thành công và thất bại,
những phát hiện mới và phát triển hoàn thiện đề tài.
PHẦN THỨ HAI – NỘI DUNG
I- Nội dung nghiên cứu
Âm nhạc là một trong những phương tiện thực hiện nhiệm vụ giáo dục thẩm mỹ
cho từng học sinh, tạo cơ sở hình thành nhân cách con người Việt Nam do đó mỗi giáo


viên dạy mơn âm nhạc phải tự tìm cho mình một giải pháp, một phương pháp dạy học
mới để đáp ứng được với yêu cầu của bộ môn và đáp ứng thị hiếu của chính các em học
sinh. Đối với tơi một người được tiếp xúc, tìm hiểu, tập huấn khá nhiều về các phương
pháp dạy học mới, đặc biệt là đã được tập huấn về việc ứng dụng bản đồ tư duy trong dạy
học (theo dự án THCS II tại Hà Nội năm học 2011-2012) nên tôi lựa chọn việc ứng dụng
BĐTD vào dạy học nhằm nâng cao chất lượng môn âm nhạc cho học sinh.
Để thực hiện một giờ dạy học với sự hỗ trợ của BĐTD, người thầy cần thực sự hiểu
về nó để thiết kế tồn bộ kế hoạch hoạt động dạy học của mình một cách hợp lí và có
hiệu quả. Tuy nhiên cái đạt được là dựa vào BĐTD giáo viên có thể tổ chức các hoạt
động dạy học được thiết kế từng bước hợp lý linh hoạt trong một cấu trúc chặt chẽ, giáo
viên được giảm nhẹ việc viết bảng hay việc phải thuyết giảng “chay” mà thay vào đó giáo
viên có điều kiện tăng cường trao đổi, đối thoại thảo luận với học sinh, kiểm sốt, thu hút
và kích thích ý thức khám phá tri thức và khả năng sáng tạo của học sinh.
Qua quá trình nghiên cứu và áp dụng thử nghiệm tôi nhận thầy để làm tốt việc ứng
dụng BĐTD vào giảng dạy môn âm nhạc ở trường THCS ta cần chú ý đến một số vấn đề
sau:
+ Một là: Bản đồ tư duy - Tác dụng và nguyên lí sử dụng trong dạy học.
+ Hai là: Ứng dụng BĐTD trong dạy - học môn âm nhạc.
+ Ba là: Quy trình ứng dụng BĐTD trong dạy - học mơn âm nhạc.

+ Bốn là: Các thiết bị, công cụ hỗ trợ dạy - học âm nhạc với BĐTD.
(Các phần mềm hỗ trợ trong ứng dụng BĐTD trong dạy học).
* Bốn vấn đề nêu trên cũng chính là những nội dung nghiên cứu mà đề tài “Ứng
dụng BĐTD trong dạy – học môn âm nhạc ở trường THCS” đề cập đến.
II - Thực trạng việc dạy học âm nhạc ở trường THCS.
Qua tìm hiểu và nghiên cứu về thực trạng việc áp dụng các phương pháp mới trong
dạy học âm nhạc tôi nhận thấy hầu hết các giáo viên âm nhạc trong huyện hiện nay chủ


yếu vẫn áp dụng các phương pháp dạy học cũ (đặc biệt là các nội dung lí thuyết), học
sinh thì tiếp nhận theo kiểu nghe, ghi chép mà có thể không hiểu và quên ngay kiến thức
sau tiết học. Thực trạng này là khá phổ biến (ví dụ: trong cuộc thi Tài trí học trị cấp
huyện có câu hỏi “Các em được nghe một đoạn nhạc và cho biết đó là bài hát nào, do ai
sáng tác?”. Hầu hết các em khơng viết chính xác tên bài hát chứ nói gì đến tác giả trong
khi thực tế thì bài hát đó các em mới được học tuần trước).
* Cấu trúc (minh họa theo phương pháp dạy học cũ)

Có thể nói phương pháp dạy học đó là phương pháp truyền tải và tiếp nhận thông
tin theo kiểu một chiều, không gây được hứng thú và càng khơng phát huy được tính tích
cực của học sinh.
* Quy trình dạy và học (ví dụ minh họa với phân môn Âm nhạc thường thức)
+ Giới thiệu bài.
- Giáo viên giới thiệu bài.
- Học sinh nghe.


+ Chỉ định học sinh đọc
- Giáo viên điều khiển
- Học sinh đọc nội dung trong sách giáo khoa.
+ Nhận xét

- Giáo viên đặt câu hỏi và chỉ định.
- Học sinh tìm ý và trả lời.
+ Ghi nhớ:
- Giáo viên kết luận.
- Học sinh nghe – ghi nhớ - ghi chép.
Tuy rằng theo quy trình dạy và học như trên không phải sai nhưng nếu cứ thực hiện
một cách máy móc như vậy thì sẽ khơng phát huy được tính tích cực của học sinh, tạo
cho các em có thói quen ỷ lại vào sách giáo khoa hay vở ghi, học một cách thụ động cá
biệt có những học sinh cịn khơng hiểu tại sao lại như vậy do đó chỉ một thời gian ngắn
sau, hầu hết các em không thể nhớ được những gì đã học, bên cạnh đó còn gây nhàm
chán, mất hứng thú với các giờ học nhạc đặc biệt là nội dung lí thuyết cả trong giáo viên
và học sinh do đó các nội dung thực hành cũng không sôi nổi, các em không cảm thụ
được cái hay, cái đẹp trong mỗi bài hát, bài TĐN được học và kết quả chung là chất
lượng các giờ học âm nhạc nói riêng và chất lượng bộ mơn nói chung sẽ khơng cao.
Sự thiếu tập chung, nhanh mất hứng thú của học sinh khi học mà tôi nêu ở trên theo
tơi có lẽ phần lớn là tại các bài học cứ theo một quy trình đều đều như nhau, nhàm chán
khô cứng, thiếu sinh động, không linh hoạt và không sáng tạo.
III- Các giải pháp thực hiện (ứng dụng SKKN):
Để giải quyết các vấn đề nêu trên, mỗi giáo viên âm nhạc phải lựa chọn những
phương pháp dạy học phù hợp, có hiệu quả cho từng tiết, từng nội dung học. Với bản
thân tôi, qua kinh nghiệm giảng dạy, qua nghiên cứu các tài liệu thì việc ứng dụng BĐTD


vào dạy học âm nhạc, đặc biệt là với các nội dung lí thuyết là một giải pháp tối ưu. Vậy
BĐTD là gì? tính năng tác dụng của BĐTD và cách sử dụng, ứng dụng BĐTD trong dạy
học âm nhạc là như thế nào chính là giải pháp và cũng là nội dung đề tài này nghiên cứu
để giải quyết vấn đề mà tôi đã nêu.
1- Bản đồ tư duy – Tác dụng và nguyên lí sử dụng trong dạy - học:
1.1- Bản đồ tư duy:
Bản đồ tư duy (BĐTD) là hình thức ghi chép sử dụng màu sắc, hình ảnh để mở

rộng và đào sâu các ý tưởng. BĐTD một cơng cụ tổ chức tư duy nền tảng, có thể miêu tả
nó là một kĩ thuật hình họa với sự kết hợp giữa từ ngữ, hình ảnh, đường nét, màu sắc phù
hợp với cấu trúc, hoạt động và chức năng của bộ não, giúp con người khai thác tiềm năng
vô tận của bộ não.

1.2- Tác dụng của BĐTD trong dạy - học:
Cơ chế hoạt động của BĐTD chú trọng tới hình ảnh, màu sắc, với các mạng lưới
liên tưởng (các nhánh). BĐTD là công cụ đồ họa nối các hình ảnh có liên hệ với nhau vì


vậy có thể vận dụng BĐTD vào hỗ trợ dạy học kiến thức mới, củng cố kiến thức sau mỗi
tiết học, ơn tập hệ thống hóa kiến thức sau mỗi bài, mỗi chương.
a- Tác dụng trong giảng dạy:
Để giảng dạy theo BĐTD, giáo viên có thể chủ động vẽ hình trên bảng rồi cho học
sinh tiếp tục lên phân nhánh sơ đồ hay để học sinh chia thành từng nhóm nhỏ rồi tự vẽ sơ
đồ theo cách hiểu của mình sau đó giáo viên chỉ cần định hướng, kết luận lại từng nội dung
cho học sinh.
Bản đồ tư duy thực chất là một sơ đồ mở không theo một khuôn mẫu hay tỷ lệ nhất
định mà là cách hệ thống kiến thức tạo ra một tiết học sinh động, đầy màu sắc và thực sự
hiệu quả. Giảng dạy theo BĐTD phát huy tính tích cực nhiều nhất trong các giờ ôn tập.
Khi học sinh trở thành chủ thể thành nhân vật trung tâm trong mỗi tiết học, các em sẽ trở
nên hào hứng và hăng say hơn trong học tập.
Với BĐTD, giáo viên thực sự trở thành người hướng dẫn, hỗ trợ học sinh. Trước
đây, giáo viên vẫn thường sử dụng sơ đồ để hệ thống kiến thức cho học sinh nhưng học sinh
vẫn là người tiếp thu một cách thụ động. Với việc giảng dạy bằng BĐTD, nhất là cho học
sinh tự phát huy khả năng sáng tạo của mình bằng cách tự vẽ, tự phân bố và thể hiện nội
dung bài học qua sơ đồ sau đó yêu cầu các bạn khác bổ sung những phần còn thiếu. Kết thúc
bài giảng, thay vì phải ghi chép theo cách truyền thống, học sinh có thể tự “vẽ” bài học theo
cách hiểu của mình với nhiều màu sắc và hình ảnh khác nhau. Đến tiết học sau, chỉ cần nhìn
vào sơ đồ, các em có thể nhớ được những phần trọng tâm của bài học.

VD: Tiết 27 lớp 7.


Giảng dạy theo BĐTD mang tính khả thi cao vì có thể vận dụng được với bất kỳ
điều kiện cơ sở vật chất nào của các nhà trường, có thiết kế trên giấy, bìa, bảng bằng cách
sử dụng bút chì màu, phấn màu hoặc cũng có thể thiết kế trên phần mềm BĐTD (khá phổ
biến hiện nay).
VD:

Việc vận dụng BĐTD trong dạy học sẽ dần hình thành cho học sinh tư duy mạch lạc,
hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, có khả năng nhìn nhận vấn đề một cách hệ thống, khoa
học.
b- Tác dụng trong học tập:
BĐTD giúp HS có được phương pháp học tốt: Việc rèn luyện phương pháp học
tập cho HS không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là mục tiêu


dạy học. Thực tế cho thấy một số HS học rất chăm chỉ nhưng vẫn học kém, các em này
thường học bài nào biết bài đấy, học phần sau đã quên phần trước và không biết liên kết
các kiến thức với nhau, không biết vận dụng kiến thức đã học trước đó vào những phần
sau. Phần lớn số HS này khi đọc sách hoặc nghe giảng trên lớp không biết cách tự ghi
chép để lưu thông tin, lưu kiến thức trọng tâm vào trí nhớ của mình. Sử dụng thành thạo
BĐTD trong dạy học HS sẽ có được phương pháp học tốt, tăng tính độc lập, chủ động,
sáng tạo và phát triển tư duy.
BĐTD giúp HS học tập một cách tích cực: Một số kết quả nghiên cứu cho thấy bộ
não của con người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu và in đậm cái mà do chính mình tự suy nghĩ, tự
viết, vẽ ra theo ngơn ngữ của mình vì vậy việc sử dụng BĐTD giúp HS học tập một cách
tích cực, huy động tối đa tiềm năng của bộ não.
Việc học sinh tự vẽ BĐTD có ưu điểm là phát huy tối đa tính sáng tạo của các em,
phát triển năng khiếu hội họa, sở thích của học sinh, các em tự do chọn màu sắc (xanh,

đỏ, vàng, tím,…), đường nét (đậm, nhạt, thẳng, cong…), các em tự “sáng tác” nên trên
mỗi BĐTD thể hiện rõ cách hiểu, cách trình bày kiến thức của từng HS và BĐTD do các
em tự thiết kế nên các em yêu quí, trân trọng “tác phẩm” của mình.
BĐTD giúp HS ghi chép có hiệu quả: Do đặc điểm của BĐTD nên người thiết kế
BĐTD phải chọn lọc thông tin, từ ngữ, sắp xếp, bố cục để “ghi” thơng tin cần thiết nhất
và lơgic, vì vậy, sử dụng BĐTD sẽ giúp HS dần dần hình thành cách ghi chép có hiệu
quả.
VD:


* Như vậy, thay vì phải học thuộc lịng các khái niệm, định nghĩa hay cả bài giảng
đọc - chép như lúc trước, giờ đây học sinh có thể hiểu và nắm được khái niệm qua hình
vẽ. Chính sự liên tưởng theo hướng dẫn của giáo viên cũng giúp các em nhớ được phần
trọng tâm của bài giảng. Cách học này còn phát triển được năng lực riêng của từng học
sinh. Việc vẽ, viết gì trên BĐTD, hệ thống hóa kiến thức chọn lọc những phần nào trong
bài để ghi, thể hiện dưới hình thức kết hợp hình vẽ, chữ viết, màu sắc, sẽ tăng khả năng
vận dụng kiến thức được học qua sách vở vào cuộc sống.
1.3- Nguyên lí sử dụng BĐTD trong dạy – học
Bản đồ tư duy là một rạng sơ đồ mở vì vây khi sử dụng hay thiết kế, người dùng có
thể mặc sức sáng tạo tuy nhiên với không khổ đề tài tôi xin đưa ra một số quy trình thiết
lập như sao trong quá trình dạy – học.
a- Cách điển hình (thường dùng):
Bước 1: Viết hay vẽ nội dung đề tài của bài học lên bảng (hoặc giữa trang giấy và
vẽ một vòng bao bọc nó). Việc sử dụng màu sẽ nâng cao chất lượng và vận tốc ghi nhớ.
Nếu viết chữ thì hãy cơ đọng nó thành một từ khóa chính.
Bước 2: Đối với mỗi ý quan trọng, vẽ một đường nhánh (cấp 1) (hay một đường có
mũi tên ở đầu tùy theo quan hệ từ đối tượng trung tâm đối với ý phụ bên ngồi) đường
phân nhánh xuất phát từ hình trung tâm và nối với một ý phụ.



Bước 3: Từ mỗi ý quan trọng, lại vẽ các phân nhánh (cấp 2) và các ý phụ bổ sung
cho ý đó.
Bước 4: Từ các ý phụ này lại, mở ra các phân nhánh (cấp 3 …) chi tiết cho mỗi ý.
Bước 5: Tiếp tục vẽ hình phân nhánh các ý (cấp n) cho đến khi đạt được giản đồ
chi tiết nhất (hình rễ cây mà gốc chính là nội dung đề tài đang dạy và học).
VD:

b- Dùng bản đồ tư duy với nhóm học tập:
Một nhóm có thể làm việc chung và lập nên 1 BĐTD với các bước sau:
Bước 1: Mỗi cá nhân vẽ các giản đồ ý về những gì đã biết được về nội dung, chủ
đề học tập.
Bước 2: Kết hợp các cá nhân để thành lập một giản đồ ý chung về các nội dung,
chủ đề đã biết.
Bước 3: Quyết định xem nên chọn lọc và học tập những gì dựa vào cái giản đồ này
của nhóm.


Bước 4: Mỗi thành viên tự tìm hiểu thêm về chủ đề, nội dung. Tùy theo yêu cầu mà
tất cả chú tâm vào cùng một lĩnh vực để đào sâu thêm hay chia ra mỗi người một lĩnh vực
để đẩy nhanh hơn q trình làm việc. Mỗi người tự hồn tất trở lại giản đồ ý của mình.
Bước 5: Kết hợp lần nữa và góp ý chéo gữa các thành viên trong nhóm để tạo
thành BĐTD hồn chỉnh của cả nhóm.
VD:

c- Khả năng diễn thuyết (trình bầy nội dung của BĐTD):
Dùng BĐTD bao gồm toàn bộ các ghi chép sẽ có nhiều tiện lợi so với các kiểu ghi
chép khác khi diễn thuyết là vì:
- Súc tích: Chỉ cần 1 trang giấy duy nhất đã có đầy đủ thơng tin cần diễn thuyết.
- Người diễn thuyết không phải "đọc lại". Mỗi ý kiến đã dược thu gọn trong một từ
khóa hay hình, ta sẽ khơng phải đọc theo những gì đã soạn thành bài văn soạn sẵn mà chỉ

cần triển khai theo BĐTD và tự do diễn thuết theo khả năng và sự hiểu biết của mình về
nội dung.
- Linh Hoạt: Nếu như có người đặt câu hỏi ta có thể tìm ngay ra vị trí liên hệ của
câu hỏi với BĐTD. Như vậy, người diễn thuyết sẽ không bị “lạc” khi tìm cho ra chỗ mà
câu trả lời cần đến.
VD:


d- Những lưu ý khi tiến hành thiết lập BĐTD trong dạy – học:
- Sử dụng hình ảnh minh hoạ nếu có thể thay cho chữ viết cho mỗi ý. Các kí hiệu
hay biểu tượng qua hình vẽ sẽ giúp BĐTD sống động hơn, dễ nhơ hơn VD:
+ Dùng các loại hình mũi tên khác nhau để chỉ ra chiều hướng để phân biệt các ý và
kiểu liên hệ giữa các ý tốt hơn.
+ Sử dụng các kí tự đặc bit nh ! ? {} & * | â đ " $ ' @ trong BĐTD sẽ tăng chất
lượng cô đọng của các ý.
+ Dùng nhiều hình vẽ kiểu "logo" để hình tượng hóa các ý và giúp biểu thị các kiểu
lời giải rõ ràng, rễ nhớ và sinh động.
+ Biểu thị các đặc tính kĩ thuật bằng các hình biểu tượng (Ví dụ khi muốn dùng
phương pháp hóa học thì ta vẽ 1 cái ống nghiệm, phương pháp cơ khí thì dùng hình búa
kềm, sinh học thì vẽ cây, Âm nhạc thì dùng hình khố son, nốt nhạc hay các loại nhạc
cụ...)
- Mỗi ý, nếu khơng thể dùng hình phải rút xuống tối đa thành một từ khóa ngắn
gọn. Khi học sinh sử dụng những từ khóa riêng lẻ, mỗi từ khóa đều khơng bị ràng buộc,
do đó nó có khả năng khơi dậy các ý tưởng mới, các suy nghĩ mới. Nếu trên mỗi nhánh
học sinh viết đầy đủ cả câu thì như vậy học sinh sẽ dập tắt khả năng gợi mở và liên tưởng
của bộ não. Não của học sinh sẽ mất hết hứng thú khi tiếp nhận một thơng tin hồn chỉnh.
Vì vậy, trên mỗi nhánh học sinh chỉ viết một, hai từ khóa mà thơi. Khi đó, học sinh sẽ


viết rất nhanh và khi đọc lại, não của học sinh sẽ được kích thích làm việc để nối kết

thơng tin và nhờ vậy, thúc đẩy năng lực gợi nhớ và dần dần nâng cao khả năng ghi nhớ
của học sinh.
- Tư tưởng nên được để tự do tối đa. Ta có thể nảy sinh ý tưởng nhanh hơn là khi
viết ra.
- Màu sắc cũng có tác dụng kích thích bộ não như hình ảnh. Tuy nhiên, học sinh
cũng khơng cần phải sử dụng quá nhiều màu sắc. Học sinh có thể chỉ cần dùng một hai
màu nếu thích và muốn tiết kiệm thời gian. Nếu học sinh thấy mất quá nhiều thời gian để
tô đậm màu trong một nhánh, thì học sinh có thể gạch chéo, đánh dấu cộng, hay chấm bi
trong đó – rất mới mẻ và tốn ít thời gian.
- Vẽ nhiều nhánh cong hơn là đường thẳng để tránh sự buồn tẻ, tạo sự mềm mại,
cuốn hút.
2- Ứng dụng bản đồ tư duy trong dạy - học môn âm nhạc:
2.1- Ứng dụng BĐTD trong các hoạt động dạy – học âm nhạc:
Bản đố tư duy là một cơng cụ hữu ích trong giảng dạy và học tập ở trường phổ
thông, cơ chế hoạt động của BĐTD chú trọng tới hình ảnh, màu sắc, với các mạng lưới
liên tưởng (các nhánh). BĐTD là công cụ đồ họa nối các hình ảnh có liên hệ với nhau,
chúng giúp giáo viên và học sinh trong việc trình bày các ý tưởng một cách rõ ràng, suy
nghĩ sáng tạo, học tập thơng qua biểu đồ, tóm tắt thơng tin của một bài học hay một cuốn
sách, bài báo, nó cũng có thể hệ thống lại kiến thức đã học, tăng cường khả năng ghi nhớ,
và đưa ra ý tưởng mới, v.v… vì vậy ta có thể vận dụng BĐTD vào hỗ trợ dạy - học đặc
biệt là với môn âm nhạc ở các kiểu bài (các hoạt đọng dạy - học) như: kiểm tra bài cũ,
học kiến thức mới, củng cố kiến thức sau mỗi tiết học hay ôn tập hệ thống hóa kiến thức
sau một hay nhiều bài học.
a- Ứng dụng với hoạt động kiểm tra bài cũ:


Giáo viên gọi học sinh lên bảng thuyết trình BĐTD của bài học cũ (có thể là bài tập
về nhà) trước lớp. Giáo viên và các bạn khác có thể đặt thêm câu hỏi để học sinh trả lời.
Bắt buộc 100% hoc sinh phải có BĐTD bài học cũ. Các BĐTD (là bài tập của học sinh)
được học sinh lưu trong vở ghi, bìa giấy hoặc một túi hồ sơ để sử dụng khi ôn tập và khi

giáo viên kiểm tra. Học sinh cũng có thể có một tập nháp vẽ sơ đồ tư duy ngay tại lớp
trong giờ học. Về nhà học sinh sẽ tự chỉnh sửa sơ đồ tư duy bằng hình vẽ bằng tay (trên
vở) hoặc bằng phần mềm vẽ sơ đồ tư duy và lưu trên máy tính cá nhân để ơn tập trước
các bài kiểm tra (nếu có).

b- Ứng dụng với hoạt động dạy bài mới:
Giáo viên giới thiệu bài mới và vẽ chủ đề chính của bài học lên bảng bằng một
hình vẽ bất kì trên bảng của lớp mà khơng ghi bài theo kiểu cũ. Giáo viên có thể cho học
sinh ngồi theo nhóm thảo luận và trả lời hay thiết lập từng nhánh (từ cấp 1 đến cập n...)
cho BĐTD theo các câu hỏi, sự gợi ý của giáo viên. Như vậy thay vì giáo viên phải trình
bầy bảng theo kiểu cũ thì với BĐTD cả giáo viên và học sinh đều được trình bầy bảng
một cách logic những kiến thức cần học.
VD: Tiết 27 lớp 8:


c- Ứng dụng với hoạt động củng cố bài:
Với đặc thù bộ mơn, trong một tiết học có thể có nhiều nội dung, nhiều kiểu bài mà
không liền mạch (VD: lí thuyết – thực hành – lí thuyết) nên dùng BĐTD để dạy – học nội
dung bài mới có thể tạo ra sự vụn vặt về hình thức trình bầy là mất thẩm mĩ, không gây
được hứng thú do vậy ta có thể dành BĐTD cho việc củng cố kiến thức.
Để thực hiện kiểu bài này, giáo viên và học sinh chỉ cần dạy - học theo phương
pháp truyền thống ( nhưng khơng nên ghi chép q nhiều) sau đó đến phần củng cố ta
dùng BĐTD để hệ thống tất cả kiến thức trong tiết học theo hình thức thảo luận cả lớp,
thảo luận nhóm hay cá nhân thực hiện và lớp nhận xét... VD: Giáo viên viết ý trung tâm
(tên bài học) lên bảng, gợi ý, chia lớp thành các nhóm, giao cho mỗi nhóm thảo luận một
nội dung và thiết lập BĐTD (từ nhánh cấp 1) sau đó lên bảng trình bầy tiếp vào ý trung
tâm. Các nhóm cịn lại lần lượt nhận xét chéo và hồn thiện BĐTD.
VD: Tiết 27 lớp 7:



d- Ứng dụng với kiểu bài ôn tập:
Tương tự như kiểu bài củng cố, khi áp dụng BĐTD trong ôn tập, giáo viên chỉ cần
nêu tất cả hay từng vấn đề, nội dung cần ơn tập sau đó u cầu học sinh thự hiện theo
hình thức thảo luận cả lớp, thảo luận nhóm hay cá nhân thực hiện và lớp nhận xét.
VD: Tiết ơn tập học kì II


×