Tải bản đầy đủ (.pdf) (68 trang)

Sự thay đổi của xã hội, kinh tế đến chính trị của Nhật Bản từ sau cải cách Minh Trị đến kết thúc chiến tranh Thế giới thứ hai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (809.19 KB, 68 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN
<b>KHOA TRIẾT HỌC </b>


------


<b>LÊ THỊ THÊU </b>


<b>SỰ THAY ĐỔI CỦA XÃ HỘI, KINH TẾ </b>


<b>ĐẾN CHÍNH TRỊ CỦA NHẬT BẢN TỪ SAU </b>



<b>CẢI CÁCH MINH TRỊ ĐẾN KẾT THÚC </b>


<b>CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI </b>



<b>KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC </b>
<b>NGÀNH TRIẾT HỌC </b>


Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2015-X


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN, ĐHQGHN
<b>KHOA TRIẾT HỌC </b>


------


<b>LÊ THỊ THÊU </b>


<b>SỰ THAY ĐỔI CỦA XÃ HỘI, KINH TẾ </b>


<b>ĐẾN CHÍNH TRỊ CỦA NHẬT BẢN TỪ SAU </b>



<b>CẢI CÁCH MINH TRỊ ĐẾN KẾT THÚC </b>


<b>CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI </b>




<b>KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC </b>
<b>NGÀNH TRIẾT HỌC </b>


Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2015-X


<b>Giảng viên hướng dẫn: GS.TS Trần Thị Hạnh </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<b>LỜI CẢM ƠN </b>


Hồn thành khóa ḷn tốt nghiệp này, trước hết em xin chân thành cảm
ơn sự dạy dỗ nhiệt tình của các thầy cơ giáo trong khoa Triết học, trường Đại
học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội trong suốt thời
gian em học tập tại khoa, tại trường.


Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất tới PGS.TS Trần Thị
Hạnh đã giúp đỡ và hướng dẫn em rất tận tình trong q trình thực hiện và
hồn thiện khóa luận tốt nghiệp này.


Mặc dù đã rất cố gắng, nhưng chắc chắn khóa ḷn sẽ khơng tránh khỏi
những hạn chế và thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được sự đóng góp ý
kiến của các thầy, các cơ, cùng tồn thể các bạn để khóa ḷn này được hồn
thiện hơn.


Hà Nội, ngày 4 tháng 6 năm 2019
Sinh viên


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

1
<b>MỤC LỤC </b>



<b>MỞ ĐẦU ... 3 </b>


1. Lý do chọn đề tài ... 3


2. Tình hình nghiên cứu ... 3


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ... 6


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ... 6


5. Cơ sở lý luận và Phương pháp nghiên cứu ... 6


6. Ý nghĩa nghiên cứu ... 7


<b>NỘI DUNG ... 8 </b>


<b>CHƯƠNG 1: SỰ THAY ĐỔI CỦA KINH TẾ -CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI </b>
<b>NHẬT BẢN TỪ SAU CÁI CÁCH MINH TRỊ ĐẾN HỘI NGHỊ </b>
<b>WASHINGTON (1921-1922) ... 8 </b>


1.1.Sự thay đổi kinh tế -chính trị - xã hội sau cải cách Minh Trị 1868
... 8


1.1.1. Cải cách chính trị, kinh tế, xã hội ... 8


1.1.2. Cải cách về giáo dục, văn hóa ... 13


1.1.3. Cải cách về ngoại giao ... 21



1.2. Sự thay đổi đường lối ngoại giao của Nhật Bản từ chiến tranh Thế giới
thứ nhất đến Hội nghị Washington (1921-1922) ... 23


1.2.1. Về kinh tế - chính trị - xã hội ... 23


1.2.2. Hội nghị Wasington 1921-1922 ... 30


<b>CHƯƠNG 2: NỘI DUNG TƯ TƯỞNG ĐỐI NGOẠI CỦA NHẬT BẢN </b>
<b>TỪ SAU HỘI NGHỊ WASHINGTON ĐẾN KẾT THÚC CHIẾN </b>
<b>TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI ... 33 </b>


2.1. Kijūrō Shidehara và tư tưởng ngoại giao theo hướng “hợp tác phát triển
kinh tế” ... 33


2.1.1. Kijūrō Shidehara幣原喜重郎 ... 33


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

2


2.2. Tư tưởng của phe quân phiệt về tăng cường phát triển quân sự ... 46


2.2.1. Nguyên nhân xuất hiện tư tưởng chủ nghĩa quân phiệt ... 46


2.2.2.Sự thay đổi của Nhật Bản trước sự lớn mạnh của chủ nghĩa quân phiệt
... 51


2.2.3.Sự thay đổi của xã hội Nhật Bản sau chiến tranh Thế giới thứ hai
... 56


Tiểu kết ... 59



<b>KẾT LUẬN ... 60 </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

3
<b>MỞ ĐẦU </b>
<b>1.</b> <b>Lý do chọn đề tài </b>


Hiện nay, trong các quốc gia thuộc khu vực châu Á thì Nhật Bản là một
trong những con rồng châu Á với tốc độ phát triển kinh tế nhanh chóng. Nhật
Bản là một đất nước với lãnh thổ được bao quanh bởi biển và nguồn tài
nguyên thiên nhiên thấp, hàng năm phải chịu nhiều thiên tai như động đất,
sóng thần nhưng vẫn vươn lên là một cường quốc. Trong lịch sử phát triển
của Nhật Bản, chúng ta thấy đường lối lãnh đạo sáng suốt của những nhà cầm
quyền Nhật Bản. Trong đó đáng nói đến nhất là công cuộc “Cải cách Minh
Trị”. Trong khi các nước phương Đông đang phải đứng trước mối nguy hại bị
xâm lược từ phương Tây, vì chính sách “Bế quan tỏa cảng” mà các quốc gia
đã thực hiện, Nhật Bản đã nhanh chóng đưa ra con đường mới cho đất nước
mình bằng cách tiến hành ký các Hiệp ước với phương Tây và tiến hành chính
sách cải cách thay đổi đất nước.


Sau khi thực hiện cơng cuộc cải cách thì Nhật đã vươn lên, ngăn chặn
sự xâm lược từ bên ngồi và cịn trở thành đất nước qn phiệt trong thế chiến
thứ hai. Trong quá trình phát triển để đưa Nhật Bản đi lên từ một nước phong
kiến trở thành một đế quốc quân phiệt thì những quyết định, chính sách của
Chính phủ liên tục thay đổi cho phù hợp với hoàn cảnh đất nước.


Những nhân tố nào đã khiến cho tình hình của Nhật Bản có những thay
đổi như thế? Liệu rằng nếu sự thay đổi này diễn ra chỉ do một phía từ các nhà
lãnh đạo thì có đẫn đên thành công như vậy? Hay cần phải có sự hiệp sức
đồng lịng của tồn bộ nhân dân nước Nhật?



Vì những lý dó trên, tơi chọn đề tài “<i>Sự thay đổi của xã hội, kinh tế đến </i>
<i>chính trị của Nhật Bản từ sau cải cách Minh Trị đến kết thúc chiến tranh Thế </i>


<i>giới thứ hai</i>” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.


<b>2.</b> <b>Tình hình nghiên cứu </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

4


Minh Trị đến kết thúc chiến tranh Thế giới thứ hai, có thể khái quát được một
số nghiên cứu chủ yếu sau:


<i>Thứ nhất là nhóm nghiên cứu về tình hình kinh tế - xã hội Nhật Bản nói </i>
<i>chung </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

5


tác giả đưa ra chủ yếu là việc kể lại những mốc lịch sử một cách nối tiếp nhau
chứ chwua có sự liên hệ giữa nguyên nhân xã hội đến tư tưởng ngoại giao của
Nhật Bnar thười điểm đó.


Ngồi ra, cơng trình nghiên cứu của tác giả Võ Minh Vũ (2005), <i>Cải </i>


<i>cách địa tô ở Nhật Bản thời Minh Trị</i>, trong Luận văn Thạc sĩ năm 2005 của


mình tại Bộ mơn Nhật Bản thì tác giả lại chú trọng hơn đến vấn đề về cải cách
địa tô, phân chia ruộng đất. Nhưng cơng trình chú trọng đến các số liệu mà
chưa nêu ra được nguyên nhân sâu xa của cải cách ruộng đất đối với sự thay
dổi của xã hội Nhật Bnar tại thời điểm đó. Khi xã hội còn đang phụ thuộc
nhiều vào nơng nghiệp thì chính sách về đất đai ảnh hưởng rất nhiều đến cơ


cấu xã hội. Thời kỳ Mạc phủ thì ruộng đất thuộc về giai cấp lãnh chúa, người
nông dân phải trực tiếp canh tác trên mảnh đát đó và nộp tơ thuế lại cho địa
chủ, nhưng sau cải cách thì việc nộp tô thuế lại phải do người chủ sở hữu của
mảnh đất đó phải nộp, những người nơng dân có một chút vốn có thể tự tiến
hành trao đổi mua bán ruộng đất với nhau. Điều này giúp cho nơng dân có thể
n tâm và chú trọng hơn vào sản xuất và hưởng được thành phẩm thu được
trên mảnh đất của mình.


<i>Thứ hai, nhóm các cơng trình nghiên cứu về tư tưởng ngoại giao của </i>
<i>Nhật Bản </i>


Trong các cơng trình này thì tiêu biểu nhất là tác phẩm <i>Ngoại giao </i>


<i>Nhật Bản</i> của tác giả Ire Akira được Nxb Tri thức xuất bản năm 2013 tại Hà


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

6


kinh tế mà Shidehara đã đươc ra được Ire Akira nhận xét và đánh giá cao.
Nhưng thiếu xót của cơng trình này là ơng đã khơng chú trọng đến mối quan
hệ rành buộc tác động lẫn nhau của hai đường lối ngoại giao tại thời điểm đó
là ngoại giao của phe quân phiệt và ngoại giao của phe hịa bình.


<b>3.</b> <b>Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu </b>


<i>Mục đích nghiên cứu: </i>Phân tích, làm rõ sự thay đổi của tình hình kinh


tế - xã hội đến việc thay đổi các tư tưởng ngoại giao của chính phủ Nhật Bản
từ sau cải cách Minh Trị đến Chiến tranh thế giới lần thứ II


<i>Nhiệm vụ nghiên cứu:</i>



Thứ nhất: Phân tích sự thay đổi trong cơ cấu kinh tế-xã hội và văn
hóa-tư hóa-tưởng của Nhật Bản sau cải cách Minh Trị


Thứ hai: Phân tích nội dung tư tưởng ngoại giao mềm mỏng của Nhật
Bản sau Hội nghị Washington


Thứ ba: Phân tích nội dung tư tưởng quân phiệt phát triển mạnh mẽ và
sụp đổ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai.


<b>4.</b> <b>Đối tượng và phạm vi nghiên cứu </b>


<i>Đối tượng nghiên cứu: </i>Sự thay đổi về cơ cấu xã hội dẫn đến sự thay


đổi về đường lối lãnh đạo của Chính phủ Nhật Bản từ năm 1868 đến năm
1945.


<i>Phạm vi nghiên cứu:</i> Các cuốn sách, bài báo, bài giảng chuyên đề về


lịch sử Nhật Bản từ cải cách Minh Trị đến năm 1945.
<b>5.</b> <b>Cơ sở lý luận và Phương pháp nghiên cứu </b>


Cơ sở lý luận: Khóa luận được thực hiện thông qua vận dụng những
nguyên lý cơ bản của triết học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào giải
quyết vấn đề lý luận và thực tiễn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

7


Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng,
tồn tại xã hội và ý thức xã hội thể hiện cụ thể trong sự hình thành và phát triển


của tư tưởng ngoại giao của Nhật Bản cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.


Nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn được quán triệt xuyên
suốt khi triển khai khóa luận.


Phương pháp: Khóa luận sử dụng một số phương pháp cụ thể của
ngành lịch sử, ngành Châu Á học và ngành triết học.


<b>6.</b> <b>Ý nghĩa nghiên cứu </b>


Nhằm làm rõ hơn về tác động của bối cảnh xã hội và thế giới đến tư
tưởng “Mở rộng sức ảnh hưởng của Nhật Bản trên thế giới” của Chính phủ và
người dân Nhật Bản.


<b>7.</b> <b>Bố cục </b>


Ngồi phần mở đầu, kết ḷn, khóa luận chia làm 2 chương, 4 tiết:
Chương 1: Sự thay đổi của kinh tế-chính trị-xã hội từ sau cải cách Minh
Trị đến Hội nghị Washington (1921-1922)


1.1. Sự thay đổi kinh tế -chính trị - xã hội sau cải cách Minh Trị
1868


1.2. Sự thay đổi đường lối ngoại giao của Nhật Bản từ chiến tranh
Thế giới thứ nhất đến Hội nghị Washington (1921-1922)


Chương 2: Nội dung tư tưởng đối ngoại của Nhật Bản từ sau Hội nghị
Washington đến kết thúc chiến tranh thế giới thứ hai.


2.1. Kijūrō Shidehara và tư tưởng ngoại giao theo hướng “hợp tác


phát triển kinh tế”


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

8
<b>NỘI DUNG </b>


<b>CHƯƠNG 1: SỰ THAY ĐỔI CỦA KINH TẾ -CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI </b>
<b>NHẬT BẢN TỪ SAU CÁI CÁCH MINH TRỊ ĐẾN HỘI NGHỊ </b>


<b>WASHINGTON (1921-1922) </b>


<b>1.1.</b> <b>Sự thay đổi kinh tế -chính trị - xã hội sau cải cách Minh Trị 1868 </b>
<b>1.1.1.</b> <b>Cải cách chính trị, kinh tế, xã hội </b>


Cuối thời kỳ Edo, cũng như các nước khác của phương Đơng thì chế độ
phong kiến ngày càng khơng còn phù hợp vưới xã hội và ngày một đi xuống.
Trong tình hình đó, các quốc gia phương Đơng còn phải đối mặt với nguy cơ
bị các cường quốc phương Tây xâm lược và biến thành thuộc địa. Từ chính sự
thay đổi của tình hình thế giới và tình hình nội bộ Nhật Bản, đồng thời để
tránh nguy cơ trở thành một nước nô lệ, Nhật Bản đã đưa ra quyết định “mở
cửa” với các nước phương Tây sau khi kế hoạch “Bế quan tỏa cảng thất bại”.
Chính trị Nhật Bản chuyển từ chế độ phong kiến sang chế độ quân chủ lập
hiến, quyền lực chuyển từ tay dòng họ Tokugawa sang Thiên hoàng. Đây
được coi là bước chuyển quan trọng làm thay đổi hoàn toàn Nhật Bản trong
giai đoạn cuối thế kỷ XIX.


Việc đầu tiên sau khi chính quyền của Thiên hồng tiếp nhận đất nước
đã tiến hành sự kiện <i>Vương chính phục cổ</i> (Osei fukko): ngày 3 tháng 1 năm
1868, Tướng quan Tokugawa Yoshinobu chính thức bị tước đất đai, chức vụ
để trao lại cho Thiên hoàng. Ngày 11 tháng 4 năm 1868, Mạc phủ đã ra lệnh
mở cửa thành Edo để đầu hàng quân đội triều đình. Sự kiện này đã dánh dấu


mốc cho việc kết thúc chế độ nắm quyền của dòng họ Tokugawa dựng lên từ
đầu thế kỷ XVII.


Chính quyền mới đặt ra mục tiêu cho đất nước là <i>Phú quốc cường binh</i>


(Fukoku Kyohei) với đường lối chiến lược là: <i>độc lập quốc gia và phấn đấu </i>


<i>từng bước tiến lên bình đẳng với các nước phương Tây. </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

9


kinh tế. Tư tưởng đó đã được thể hiện trong <i>Năm lời thề</i> (Gokazo no
goseimon: ngũ điều ngự thệ văn) được công bố trong ngày 14 tháng 3 năm
1868 gồm:


1. Hội nghị phải được mở rộng và những vấn đề quốc gia phải do
công luận quyết định.


2. Trên dưới một lịng ra sức chăm lo cho cơng việc đại sự quốc gia.
3. Từ bách quan văn võ đến thường dân, mọi người phải được tự do


theo đuổi chí nguyện của mình để trong nước khơng còn sự bất
mãn.


4. Phải từ bỏ những tập quán xấu và mọi việc phải dựa và công đạo
(công pháp quốc tế).


5. Phải tiếp thu kiến thức từ khắp nơi trên thế giới để chấn hưng đất
nước[8, tr.249].



<i>a.</i> <i>Những cải cách về chính trị - xã hội </i>


Sau khi Thiên hồng nắm giữ quyền hành thì việc đầu tiên trong việc
thay đổi cơ cấu xã hội đó là việc xóa bỏ mâu thuẫn giữa các giai cấp và sự
cách biệt giữa các tầng lớp trong xã hội. Năm 1869, hình thành 4 tầng lớp mới
cho xã hội đó là: Hoa tộc (Kazoku gồm các Daimyo và các quý tộc cao cấp),
Sĩ tộc (shizoku gồm các võ sĩ của các Daimyo và các Bakufu), Tốt tộc
(Sostuzoku gồm các giai cấp cơng, nơng, thương), Bình dân (Heimin gồm các
võ sĩ cấp dưới sau khi Mạc phủ sụp đổ khơng có cơng việc cụ thể). Trong q
trình bình đẳng tứ dân thì tầng lớp Sĩ tộc phải hy sinh nhiều nhất. Khi các võ
sĩ bị tước bỏ quyền đeo kiếm thì họ cịn bị dẫn cắt bỏ lương bổng để phát triển
kinh tế đất nước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

10


<i>Sơ đồ cơ cấu tổ chức chính quyền Trung ương </i>


Mơ hình nhà nước Thái chính quan về cơ bản tồn tại đến khi chế độ nội
các được ấp dụng từ tháng 12 năm 1885. Tuy vậy trong q trình hoạt động
vẫn có sự thay đổi như vào tháng 7 năm 1869 thì chính phủ lại được chia
thành 2 quan 6 bộ trong đó Thần chỉ quan tách ra nằm độc lập chỉ phụ trách
các vấn đề về tơn giáo cịn Thái chính quan trực tiếp quản lý các cơ quan còn
lại.


Tháng 7 năm 1868, các <i>han</i> bị phế bỏ và thay đổi cơ cấu thành chế độ 3
phủ và 302 huyện. Đến tháng 11 năm 1868 hợp nhất thành 3 phủ và 72 huyện.
Đến ngày 14 tháng 7 năm 1871, chính phủ đã cơng bố chiếu thư “Phế phiên
trí huyện”. năm 1888 được cấu tạo thành 1 đạo, 3 phủ và 43 huyện và cơ cấu
tổ chức này được áp dụng cho đến tận ngày nay.



Về quân đội, chính phủ thành lập 2 bộ: Bộ lục quân và Bộ hải quân
thay thế cho Bộ binh. Trong đó, hải quân được tổ chức theo mơ hình hải qn
của Anh cịn lục qn được tổ chức theo mơ hình của Phổ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

11


đất và người phải nộp thuế là người chủ của mảnh đất chứ không phải là
người lao động làm thuê trên mảnh đất đó.


<i>b.</i> <i>Những cải cách về kinh tế </i>


Chính quyền tiến hành cải cách kinh tế theo cách xóa bỏ chế độ mang
tính chất phong kiến và thiết lập một nền kinh tế hiện đại, khuyến khích mọi
người phát triển kinh tế phát triển đất nước và lấy kinh tế để đầu tư cho quân
đội, xây dựng nền quân sự lớn mạnh.


Chính phủ đề ra các chính sách phát triển kinh tế “Minh Trị sơ kỳ”, lấy
xuất phát điểm từ một nước công nghiệp với 72,6% là nông dân. Mục tiêu
được đề ra là: phát triển cơng nghiệp hiện đại hóa; mở rộng sản xuất nông
nghiệp, giảm mức thuế từ 3% xuống 2,5% giá đất [44, tr.235].


Những biện pháp cụ thể được đề ra: du nhập chuyển giao kỹ thuật sản
xuất hiện đại, thuê chuyên gia nước ngoài trong thời kỳ đầu nhưng đến cuối
thời Minh Trị thì các chuyên gia được thay đổi dần bằng chuyên gia người
Nhật Bản; cử người đi đào tạo ở nước ngoài; mở các trường trung cấp nghề để
đào tạo lực lượng lao động; hợp tác kỹ tḥt, chuyển giao cơng nghệ.


Năm 1870, chính phủ tiến hành thành lập bộ Công nghiệp, năm 1874
bộ Nội vụ và bộ Tài chính được thành lập. Đồng thời, chính phủ tiến hành
nhượng lại một số công ty quốc doanh cho những nhà tư bản lớn quản lý nếu


có khả năng hay chuyển nhượng cho các cơng ty độc quyền có thế lực lớn
như Mitsui, Mitsubishi. Ngoài ra, nhà nước sẽ quản lý các công xưởng quân
sự và các mỏ khai khoáng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

12


chiến thắng trong cuộc chiến tranh Tây Nam. Đến năm 1893, Nhật Bản đã có
hơn 2.000 dặm đường xe lửa, 100.000 tấn trọng tải tàu biển chạy bằng hơi
nước.


Hệ thống điện tín, điện thoại và bưu chính được đầu tư xây dựng và
đưa vào hoạt động rộng rãi. Hệ thống tài cính tiền tệ được cải cách, áp dụng
chế độ “Bản vị vàng” để cố định tỷ giá Yên là 1 Đôla Mỹ bằng 2 Yên Nhật.
Việc áp dụng cố định tỷ giá Yên để tạo điều kiện cho việc xuất khẩu.


Từ đây, nền kinh tế Nhật Bản dần phát triển từ một nước nhập khẩu
chuyển dần sang xuất khẩu các mặt hàng như dệt, đóng tàu (xuất khẩu sang
Trung Quốc).


Với các chính sách phát triển kinh tế được chính quyền Minh Trị đề ra,
mặc dù chưa thể hoàn thành đầy đủ và hoàn thiện so với mục tiêu nhưng kinh
tế của Nhật Bản cũng có sự phát triển mạnh mẽ. Đến giữa thời kỳ Minh Trị
thì nền kinh tế Nhật Bản đã thấy rõ sự phát triển mạnh mẽ, vượt xa các nước
phương Đông thời bấy giờ và thoát khỏi nguy cơ bị xâm lược từ các nước
phương Tây. Hơn nữa, cùng với những điều kiện mà Nhật Bản đã đạt được thì
chính quyền Minh Trị đã giành lại quyền sửa đổi ở các bản hiệp ước trước đó
với phương Tây, bình đẳng hơn với các nước phương Tây khơng cần lệ thuộc
và giành lợi ích về cho đất nước.


Việc xóa bỏ bất bình đẳng giữa các giai cấp tầng lớp trong xã hội và


mọi người được phép tự do lựa chọn nghề nghiệp đã giải phóng một lực
lượng lớn các võ sỹ để tham gia vào quá trình lao động kiến thiết đất nước.


Những người nơng dân trẻ có thể từ bỏ việc làm ruộng để lên thành phố
học nghề và tham gia vào các công việc công nghiệp, làm công nhân.


Nhờ vào cải cách địa tô, Nhật Bản vẫn chú trọng phát triển nông nghiệp
nhưng phát triển theo cách mới, nguồn lực về nơng nghiệp vẫn đóng vai trị
quan trọng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

13


các ngành công nghiệp nặng: cơ khí sản xuất máy móc, đóng tàu, cơ điện, hóa
chất,… hàng hóa của cơng nghiệp trước hết phục vụ cho đất nước nhưng sau
này đã có sự dư thừa và xuất khẩu ra nước ngoài. Từ năm 1899 đến năm
1903, Nhật Bản là nước xuất khẩu tơ sống nhiều nhất thế giới, đạt mức 15
triệu pound (tương đương 6.806 tấn) mỗi năm [6, tr.109].


<i>Bảng chỉ số sản xuất công nghiệp từ năm 1880 đến năm 1925 </i>


Năm Tính


chung Dệt


Máy móc và


cơng cụ Hóa chất


Hơi đốt



và điện Kim loại


1880 1,51 1,10 2,38 _ 0,21 1,30


1885 1,51 1,60 2,36 _ 0,19 0,79


1890 3,74 5,85 4,67 1,24 0,34 1,29


1900 11,30 20,40 12,53 7,72 1,81 1,34


1905 21,79 27,75 27,78 17,03 4,10 15,22


1910 31,88 36,95 32,46 26,81 14,52 31,48


1915 48,64 57,90 39,93 18,34 38,18 59,55


1920 80,52 77,58 91,33 76,87 68,86 80,55


1925 115,77 111,70 99,21 10,72 131, 00 124,38


<i><b>Nguồn: M.Yoshino “</b>Hệ thống quản lý Nhật Bản – truyền thống và </i>


<i>đổi mới</i>”, tập 1, Viện Kinh tế Thế giới, Hn, 1986, tr 50.


Các ngành công nghiệp phát triển mạnh tại Nhật Bản thời kỳ này cho
thấy thành công của con đường cải cách của chính quyền Minh Trị. Các trung
tâm cơng nghiệp lớn đã được hình thành như: Tokyo, Osaka, Yokohama,
Kobe.


<b>1.1.2.</b> <b>Cải cách về giáo dục, văn hóa </b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

14


về giáo dục đã tạo ra một tỷ lệ dân số biết chữ cao. Vì vậy, việc giáo dục thời
kỳ này trở nên dễ dàng hơn.


Sau khi tiếp nhận chính quyền từ Mạc phủ, ban lãnh đạo chính quyền
Minh Trị (Meiji) đã tiến hành một loạt cải cách nhằm theo đuổi khẩu hiệu
mang tính chiến lược: “Học tập phương Tây, đuổi kịp phương Tây, đi vượt
phương Tây”. Để triển khai khẩu hiệu này, một trong ba chính sách lớn của
chính quyền Minh Trị (Meiji) được thực thi đó là “Văn minh khai hóa”. Do
đó, một cao trào học tập các nước phương Tây đã diễn ra ở Nhật Bản trong
khoảng hai thập kỉ đầu thời Minh Trị (Meiji). Và việc tiếp thu văn minh văn
hóa phương Tây được bắt đầu ngay từ giáo dục. Mặt khác, việc thống nhất lại
đất nước cũng là điều kiện quyết định trong công cuộc cải cách giáo dục này
của Nhật Bản để vừa cung cấp nguồn nhân lực, vừa đảm bảo an ninh quốc
gia, tồn vẹn lãnh thổ.


Cơng cuộc cải cách giáo dục chính thức bắt đầu với việc Bộ giáo dục
công bố “Học chế” ngày 3 tháng 8 năm 1872. Học chế gồm 213 điều với một
số tư tưởng chủ đạo như sau:


- Nhà trường dành cho tất cả mọi người và dựa vào kiến thức Âu –
Mỹ


- Đào tạo con người làm giàu cho Tổ quốc và bảo vệ đất nước
- Xây dựng nhiều trường học, mở rộng các trường cao đẳng và
chuyên nghiệp


Học chế đã phủ nhận lối suy nghĩ coi học vấn chỉ phục vụ cho lợi ích


quốc gia mà “học vấn chính là vốn liếng để lập thân”, chủ trương tư tưởng
thực học và khuyến khích mọi người tới trường.


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

15


32 khu trung học, mỗi khu trung học quản lý 210 khu tiểu học. Nghĩa là, theo
kế hoạch, Nhật Bản sẽ phải xây dựng trên toàn quốc 53.760 trường học, tức
trung bình có khoảng 600 dân 1 trường tiểu học.


Để phù hợp với tình hình đất nước, phương châm giáo dục Nhật Bản
hướng đến thời bấy giờ mang tính chất tồn diện, tồn dân, hướng đến một
nước Nhật Bản trong tương lai không những dồi dào nguồn nhân tài mà cịn
phục vục cơng cuộc phát triển toàn diện đất nước trên mọi lĩnh vực. Để thực
hiện mục tiêu chiến lược này, chính quyền Minh Trị (Meiji) đã lần lượt cho
thực hiện cải cách bằng những nội dung và phương pháp khác nhau:


Về nội dung, cải cách đã tập trung xây dựng một nền giáo dục thực
dụng theo kiểu phương Tây, chú trọng tính hiệu quả trong công việc học tập
mang lại bởi sở dĩ, nền giáo dục Nho học trước đây quá thiên về hư học, tức
chỉ sử dụng Nho học trong việc cung cấp tri thức, giáo dục và đào tạo nhân tài
mang tính hàn lâm cao mà bỏ bê việc trang bị kiến thức khoa học kĩ thuật và
thực nghiệm. Hơn nữa, trong thời kì chủ nghĩa tư bản đang lên lúc bấy giờ thì
việc bức thiết đối với Nhật Bản chính là thực hiện một bước đi mới theo kiểu
phương Tây.


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

16


của hệ thống giáo dục quốc dân. Theo Học chế năm 1872 thì thời gian giáo
dục bắt buộc là 8 năm, nghĩa là tất cả trẻ em từ 6 đến 13 tuổi phải được đến
trường. Mơn học chính được chú trọng đối với trẻ em là bậc tiểu học là môn


Tu thân. Bởi lẽ, quan niệm của người Nhật Bản là rèn luyện phẩm chất đạo
đức khơng tách rời việc học tập tri thức văn hóa. Đây chính là khía cạnh tạo
cho nền giáo dục Nhật Bản khác hẳn với nền giáo dục phổ thông ở các nước
phương Tây.


Đối với giáo viên, việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng được chính
phủ đặc biệt chú ý. Nhiều chính sách ưu tiên cho những người theo học ngành
sư phạm. Nhân việc nhận được tiền bồi thường chiến tranh của nhà Thanh sau
cuộc chiến tranh Trung – Nhật năm 1894-1895, chính quyền Minh Trị (Meiji)
đã dành một phần đáng kể để nâng lương cho giáo viên. Nhưng bên cạnh
những ưu tiên đó, chính phủ cũng buộc họ khơng được đổi nghề, kèm với đó
là việc đặt ra những tiêu chuẩn rất chặt chẽ, yêu cầu về trình độ giáo viên
ngày càng cao. Đó là yếu tố quan trọng trong việc đảm bảo chất lượng đào tạo
của các trường học ở Nhật Bản kể từ thời Minh Trị (Meiji).


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

17


• Một số thành tựu trong công cuộc cải cách giáo dục


Trong cơng tác giáo dục và đổi mới giáo dục, “Tính đến năm 1890 đã
có khoảng 3.000 chuyên gia giáo dục ngoại quốc sang làm việc ở ngành giáo
dục Nhật Bản” [9, tr.129] . Với quyết tâm nâng cao trình độ dân trí, chính
quyền đã áp dụng chế độ giáo dục bắt buộc và bình đẳng cho tất cả mọi thành
phần xã hội. Nhờ đó, “năm 1873, mới chỉ có 28% tổng số cư dân đến tuổi đi
học thì năm 1882 con số này đã tăng lên 50%, năm 1895 là 67%, 1904 là
98%” [9, tr.129].


Thành tựu mà Nhật Bản đã đạt được trong giáo dục đúng như theo nhận
xét của Edwin O. Reischauer: “Một nền giáo dục phổ cập đã khiến cho Nhật
Bản trở thành nước đầu tiên ở châu Á có một quần chúng biết đọc biết viết.


Một trình độ giáo dục phổ thông cao, cũng như sức mạnh quân sự và khả
năng kĩ nghệ là lý do cắt nghĩa tại sao Nhật Bản đã chiếm được ưu thế tại
vùng Đông Á vào nửa đầu thế kỉ XX” [31, tr151]


Trong sự nghiệp duy tân đất nước, giáo dục là ngành đặc biệt được coi
trọng bởi vai trò đặc thù tạo nên nguồn lực trí thức cho sự phát triển căn bản
và bền vững của tất cả các ngành sản xuất, kĩ thuật, quản lý của Nhật Bản.
Trong công cuộc đổi mới giáo dục đó phải kể đến cơng lao của Fukuzawa
Yukichi (1835-1901). Ông được tôn vinh là “người thầy của dân tộc”, “người
cha của nước Nhật cận đại” và “Voltaire của Nhật Bản”. Tư tưởng cải cách
của ơng có ảnh hưởng mạnh mẽ đến tiến trình thiết lập và sự phát triển của
một nhà nước mới và có ý nghĩa vạch đường đi cho dân tộc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

18


Vì thế Mori Arinori đã cùng bàn bạc với Nishimura Shigeki (Tây-thôn
Mậu-thụ; 西村茂樹 ; 1828-1902) về khả năng thành lập một hội trí thức dựa
theo mơ hình của Hoa Kỳ. Hội mang tên là Meirokusha (Minh-lục-xã), bởi lẽ
việc thành lập hội được thảo luận vào năm thứ 6 thời Minh Trị (1873) --
“Minh” là Minh Trị, “lục” là 6, và “xã” là hội. Tôn chỉ thiết lập của hội công
bố một năm sau đó, được tóm tắt như sau: “Nhằm xúc tiến giáo dục trong
nước, nhóm hữu chí chúng tơi thương nghị về các biện pháp, hội họp các
người đồng chí để trao đổi ý kiến, mở mang kiến thức”[42, tr.403]. Qua tháng
2 năm 1875, Meirokusha được chính thức thành lập.


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

19


1861, “Tây dương sự tình” của Fukuzawa Yukichi, “Bách nhất tân luận” của
Sishi Amane,…



Mặt khác, để canh tân đất nước trong giáo dục được toàn diện, người
Nhật cũng nhận ra điều cần thiết là phải kiên quyết loại bỏ lối tư duy cũ và
cách thức lỗi thời. Yêu cầu đặt ra là phải coi trọng thực học và những giá trị
thực tiễn hơn là lý chỉ mang tính thuyết hàn lâm, giáo điều. Do đó, cùng với
việc cử trí thức đi nước ngoài học tập, Nhật Bản còn cho mời các giáo sư,
chuyên gia ngoại quốc về giảng dạy và làm cố vấn trong các lĩnh vực khác
nhau.


Như vậy, sau khi chính quyền Tokugawa trao trả lại quyền lực chính và
đất đai cho Thiên hồng và Nhật Bản mở cửa đất nước thì Nhật Bản đã bước
đầu khôi phục lại được tổn thất trước kia do chính quyền Tokugawa gây ra,
đặc biệt là trong hệ thống giáo dục, đưa nước Nhật ngày càng hưng thịnh sánh
ngang với sự phát triển của các nước phương Tây và đi đầu trong các nước
Đông Á về giáo dục.


Trong công cuộc tiếp thu nền tri thức của phương Tây thì trong đời
sống văn hóa Nhật Bản cũng có sự thay đổi rõ rêt khi chính quyền đưa ra lệnh
áp dụng trong cả nước về việc ăn mặc, đi lại của người dân. Theo đó, đàn ơng
thay vì để tóc dài của thời Mạc phủ thì đến thời kỳ này đàn ông phải cắt tốc
ngắn giống Tây hóa, việc tham dự trong những buổi lễ quan trọng thì phải
mặc Âu phục đi giày da. Việc dùng đồ dùng phương Tây được coi là đúng
mốt và sang trọng.


Chính phủ Minh Trị ra quyết định thay đổi từ sử dụng lịch Âm sang sử
dụng lịch Dương theo các nước phương Tây.


</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

20


Đỉnh điểm của xu hướng Tây hóa là việc xây dựng Minh Lộc quán
(Rokumeikan) năm 1883 do kiến trúc sư người Anh Josiah Conder


(1852-1920) thiết kế, sử dụng để tiếp khách nước ngoài và nơi gặp gỡ của giới
thượng lưu, đây là kiến trúc theo mơ hình của châu Âu thời kỳ Trung cổ.


Từ đó ta thấy rõ quyết tâm cải cách đất nước theo phong trào Tây hóa
của Nhật Bản để đưa đất nước đi lên thoát khỏi xã hội phong kiến lạc hậu.


Việc tiếp cận văn hóa từ Âu – Mỹ kết hợp với văn hóa truyền thống đã
tạo nên nét văn hóa mới mang đặc trưng riêng cho văn hóa Nhật Bản. Các nét
văn hóa từ ăn mặc, đi lại đều theo phong cách phương Tây. Đồng thời, hàng
loạt các tòa soạn báo được mở ra.


Thiên chúa giáo du nhập vào Nhật Bản thời kỳ đầu còn bị sự bài xích
nhưng từ sau năm 1873 thì các nhà truyền giáo được phép hoạt động tự do và
Thiên chúa giáo không bị cấm tại Nhật Bản nữa.


Trong lĩnh vực học thuật cũng có sự thay đổi theo hướng phương Tây.
Về cả triết học, luật học hay kinh tế học thì trường phái chủ đạo được chính
quyền Minh Trị lựa chọn đều là trường phái của Đức.


Việc phổ cập giáo dục là một chính sách được coi là thành cơng trong
thời kỳ Minh Trị. Số người biết chữ ở Nhật Bản tăng cao, trình độ dân chí
được nâng lên tạo điều kiện cho sự phát triển nền văn học mới. nền văn học
này dựa trên chủ nghĩa tả thực để miêu tả chân thực về cuộc sống con người
và thiên nhiên Nhật Bản. Về thơ ca, thơ của thời kỳ Minh Trị chịu ảnh hưởng
nhiều từ phương Tây nên đã hình thành kiểu thơ mới không bị rành buộc như
kiểu thơ thời kỳ Mạc phủ.


Các lĩnh vực khác như hội họa, âm nhạc, kiến trúc cũng chịu ảnh hưởng
mạnh của phương Tây. Mọi người sẽ học khiêu vũ, tổ chức tiệc tùng, hòa
nhạc tại các phòng xây dựng theo phong cách châu Âu như Minh Lộc quán.



</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

21


dựng một lực lượng nhân công lao động có trình độ cao, phát triển kinh tế.
Việc đào tạo những người trẻ tuổi tại nước ngoài đã làm cho số lượng chuyên
gia kỹ thuật tăng. Các trường nghề được mở ra và việc thực hiện chính sách tự
do trong công việc đã làm cho cuộc sống người dân được nâng cao.


Các chính sách về phát triển kinh tế đã biến Nhật từ một nước phụ
thuộc và phương Tây thành một nước đã tự đứng lên xuất khẩu sản phẩm
sang phương Tây và có thể đặt điều kiện ký các bản hiệp ước bình đẳng với
phương Tây.


Về các lĩnh vực như quân sự, luật học,… Nhật Bản đã tiếp thu thành
công các thành tựu của phương Tây để áp dụng vào đất nước mà không phải
chịu nhiều ảnh hưởng của việc thử nghiệm. Ví dụ về quân sự, mơ hình hải
qn của Anh và mơ hình lục qn của Đức là hai mơ hình qn sự mạnh lúc
bấy giờ và Nhật Bản đã kế thừa và vận dụng thành công vào mơ hình qn sự
của nước mình. Từ đó tạo điều kiện hình thành lực lượng quân sự mạnh mẽ
trong chiến tranh thế giới.


<b>1.1.3.</b> <b>Cải cách về ngoại giao </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

22


nhiệm vụ tiên quyết của Nhật Bản lúc này là tìm cách để xóa bỏ các bản Hiệp
ước bất bình đẳng đã ký với phương Tây trước đó. Nhưng nhiệm vụ này đã bị
thất bại nhanh chóng. Chúng ta có thể nhận thấy rất rõ ràng rằng: đối với các
cường quốc phương Tây thì miếng mồi béo bở như Nhật Bản họ sẽ không thể
nào để vượt ra khỏi tầm tay của họ được. Khi các bản Hiệp ước vẫn còn tồn


tại thì Nhật Bản vẫn cịn là một nước chịu sự chi phối của phương Tây, các
bản Hiệp ước mất đi giá trị có thể khiến cho Nhật Bản thốt khỏi sự khống
chế và vượt lên. Điều này khác gì việc phương Tây tự họ tạo nên một đối thủ
cho chính bản thân mình. Phương Tây đến các nước phương Đơng với mục
đích chính là để xâm lược và cướp nguồn tài nguyên chứ không phải để giúp
đỡ, xây dựng một đất nước lớn mạnh mà có thể trở thành đối thủ trong tương
lai của họ.


Với Nhật Bản, sau khi thất bại trong cuộc đàm phán thì chính phủ Minh
Trị đã tìm cách mở rộng sức ảnh hưởng của Nhật Bản ra bên ngoài. Mục tiêu
đầu tiên mà chính phủ Nhật Bản nhằm tới đó chính là Trung Quốc. Trong
suốt bao nhiêu năm tồn tại, Trung Quốc luôn tự xưng mình là “anh cả” của
khu vực Phương Đơng. Trong lịch sử thì Trung Quốc cũng có nhiều lần đàn
áp Nhật Bản, vì thế để bước đầu khẳng định sức mạnh của đất nước, khếch
trương thanh thế của mình thì Nhật Bản đã lấy lý do tranh giành sức ảnh
hưởng của Nhật Bản trên chủ quyền của bán đảo Triều Tiên nhằm gây xung
đột với chính quyền nhà Thanh. Trong khoảng thời gian trước thì bán đảo
Triều Tiên vẫn chịu sự khống chế của chính quyền nhà Thanh, chính vì vậy
nên việc Nhật Bản có ý định với Triều Tiên đã dẫn đên cuộc xung đột Nhật –
Thanh năm 1904, đồng thời cũng dẫn đến chiến tranh Nhật – Nga năm 1905.


</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

23


Nguyên nhân Nhật Bản lựa chọn chiến tranh với nhà Thanh và Nga là
do: đây là hai nước có tiềm lực mạnh, và có sức ảnh hưởng trên khu vực châu
Á. Hơn thế nữa, trong thời điểm đấy thì hai nước đang trong giai đoạn suy
yếu nên khó có thể giành thắng lợi so với Nhật Bản. Khi Nhật Bản tiến hành
chiến tranh và giành thắng lợi có thể khiến cho các nước khác có cái nhìn
khác về nước Nhật: Nhật Bản khơng cịn là một quốc gia nhỏ bé nằm ở châu
Á nữa mà giờ đây Nhật Bản đã trở nên mạnh mẽ khi có thể đánh thắng được


một đất nước lớn mạnh luôn xưng là “anh cả” châu Á và một nước nằm trong
khối các cường quốc phương Tây như Nga. Chính vì vậy, việc chiến thắng
trong hai cuộc chiến tranh không những giúp cho Nhật Bản củng cố thêm về
kinh tế do nhận được bồi thường mà còn giúp cho quân đội Nhật Bản trở nên
lớn mạnh hơn, người dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của chính phủ hơn. Hai
cuộc chiến tranh đều nhận được sự đồng lịng nhất trí từ chính nhân dân Nhật
Bản, họ ln muốn khẳng định sức mạnh của dân tộc mình ra bên ngồi thế
giới, chính niềm tự tôn dân tộc của họ đã tạo động lực để người dân giảm
thiểu chi tiêu sinh hoạt nhằm tập trung kinh tế để phát triển đất nước.


Trong giai đoạn này, ngoại giao của Nhật Bản chú trọng chủ yếu đến
việc mở rộng ảnh hưởng của Nhật Bản ra các nước khác trong khu vực. Con
đường chính phủ Minh Trị lựa chọn để khuyếch trương thanh thế của Nhật đó
chính là con đường quân sự. Nhật Bản đã tạo ra hai cuộc chiến tranh với hai
quốc gia có ảnh hưởng lớn tại châu Á để nhằm khẳng định sức mạnh của
mình, tuyên bố với các nước khác sự tòn tại của một quốc gia mang tên Nhật
Bản, hơn thế nữa, quốc gia này tuy có lãnh thổ nhỏ bé nằm tại phía đơng châu
Á nhưng lại có sức mạnh quân sự mà các nước khác không thể coi thường.
<b>1.2.</b> <b>Sự thay đổi đường lối ngoại giao của Nhật Bản từ chiến tranh Thế </b>
<b>giới thứ nhất đến Hội nghị Washington (1921-1922) </b>


<b>1.2.1.</b> <b>Về kinh tế - chính trị - xã hội </b>


<i>a.</i> <i>Tình hình thế giới </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

24


giới mới để mở rộng thị trường cho các cường quốc lớn ở Châu Âu. Vì vậy tại
khu vực Châu Âu đã trở thành chiến trường lớn giữa các cường quốc mới và
cường quốc cũ, cuộc chiến chia làm hai phe đó là phe Hiệp Ước (chủ yếu là


Anh, Pháp, Nga, và sau đó là Hoa Kỳ, Brasil) và phe Liên Minh (chủ yếu là
Đức, Áo-Hung, Bulgaria và Ottoman). Châu Âu giai đoạn này được coi như
một chiến trường khốc liệt của thế giới, quân đội giữa hai phe tranh giành
mức ảnh hưởng tạo nên sức công phá gây thiệt hại nặng nề cho kinh tế. Toàn
bộ sức người và kinh tế đều được các nước sử dụng cho chiến tranh gây ra
mâu thuẫn giữa chính quyền và tầng lớp lao động ngay trong chính nội bộ
những cường quốc kinh tế. Cuộc chiến này làm cho châu Âu tụt hậu và mất đi
vai trò lãnh đạo văn minh nhân loại mà nó đã đảm đương trong hơn 300 năm
qua và dần dần vai trị đó chuyển sang bên kia đại dương cho Hoa Kỳ. Chiến
tranh gây ra sự thay đổi rất lớn trong bản đồ chính trị châu Âu. Cuộc chiến
dẫn đến sự sụp đổ của bốn đế quốc Nga (1917), Đức (1918), Áo - Hung
(1918), Ottoman (1923) với các triều đình quân chủ hàng trăm năm bị suy đổ
trong đó hai cường quốc Áo - Hung và Ottoman bị phân rã và mất hẳn vai trò
cường quốc. Hai đế quốc Đức, Nga bị cắt xén lãnh thổ và bị kiềm chế với tình
cảm dân tộc nước lớn bị tổn thương sâu sắc và đó là mảnh đất rất tốt cho tư
tưởng phục thù để dẫn đến một thế chiến mới. Rất nhiều các nước nhỏ xuất
hiện từ sự phân rã của các đế quốc và từ sự phân chia mang tính chủ quan,
quan liêu của các cường quốc thắng trận dẫn đến các mâu thuẫn lộn xộn gây
mất ổn định thế giới sau này.


</div>
<span class='text_page_counter'>(28)</span><div class='page_container' data-page=28>

25


thứ Nhất kết thúc cũng là sự mở màn cho thế lực phát xít lên ngơi tại nhiều
nước trong bối cảnh xã hội bất ổn như tại Ý và Đức. Như vậy châu Âu sau
cuộc chiến đã có sự chia rẽ rõ rệt về mặt chính trị giữa các lực lượng tạo bệ
phóng cho một cuộc thế chiến mới.


Sau khi chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc, để phục hồi lại nền kinh
tế đã bị kiệt quệ do chiến tranh thì các cường quốc đã mở cuộc họp nhằm
thống nhất chia lại thế giới một lần nữa. Hội nghị Washington được tổ chức


tại Hoa Kỳ. Trong Hội nghị Washington, Nhật Bản đã bị các nước lớn
phương Tây chèn ép gây bất lợi với những điều ước bất bình đẳng.


Khoảng nửa cuối thế kỷ XIX, Hoa Kỳ ban hành luật liên quan đến sự
phân biệt chủng tộc đối với người nhập cư châu Á. Điều này bắt đầu từ khi số
lượng công nhân nhập cư từ Trung Quốc đến Hoa Kỳ tăng nhanh. Mặc dù
người Trung Quốc được tuyển dụng sang Hoa Kỳ để làm nhiều trong ngành
công nghiệp khai thác mỏ và đường sắt nhưng người da trắng ở các bang và
vùng lãnh thổ Hoa Kỳ lại xem người nhập cư như một nguồn cạnh tranh kinh
tế và đe dọa đến chủng tộc "thuần khiết" của họ. Cùng với đó thì người Nhật
nhập cư vào Hoa Kỳ giai đoạn này cũng bị ảnh hưởng bởi đạo luật này. Tiêu
biểu lại tại Tiểu bang California, người Nhật ở đây bị hạn chế quyền mua và
sử dụng đất, nhất là các trang trại của Nhật tại đây cũng bị hạn chế để làm
giảm sự cạnh tranh giữa các trang trại của Nhật Bản và trang trại địa phương.


Đến đầu thế kỷ XX, sự phân biệt chủng tộc chống Nhật Bản đã càng trở
nên mạnh mẽ khi người dân ở California nhận thấy sự chiến thắng của Nhật
Bản trước cuộc chiến tranh Nga-Nhật, họ đã cảm thấy có một mối nguy hiểm
mang tên “nguy hiểm màu vàng ở California”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(29)</span><div class='page_container' data-page=29>

26


trong số họ đã đi theo hiệp ước năm 1894 đã đảm bảo nhập cư tự do từ Nhật
Bản.


Năm 1931, việc Nhật Bản đưa quân tấn công vào Trung Quốc và việc
gây ra chính biến Mãn Châu của Nhật Bản đã bị chỉ trích một cách tồn diện
tại Hoa Kỳ. Ngoài ra, những người dân Hoa Kỳ đã phẫn nộ với những tội ác
của Nhật Bản gây ra tại Trung Quốc, chẳng hạn như vụ thảm sát ở Nam Kinh,
dẫn đến kêu gọi can thiệp kinh tế của Hoa Kỳ để khuyến khích Nhật Bản rời


khỏi Trung Quốc; những cuộc gọi này đóng một vai trị trong việc định hình
chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ. Ngày càng có nhiều báo cáo bất lợi về hành
động của Nhật Bản được chính phủ Hoa Kỳ chú ý, các lệnh cấm cung cấp dầu
và các vật tư khác đã được đưa lên Nhật Bản, không quan tâm đến dân chúng
Trung Quốc và vì lợi ích của Hoa Kỳ ở Thái Bình Dương. Hơn nữa, người
Hoa Kỳ gốc Châu Âu trở nên rất ủng hộ Trung Quốc và chống Nhật Bản, một
ví dụ là một chiến dịch phụ nữ ngừng mua tất lụa, bởi vì nguyên liệu được
mua từ Nhật Bản.


<i>b.</i> <i>Tình hình Nhật Bản </i>


Vào ngày 1 tháng 8 năm 1914 khi chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra thì
thay vì đưa quân đội cùng tiến công với các nước phe Hiệp Ước thì Nhật Bản
lại lợi dụng cơ hội chiến tranh nổ ra mạnh mẽ ở Châu Âu để nhằm trục lợi ích
về kinh tế tại thị trường Trung Quốc. Để thực hiện được âm mưu này thì về
phía quân sự, Nhật Bản không đưa quân đội sang chiến trường Châu Âu mà
tiến hành dẫn quân sang chiếm các cứ điểm của quân đội Đức tại Trung Quốc
và khu vực Nam Thái Bình Dương như Thanh Đảo (thuộc tỉnh Sơn Đông)
hay các quần đảo Mariana, Carolines,... Sau đó Nhật Bản tiếp tục tăng cường
sự ảnh hưởng của mình đến Trung Quốc bằng cách ép chính phủ Trung Quốc
ký các bản hiệp ước để phụ thuộc và Nhật hơn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(30)</span><div class='page_container' data-page=30>

27


Vào tháng 9 năm 1917, Nhật Bản đã cử cựu Bộ trưởng Ngoại giao
Kikujirō Ishii 1<sub>sang Hoa Kỳ để yêu cầu Hoa Kỳ đồng ý với bản hiệp ước này </sub>
của Nhật, thừa nhận chủ quyền của Nhật bản trên vùng lãnh thổ Trung Quốc.
Chính việc này đã làm cho mâu thuẫn giữa chính quyền Hoa Kỳ và Nhật Bản
ngày càng tăng lên.



Sau khi chiến tranh thế giới thứ Nhất chấm dứt, ngồi lợi ích đạt được
do Nhật Bản thuộc phe các nước thắng trận thì Nhật cũng thu được nguồn lợi
kinh tế lớn từ thị trường Trung Quốc, việc này làm ổn định nguy cơ tài chính
và giải quyết được những khó khăn về kinh tế của Nhật Bản. Những chính
sách ngoại giao được Nhật Bản đưa ra tại Hội nghị Hịa bình ở Pari2<sub> (1/1919) </sub>
và Hội nghị Washington (1921 – 1922) đã mang lại những lợi ích lớn cho
Nhật bản với tư cách là một nước thắng trận, thay thế sự ảnh hưởng của Đức
tại một số địa điểm ở Trung Quốc và Nam Thái Bình Dương.


Sự lớn mạnh nhanh chóng của Nhật bản đã làm cho các nước phương
Tây lo ngại. Chính quyền và người dân các nước khu vực châu Âu và Hoa Kỳ
lo ngại về mối “nguy hiểm Nhật Bản” nên khi các đề nghị mà chính quyền
Nhật Bản đưa ra tại cơng nhận quyền bình đẳng giữa các chủng tộc được ghi
vào Hiến chương của Hội Quốc liên nhưng lại bị các nước phương Tây bác
bỏ. Tiêu biểu nhất của sự phân biệt chủng tộc này là Hoa Kỳ đã hai lần thực
thi chính sách phân biệt chủng tộc 3<sub>(đặc biệt là có sự phân biệt đối với Nhật </sub>
Bản). Các nước phương Tây nhất là Hoa Kỳ tuy đã thấy được sự lớn mạnh
của Nhật nhưng họ vẫn cảm thấy Nhật Bản vẫn chưa thể ngang hàng với các
cường quốc như họ khi Nhật mới thể hiện được sức ảnh hưởng của mình tại


1<sub>Kikujirō Ishii (</sub><sub>石井菊次郎</sub><sub> 1866- 1945), ơng là vị Bộ Trưởng Ngoại giao thứ 16 của Nhật Bản, từ tháng 10 </sub>


năm 1915 đến tháng 10 năm 1916.


2<sub> Hội nghị Hịa bình Paris diễn ra năm 1919 là cuộc gặp mặt của các nước thắng trận sau chiến tranh thế giới </sub>


thứ nhất để thiết lập các điều khoản hịa bình cho các nước bại trận tiếp sau thỏa thuận ngừng bắn ký năm
1918. Hội nghị được tổ chức ở Paris có sự tham dự của những nhà ngoại giao thuộc hơn 32 quốc gia và dân
tộc.



3<sub> Lần 1: năm 1920, theo hiệp ước tại Hội nghị Washington Tòa án tối cao Hoa Kỳ đã đưa ra quyết định người </sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(31)</span><div class='page_container' data-page=31>

28


khu vực Châu Á mà chứ mở rộng ra bên ngoài. Đồng thời, các cường quốc
cũng lo ngại sự phát triển của Nhật Bản nên đã cố gắng tạo ra các điều khoản
ép buộc Nhật bản phải thừa nhận sự mua bán trao đổi của các cường quốc tại
thị trường Trung Quốc, điều này khiến Nhật mất đi sự độc quyền tại bán đảo
Sơn Đông mà Nhật đã chiếm được.


Về tình hình trong nước, do chính quyền lức đó tập trung kinh tế cho sự
phát triển quân sự, chú trọng phát triển ngành công nghiệp nặng. Điều này
làm gia tăng nhanh chóng lực lượng của tầng lớp vơ sản, người dân bị mất đất
phải đi làm công nhân, giá cả thị trường lại trở nên đắt đỏ, tiền thuế tăng cao,
trong khi đó thì tiền lương trả cho người lao đồn lại rẻ mạt.


Tất cả những nguyên nhân trên đã gây ra sự mâu thuẫn giữa các giai
cấp trong xã hội ngày càng gay gắt. Cùng với đó, thắng lợi của cuộc Cách
mạng Tháng Mười Nga đã ảnh hưởng đến tư tưởng của những công nhân lao
động nghèo khổ của xã hội. Đến tháng 8 năm 1918, sự bạo động đó đã bắt
đầu nổ ra để chống lại việc giá gạo ngày càng đắt đỏ, các địa chủ và thương
nhân giàu có thì đầu cơ trục lợi bằng cuộc “bạo động gạo”. Cuộc bạo động
này bắt đầu nổ ra tại thành phố Toyama nhưng đã nhanh chóng lan rộng ra
các thành phố lớn khác như Kyoto, Osaka, Kobe và Tokyo. Khoảng 10 triệu
người đã tham gia vào cuộc bạo động bao gồm nông dân, công nhân, ngư dân
ven biển, thợ thủ công và sinh viên [8, tr.296].


Chính phủ của phái quân sự - quan liêu là Terauchi Masatake (寺内正


毅 1852 – 1919) vì đã thẳng tay đàn áp cuộc bạo động, gây nên mâu thuẫn với


người dân nên đã buộc phải từ chức. Đến tháng 9 năm 1918, thủ lĩnh của
Đảng Seiyukai là Hara Takashi (原敬1856 – 1921) đã lên làm Thủ tướng và
nắm quyền lãnh đạo Nhật Bản.


</div>
<span class='text_page_counter'>(32)</span><div class='page_container' data-page=32>

29


Tây tập trung vào phát triển kinh tế, đồng thời Hoa Kỳ đã ép sức ảnh hưởng
của Nhật trên thị trường Trung Quốc xuống thấp (mất đi sự độc quyền) khiến
cho nền kinh tế Nhật Bản từ một nước xuất khẩu đã trở thành nước nhập siêu
gây nền sự khủng hoảng về kinh tế Nhật Bản. Cùng với đó, khủng hoảng kinh
tế thế giới 1920-1921 và trận động đất năm 1923 đã khiến cho nền kinh tế
Nhật bản ngày càng kiệt quệ, cuộc sống của người dân Nhật Bản ngày càng
khó khăn hơn.


Để giải quyết tình trạng khó khăn này thì chính quyền Nhật Bản đã đưa
ra chủ trương bành trướng thế lực của Nhật Bản ra bên ngoài. Tuy nhiên, về
đường lối chính sách lại có sự mâu thuẫn giữa hai phe phái là phe tài phiệt và
phe quân phiệt. Trong khi phe tài phiệt muốn nâng cao sự ảnh hưởng của
Nhật bản bằng sự tập trung cho phát triển kinh tế ra bên ngồi thì phe qn
phiệt lại ủng hộ sự gia tăng sức mạnh quân sự đẻ tiến hành bành trướng xâm
lược các nước khác để mở rộng thị trường. Trong thời điểm này thì chính
quyền phe qn phiệt tạm thời thắng thế và thực hiện các biện pháp quân sự
nhằm mở rộng sự bành trưởng cảu Nhật Bản.


Đến tháng 6 năm 1924, tại cuộc bầu cử thủ tướng, thủ lĩnh của Đảng
Kenseikai là Kato Takaaki (加藤高明1860 – 1926) đã lên cầm quyền. Chính
đảng này có mối quan hệ lớn đối với các tập đoàn tài phiệt nên đã có sự cạnh
tranh với chính đảng Seiyukai - ủng hộ phe quân phiệt.


Khi chính phủ Kato lên cầm quyền đã thực hiện các chính sách nhằm


xoa dịu mối quan hệ gay gắt giữa các giai cấp tầng lớp trong xã hội Nhật Bản.
Trong đó có việc thi hành chính sách hợp tác giai cấp, dần dần thi chính phủ
Kato đã làm dịu đi mối quan hệ giữa chính phủ và tổ chức cơng đồn
Sodomei 4đơng thời tạo nên chỗ đứng vững chắc trong tổ chức này vào năm
1924.


4<sub>Tổ chức cơng đồn Sodomei: với tên đầy đủ là Nihon Rono Sodomei, được thành lập từ năm 1921 dựa trên </sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(33)</span><div class='page_container' data-page=33>

30
<b>1.2.2.</b> <b>Hội nghị Wasington 1921-1922 </b>


Hội nghị Washington còn gọi là Hội nghị Hải quân Washingon hay Hội
nghị Vũ khí Washington là một hội nghị quân sự do chính quyền của Tổng
thống Hoa Kỳ Warren G. Harding khởi xướng, tiến hành tại Washington DC
từ ngày 12/12/1921 đến ngày 6/2/1922 ngồi khn khổ của Hội Quốc Liên.
Tham dự hội có 9 quốc gia có lợi ích tại Thái Bình Dương và Đơng Á. Liên
Xơ khơng được mời tham dự hội nghị. Đây là hội nghị quốc tế đầu tiên tiến
hành tại Hoa Kỳ và là hội nghị đầu tiên về kiểm sốt vũ khí trong lịch sử.


Hội nghị kết thúc với sự ký kết ba hiệp ước chính là Hiệp ước bốn bên,
Hiệp ước năm bên (được biết đến phổ biến hơn với tên Hiệp ước Hải qn
Washington) và Hiệp ước chín bên. Ngồi ra cịn một loạt các hiệp ước nhỏ
hơn giữa các quốc gia tham dự hội nghị. Các hiệp ước này giúp duy trì hịa
bình trong thập niên 20 thế kỉ 20 nhưng đồng thời cũng được coi là đã mở
đường cho sự nổi lên của Đế quốc Nhật như một cường quốc về hải quân, một
trong những yếu tố dẫn đến Chiến tranh thế giới thứ hai.


Hiệp ước bốn nước Anh, Pháp, Hoa Kỳ, Nhật Bản ký kết ngày 13 tháng
12 năm 1921 về việc không xâm lược ở Thái Bình Dương, hiệp ước này có
giá trị 10 năm.



Hiệp ước chín nước ký ngày 6 tháng 12 năm 1922 nhằm công nhận
ngun tắc hồn chỉnh về lãnh thổ và tơn trọng chủ quyền của Trung Quốc.
Quyết định Trung Quốc trở thành thị trường chung của các nước đế quốc
phương Tây.


Hiệp ước năm nước: Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Ý và Nhật Bản ký ngày 6
tahsng 12 năm 1922 về hạn chế cũ trang và hải quân. Quy định tàu chiến ở
khu vực Thái Bình Dương


</div>
<span class='text_page_counter'>(34)</span><div class='page_container' data-page=34>

31


Qua kết quả sau khi kết thúc hội nghị ta có thể thấy được việc Hoa Kỳ
với tư cách là một đế quốc lớn đã thiết lập một khuôn khổ trật tự mới tại châu
Á – Thái Bình Dương do chính Hoa Kỳ chi phối. Kết hợp với hệ thống của
Hòa ước Vecxai, các hiệp ước của Hội nghị Wasington đã tạo nên hệ thống
Vecxai - Washington. Đây là trật tự thế giới mới mà chủ nghĩa đế quốc xác
lập sau chiến tranh Thế giới thứ nhất. Như vậy, một trật tự thế giới mới phản
ánh tương quan lực lượng giữa các nước tư bản đã được thiết lập. Các nước
thắng trận, trước hết là Anh, Pháp, Hoa Kỳ giành được nhiều quyền lợi về
kinh tế và áp đặt nô dịch lên các nước bại trận, đặc biệt là các nước thuộc địa
và các nước phụ thuộc. Song trong nội bộ các nước thắng trận cũng có những
mâu thuẫn bất đồng về quyền lợi. Chính vì thế hịa bình trong quan hệ giữa
các nước tư bản trong giai đoạn này chỉ là tạm thời.


<i>Ảnh hưởng của Hội nghị Wasington đến Nhật Bản </i>


Do tại Hội nghị Washington Nhật Bản đã chịu thua thiệt từ các nước
lớn phương Tây nên chính phủ của Thủ tướng Kato (1861-1923) đã đổi sang
đường lối “ngoại giao hợp tác”, tìm mọi cách để cải thiện quan hệ giữa Nhật


Bản và Trung Quốc, đồng thời tiến hành bình thường hóa quan hệ ngoại giao
với Nhà nước Xô Viết. Thay vì việc mở rộng ảnh hưởng bằng con đường
quân sự thì dưới thời kỳ của Thủ tướng Kato và Bộ trưởng Ngoại giao
Shidehara lại tập trung vào việc phát triển kinh tế, hợp tác với các nước khác
trên thế giới bằng con đường hịa bình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(35)</span><div class='page_container' data-page=35>

32
<b>Tiểu kết </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(36)</span><div class='page_container' data-page=36>

33


<b>CHƯƠNG 2: NỘI DUNG TƯ TƯỞNG ĐỐI NGOẠI CỦA NHẬT BẢN </b>
<b>TỪ SAU HỘI NGHỊ WASHINGTON ĐẾN KẾT THÚC CHIẾN </b>


<b>TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI </b>


Trong giai đoạn từ sau Hội nghị Washington (1921-1922) đến kết thúc
chiến tranh Thế giới thứ hai, Nhật Bản hình thành hai hướng tư tưởng ngoại
giao chính đó là tư tưởng ngoại giao theo hướng “hợp tác phát triển kinh tế”
và tư tưởng ngoại giao “phát triển quân sự”, cả hai đường lối tuy khác nhau
về nội dung nhưng đều nhằm một mục đích đó là: phát triển Nhật Bản. Trong
phần tư tưởng ngoại giao theo hướng “hợp tác phát triển kinh tế” tôi tập trung
vào nghiên cứu tư tưởng của Bộ trưởng Ngoại giao Shidehara vì tư tưởng phát
triển kinh tế của ơng khơng chỉ có giả trí trong giai đoạn ngay sau Hội nghị
Washington nhằm ổn định tình hình Nhật Bản mà còn được sử dụng lại trong
giai đoạn kết thúc chiến tranh. Hơn thế nữa, đến giai đoạn hiện tại thì giá trị
trong tư tưởng ngoại giao của Shidehara vẫn phù hợp với quá trình phát triển
để xây dựng Nhật Bnar trở thành một cường quốc trên thế giới.


<b>2.1.</b> <b>Kijūrō Shidehara và tư tưởng ngoại giao theo hướng “hợp tác phát </b>


<b>triển kinh tế” </b>


<b>2.1.1.</b> <b>Kijūrō Shidehara</b>幣原喜重郎


Kijūrō Shidehara (hay còn gọi là Kijūrō Shimahara) sinh năm ngày 13
tháng 9 năm 1872 (ngày 11 tháng 8 năm Meiji thứ 5). Ông sinh ra tại làng
Kadoma, quận Osaka (nay là Thành phố Kadoma) trong một gia đình khá giả
có điều kiện về kinh tế. Vợ ông là Masako Mihara, con gái thứ tư của chủ tịch
tập đoàn Zaibatsu Mitsubishi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(37)</span><div class='page_container' data-page=37>

34


London (thủ đô của Anh), Antwerp (thủ đô của Bỉ), và Washington DC (thủ
đô của Hoa Kỳ) và làm đại sứ cho Hà Lan. Đến năm 1915, với những thành
tích và kinh nghiệm đã tích lũy của bản thân ông đã trở về Nhật Bản.
Shidehara được bổ nhiệm làm Thứ trưởng Bộ Ngoại giao và tiếp tục ở vị trí
này trong năm chính quyền liên tiếp. Năm 1919, ơng được bổ nhiệm làm đại
sứ tại Hoa Kỳ, ông hoạt động tại đại sứ Hoa kỳ 8 năm liền. Ông trở thành nhà
đàm phán hàng đầu của Nhật Bản trong Hội nghị Hải quân Washington (1921
– 1922). Tuy nhiên, trong thời gian Shindehara làm đại sứ tại Hoa Kỳ thì
chính phủ Hoa Kỳ đã từng ban hành luật nhập cư phân biệt chủng tộc đối với
người nhập cư châu Á đã bắt đầu xây dựng ngay sau khi công nhân Trung
Quốc tiến hành đến Hoa Kỳ nhập cư vào khoảng giữa thế kỷ XIX, và điều này
đã bao gồm cả việc hạn chế người Nhật Bản nhập cư đến Hoa Kỳ.


Trong quá trình làm việc tại Bộ Ngoại giao, Shidehara đã có hai nhiệm
kỳ làm Bộ trưởng Ngoại giao.


</div>
<span class='text_page_counter'>(38)</span><div class='page_container' data-page=38>

35



Trung Quốc đang đứng trên bờ vực bị các cường quốc phương Tây nhịm ngó.
Các chính sách ngoại giao của ông trong thời kỳ này được các nhà nghiên cứu
gọi là “Ngoại giao Shidehara”. Shidehara đã đưa ra chính sách đối ngoại tự do
của Nhật Bản trong những năm 1920. Vào tháng 10 năm 1925, ông trong Hội
nghị Hải quan Bắc Kinh đã đưa ra quan điểm của mình trong việc thúc đẩy
thỏa thuận với các nhu cầu về tự chủ của Trung Quốc. Vì vậy, năm 1927 khi
quân đội của Chiang Kai-shek 's (1887 – 1975) tiến hành bắt giam những
người ngoại quốc buôn bán và định cư tại một cảng biển nằm ở phía nam
sơng Dương Tử thì các cường quốc nước ngoài đã tiến hành mang một số tàu
lớn trong đó có của Hải qn Hồng gia Anh và Hải quân Hoa Kỳ tiến hành
nổ súng bắn phá vào một cảng biển để bảo vệ quyền lợi của các nhà bn
nước ngồi tại cảng biển này. Shidehara đã từ chối việc tham gia vào sự cố
này vì ông luôn cố gắng thực thi chính sách khơng gây ra can thiệp căng
thẳng với Trung Quốc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(39)</span><div class='page_container' data-page=39>

36


Chế độ chính trị của Nhật Bản giai đoạn những năm 20 của thế kỷ XX
đang trong đà phát triển mạnh. Các nhà lãnh đạo muốn Nhật Bản trở thành
nước phát triển toàn diện cả về kinh tế và quân đội giống như các cường quốc
phương Tây. Trong khi đó, chính sách mà Shidehara đề ra chỉ nhằm mục đích
hịa bình và thiên về phát triển kinh tế. Chính vì những chính sách đối xử với
Trung Quốc của ông đi đối ngược lại với đường lối phát triển của các nhà
chính trị Nhật Bản thời điểm đó nên đến tháng 4 năm 1927 ông đã kết thúc
nhiệm kỳ Bộ trưởng Ngoại giao đầu tiên của mình.


Shidehara sinh ra và lớn lên trong thời kỳ Minh Trị, thời điểm mà xã
hội Nhật Bản tiếp thu nền văn minh hiện đại, có sự phát triển tồn diện về các
mặt tiêu biểu nhất là kinh tế. Shidehara lại xuất phát từ trường đại học nổi
tiếng là Đại học Tokyo và học về Luật học. Đồng thời, ông chịu ảnh hưởng


mạnh của tư tưởng các nước phương Tây phát triển nên ơng có cái nhìn về
việc phát triển đất nước khác với những nhà chính khách Nhật bản thời điểm
đó. Theo ơng thì việc phát triển đất nước trở thành một cường quốc thì nên
tập trung phát triển kinh tế làm cơ sở nội tại chứ không phải tập trung sử dụng
sức mạnh quân sự mà qn đi nền móng đất nước cịn đang yếu.


Quan điểm về ngoại giao của ông luôn đi theo con đường hịa bình
phát triển kinh tế chứ không phải tập trung phát triển quân sự để bành trướng
thế lực. Chính sách ngoại giao mềm mổng của ơng thời điểm đó thì bị cho là
sự nhu nhược, “núp bóng” nhưng đến thời điểm hiện tại thì nhìn từ góc độ
khách quan chúng ta có thể nhận thấy chính sách ngoại giao của Shidehara là
một chính sách khơn khéo và chính xác khi lực lượng quân sự hiện tại của
Nhật Bản không tồn tại nhưng về lĩnh vực kinh tế thì Nhật bản được xếp và
hàng ngũ những cường quốc của thế giới hiện đại.


<b>2.1.2.</b> <b>Tư tưởng ngoại giao theo hướng “hợp tác phát triển kinh tế” của </b>
<b>Shidehara </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(40)</span><div class='page_container' data-page=40>

37


quân sự, bành trướng và xâm lược, dùng quân sự để mở rộng tầm ảnh hưởng
của mình đến các nước khác trên thế giới đặc biệt là khu vực Trung Quốc và
Nam Thái Bình Dương đường lối này do những nhà cầm quyền của Đảng
Seiyukai chủ trương. Và đường lối thứ hai là phát triển ngoại giao Nhật Bản
theo con đường mở rộng phát triển kinh tế, tiến theo con đường hòa bình do
Đảng Kenseikai chủ trương.


Bước đầu thì đường lối ngoại giao theo hướng quân sự được chú trọng
nhưng đến thời kỳ của thủ tướng Kato và Bộ trưởng Ngoại giao Shidehara thì
đường lối ngoại giao lại chuyển sang hướng hịa bình.



Hội nghị Washington cũng đặt ra cho Nhật bản những bất cập lớn về
kinh tế nhưng cũng là một cơ hội để Nhật Bản tranh thủ sự bảo vệ của Anh và
Hoa Kỳ về mặt an ninh lãnh thổ để tập trung cho phát triển kinh tế.


Tại Hội nghị Washington, Hiệp ước bốn bên (Hiệp ước hợp tác giữa
bốn nước Nhật, Anh, Pháp, Mỹ) hủy bỏ đi quan hệ hợp tác giữa Nhật Bản và
Anh vốn có từ trước. Nội dung trong Hiệp ước Chín bên cũng làm giảm đi sự
ảnh hưởng của Nhật trên vùng lãnh thổ của trung Quốc. Với ưu thế là một
nước lớn, Hoa Kỳ chủ trương bão hòa mức ảnh hưởng của chín nước lớn là
Hoa Kỳ, Nhật Bản, Trung Quốc, Pháp, Anh, Ý, Bỉ, Hà Lan và Bồ Đào Nha
trên thị trường Trung Quốc, đánh tan sự độc quyền của Nhật Bản tại Sơn
Đông khi mà các nước đang tham gia vào chiến tranh thế giới thì Nhật đã vất
vả giành được Sơn Đông từ cuộc chiến tranh với Đức. Điều này làm cho
thương nghiệp của Nhật bản bị giảm xuống, hàng hóa sản xuất ra những mức
độ tiêu thụ giảm. Vì thế nên nền kinh tế Nhật Bản rơi vào khủng hoảng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(41)</span><div class='page_container' data-page=41>

38


chắn việc Nhật – Mỹ xung đột thì Anh sẽ ủng hộ cho bên phe nào. Đồng thời,
việc phát triển lực lượng hải quân hay kế hoạch đóng chiến hạm cũng được
Nhật Bản suy xết và lên kế hoạch cẩn thận. Chính phủ Nhật Bản nhận thấy
rằng nếu phát triển quá mạnh về hải quân thì sẽ tạo cho hai nước Anh và Hoa
Kỳ xây dựng các bản hiệp ước và càng kìm kẹp Nhật Bản tại Khu vực Thái
Bình Dương hơn trước.


Chính vì vậy mà Thủ tướng Kato đã đưa ra đường lối ngoại giao mới
để tránh cuộc chiến tranh với Hoa Kỳ. Theo Thủ tướng Kato thì đất nước
Nhật Bản nên tạm ngừng việc chạy đua vũ trang, duy trì tỷ lệ chiến hạm chủ
lực đối với Hoa Kỳ và Anh là 5-3-3[1,tr.139]. Ông cho rằng Nhật Bản không


nên chỉ tập trung vào việc phát triển quân sự mà nên đẩy mạnh cả phát triển
lực lượng sản xuất công nghiệp trong dân chúng, khuyến khích mở rộng ngoại
thương đẩy mạnh hàng hóa Nhật Bản ra nước ngoài. Khi tăng trưởng phát
triển kinh tế ngay tại trong nước sẽ là tiền đề vững chắc để tăng cường vũ
trang. Nếu không thì việc tăng cường chạy đua vũ trang chỉ là cái vỏ bọc cho
sự kiệt quệ của đát nước và gây thêm mâu thuẫn cho nhan dân như trong cuộc
“bạo động gạo”. Đồng thời nếu tránh va chạm trực diện với Hoa Kỳ thì sẽ
thiết lập nên mối quan hệ ngoại giao tốt với Hoa Kỳ và Anh để đẩy mạnh phát
triển kinh tế. Vì vậy nếu nhìn ở góc độ khác thì Hội Nghị Washington cũng đã
có những lợi ích nhất định đảm bảo nên tình hình ổn định của Chính trị, qn
sự tại Nhật Bản.


</div>
<span class='text_page_counter'>(42)</span><div class='page_container' data-page=42>

39


thực tế, xu thế của thế giới hiện đại đang cho thấy các nước cùng nhau xóa bỏ
chủ nghĩa vị kỷ, bài tha vì thành tựu của việc hợp tác quốc tế, vì hịa bình và
chính trực, đơng tâm dốc sức nỗ lực vì cộng tồn, cộng vinh của nhân loại” [1,
tr.139].


Vì vậy, ta có thể thấy thay vì đi theo con đường bành trướng xâm lược
thì tại gia đoạn những năm 20 của thế kỷ XX thì chính sách ngoại giao của
Nhật đang chuyển hướng sang con đường hòa bình để hịa nhập dần với xu
thế của thế giới. Ngoại giao thế giới được coi trọng là việc phát triển nền
ngoại giao bằng con đường kinh tế, mở rộng sản xuất trong nước và xuất khẩu
hàng hóa ra nước ngồi. Các nhà cầm quyền của Nhật Bản đã nhận thấy rõ xu
thế và nhân cơ hội đảm bảo an toàn về mặt lãnh thổ theo hiệp ước phát triển
kinh tế trong nước để trở thành cơ sở căn bản cho sự phát triển sau này. Như
vậy ngoại giao của Nhật Bản thời kỳ này đã đi ngược lại với chính sách ngoại
giao thiên về quân phiệt trước đó của Nhật Bản.



Năm 1924, Shidehara nhậm chức Bộ trưởng ngoại giao lần thứ nhất,
trong bối cảnh Nhật Bản đang đối mặt với trật tự thế giới mới được xác lập tại
Hội nghị Washington thì Shidehara nhận định về các bản Hiệp ước được ký
trong Hội nghị không chỉ là sự kìm chế phát triển của Mỹ đối với Nhật Bản
mà nó cịn là một cơ hội mới đối với Nhật Bản. “Bây giờ thì việc hy sinh phúc
lợi của quốc dân và chạy đua vũ trang trong lực lượng hải quân gây hại cho
hòa bình quốc tế trở thành việc của quá khứ rồi” [1, tr.139] và “Thời đại bây
giờ, các chính sách có tính mưu mơ và xâm lược đã qua rồi, từ nay ngoại giao
phải đi theo con đường lớn của hịa bình và chính nghĩa”[1, tr.139]


</div>
<span class='text_page_counter'>(43)</span><div class='page_container' data-page=43>

40


đói khổ lầm than, nền kinh tế kiệt quệ sẽ không đáp ứng đủ điều kiện để đuổi
theo cuộc chạy đua vũ trang. Chính vì vậy, ngay sau khi lên làm Bộ trưởng
Ngoại giao, Shidehara đã chuyển đổi đường hướng ngoại giao Nhật Bản theo
hướng hịa bình. Ơng cố gắng làm hịa hỗn mối quan hề sau chính biến Mã
Châu với Trung Quốc bằng cách đưa ra đường lối “Thân cận với Anh và Hoa
Kỳ đồng thời không can thiệp và tình hình của trung Quốc”.


Thời kỳ Shidehara lên làm bộ trưởng lần thứ nhất thì tình hình ngoại
giao của Nhật Bản với các nước trên thế giới đang xảy ra những biến động
lớn: Hoa Kỳ ban hành luật hạn chế cho dân nhập cư Châu Á đặc biệt là đối
với Nhật Bản5, hay là sự phản đối và kiêng kỵ của nhân dân các nước trên thế
giới về việc làm của Nhật Bản tại lãnh thổ Trung Quốc đặc biệt là cuộc chính
biến Mãn Châu. Để làm giảm đi tình hình ngoại giao căng thẳng thì Shidehara
đã lựa chọn sự im lặng trước Luật Di dân chứ không cố làm căng thẳng thêm
mối quan hệ giữa Nhật Bản và Hoa Kỳ. Chính sự im lặng này của Shidehara
mà các nhà lãnh đạo của phe Đảng Seiyukai đã chỉ trích cho rằng đường lối
ngoại giao của ông là sự luồn cúi Hoa Kỳ. Thêm vào đó, ơng cũng tiếp tục
nhượng bộ Hoa Kỳ trong bản Hiệp ước về vấn đề cắt giảm vũ trang của hải


quân. Chính nhwunxg đường lối qn sự này của ơng đã không được nhiều sự
ủng hộ của các phái Đảng khác trong chính quyền Nhật Bản. Các Đảng phái
đối lập cho rằng đường lối ngoại giao của Shidehara là sự a dua và luồn cúi
Hoa Kỳ, làm cho Nhật bản như trở thành một quốc gia bị lệ thuộc nhiều vào
Hoa Kỳ mà khơng có sự phát triển mạnh hơn trong khi nếu đi theo đường lối
ngoại giao của phe qn phiệt thì có thể khẳng định vị thế của Nhật bản đối
với các cường quốc khác trên thế giới “Nhật Bản không phải là một nước yếu
thế”.


5<sub> Ngày 1 tháng 7 năm 1924, Hoa Kỳ bắt đầu thực hiện Luật Di dân nhằm hạn chế sự gia tăng phát triển của </sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(44)</span><div class='page_container' data-page=44>

41


Nhưng đối với Shidehara, ơng lại nhìn mối quan hệ Nhật – hoa Kỳ
khơng phải chỉ là sự kìm hãm phát triển mà nó cịn là sự đảm bảo về mặt an
ninh lãnh thổ Nhật bản. Nếu Nhật bản tiếp tục chay đua vũ trang, mua chiến
hạm và phát triển lực lượng hải quân thì sẽ làm cho chiến tranh nổ ra một lần
nữa, khi chiến tranh nổ ra thì Nhật Bản phải đối đầu với những cường quốc
đặc biệt là quân đội của Hoa Kỳ và Anh, điều này làm cho an ninh về lãnh thổ
của Nhật Bản bị đe dọa và có thể mất đi nền độc lập quốc gia.


</div>
<span class='text_page_counter'>(45)</span><div class='page_container' data-page=45>

42


tất cả những việc mà Shidehara là đều nhằm thu nguồn lợi ích kinh tế về cho
đất nước Nhật Bản chứ không phải là một đừng lối ngoại giao nhu nhược.


Một ví dụ khác về việc thực hiện đường lối của Shidehara ở Trung
Quốc đó là khi xảy ra những sự kiện ở Thượng Hải năm 1925 giữa công nhân
Trung Quốc và những người chủ Nhật Bản và Anh; hay sự kiện năm 1927 của
quân đội Tưởng Giới Thạch nhằm vào các đại sứ quán của nước ngoài tại


Trung Quốc, thay vị đưa ra sự cứng rắn về mặt quân sự làm cho tình hình hai
bên càng thêm căng thẳng thì Shidehara lựa chọn việc kết hợp với Hoa Kỳ và
Anh để tìm ra phương án giải quyết hợp lý làm giảm mức độ chịu thiệt hại
của Nhật bản đên mức thấp nhất bằng con đường ngoại giao hịa bình.


Sau khi thành lập Trung Hoa Dân Quốc, Tôn Trung Sơn đề xuất doanh
nghiệp cứu quốc, có khơng ít Hoa kiều kinh doanh tại Nhật Bản mời kỹ sư
Nhật Bản đến Trung Quốc mở nhà máy diêm, song các nhà máy này phải dựa
vào kỹ thuật, máy móc, nguyên liệu của Nhật Bản để sản xuất. Việc hợp tác
kinh doanh của Nhật bản tại Trung Quốc có những bước phát triển mới.
Nhưng đến năm 1925 Trung Quốc đưa ra hiệp định nhằm sửa đổi lại chế độ
thuế quan của những doanh nghiệp nước ngoài tại Trung Quốc. Điều này có
ảnh hưởng lớn đến với Nhật Bản. Theo lý ḷn của chính phủ Trung Quốc thì
họ muốn xóa bỏ đi những bản hiệp ước bất bình đẳng đã ký với các cường
quốc đang hoạt động tại Trung Quốc. Họ cho rằng việc tăng thuế đối với
những cơng ty nước ngồi là một điều tất yếu để các cường quốc thể hiện đối
với chủ nghĩa dân tộc ở Trung Quốc, vai trị của cơng y bản địa cũng phải
được đảm bảo.


</div>
<span class='text_page_counter'>(46)</span><div class='page_container' data-page=46>

43


của ông khi nước khác xâm phạm đến lợi ích kinh tế của Nhật Bản. Đường lối
ngoại giao của ông là vận dụng sự bảo hộ an toàn lãnh thổ Nhật bản của Hoa
Kỳ và Anh, đồng thời vận dụng khai thác và xây dựng nền kinh tế ở khu vực
Trung Quốc để thu nguồn lợi kinh tế về cho Nhật bản chứ không phải là sự
nhún nhường quá mức đối với Trung Quốc để ảnh hưởng đến lợi ích kinh tế
của Nhật Bản. Vì vậy ông không thể nào bỏ phiếu tàn thành cho việc tăng
thuế nhập khẩu bông của Trung Quốc là cho sản phẩm của Nhật Bản gặp khó
khăn khi cạnh tranh với hàng nội địa. Lợi nhuận mà Nhật bản thu lại bị giảm
đi thì khơng thể.



Đến năm 1927 khi hết nhiệm kỳ lần thứ nhất và tài đắc cử lần hai vào
năm 1929 thì Shidehara vẫn cố gắng bảo về và duy trì đường lối ngoại giao
hịa bình của bản thân mình nhưng tại thời điểm đó, nền kinh tế Nhật Bản đã
có những bước khởi sắc nhất định, vì thế nên phe qn phiệt đối lập đã khơng
cịn đề cao đường lối ngoại giao của ông mà họ tập trung vào sự phát triển
quân đội. Phe quân sự khi ấy lấy Hoa Kỳ và Liên Xô là kẻ thù của mình khi
nhũng hiệp ước bất bình đẳng nhằm thu hẹp quân sự của Nhật Bản được Hoa
Kỳ thực thi và mở rộng. Các nhà chính khách phe quân phiệt luôn cho rằng
việc phát triển quan hệ hợp tác hay là sự đảm bảo về an ninh lãnh thổ Nhật
Bản thông qua Hội nghị Washington là sự đảm bảo khơng an tồn, nó có thể
bị phá vỡ bất kỳ lúc nào bởi Hoa Kỳ và Anh. Để đảm bảo an toàn cho Nhật
Bản thì chỉ có một cách duy nhất là Nhật Bản phải xây dựng lực lượng quân
sự vững mạnh để tự bảo về chính bản thân mình. Chính sách của Shidehara
phá sản khi phe quân phiệt đưa quân đội Nhật bản tấn công vào Mãn Châu
gây ra chính biến Mãn Châu tại Trung Quốc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(47)</span><div class='page_container' data-page=47>

44


tồn cầu thì nền kinh tế Nhật Bản chính là một sự trống rỗng. Nguồn lợi thu
được từ trong chiến tranh cũng chưa phải là nguồn lợi lớn, đất nước mới chỉ
đang ở mức là một nước phát triển lớn mạnh tại khu vực Châu Á – Thái Bình
Dương chứ chưa thể lớn mạnh như các cường quốc như Hoa Kỳ, Anh hay
Liên Xơ. Vì thế việc làm của phe qn phiệt Nhật bản lúc bấy giờ là cố gắng
đầu tư cho phát triển chiến hamj và hải quân không phải là một đường lối
ngoại giao đúng đắn. Tại thời điểm đó ta cũng có thể tahays rõ sự kiếng kỵ
của các cường quốc phương tây đối với Nhật Bản khi Nhật bản lợi dụng cuộc
diện chiến tranh rối ren ở Châu Âu để tập trung phát triển và mở rộng sức ảnh
hưởng của mình ở Trung Quốc. Các nước lớn đặc biệt là Hoa Kỳ đã đưa ra
các bản hiệp ước nhằm chia lại thị trường tại Trung Quốc với mục đích chính


là làm gaimr sức mạnh của Nhật Bản. Nếu tại thời điểm đó Nhật Bản cố gắng
chạy theo cuộc chạy đua vũ trang và xảy ra xung đột vớ Hoa Kỳ thì kéo theo
đó là đối đầu trực diện với liên minh Hoa Kỳ - Anh. Đây là một rắc rối lớn
đối với Nhật khi khả năng lâm vào chiến tranh, đánh mất chủ quyền lãnh thổ
xảy ra rất cao. Vì tuy Hoa Kỳ và Anh chịu thiệt hại nặng nề trong chiến tranh
nhưng đây là hai cường quốc kinh tế lớn mạnh với nền kinh tế tương đối vững
chắc trong khi đó Nhật Bản mới là nước đang phát triển, kinh tế còn chưa
vững đồng thời hiện tại còn đang chịu sự giám sát của Hoa Kỳ thì khơng thể
nào có đủ sức mạnh để đối đầu trực tiếp với đồng thời cả hai nước này.


</div>
<span class='text_page_counter'>(48)</span><div class='page_container' data-page=48>

45


ổn định cục diện chính trị ở đất nước Trung Quốc để cho các doanh nghiệp
Nhật Bản tại đây có thể thu nguồn lợi ích về cho Nhật Bản chứ không phải là
muốn Trung Quốc thực sự phát triển. Quan điểm này của ông thể hiện rõ
trong thái ộ của ông đối với việc bảo về thương nhân và những chủ doanh
nghiệp Nhật Bản tại Trung Quốc khi xẩy ra csc vụ bạo động tranh giành chính
quyền. Tiếp đó là thái độ cứng rắn phản đối việc tăng thuế đối với mặt hàng
bông nhập khẩu của Nhật Bản tại Trung Quốc.


Việc giữ mối quan hề hịa bình hợp tác với Hoa Kỳ và Anh không chỉ
nhằm vận dụng quan hệ mậu dịch thương mại để xây dựng kinh tế. Hơn thế
nữa thì ơng muốn giữ quan hệ hịa bình hợp tác để Hoa Kỳ và Anh thực hiện
đúng theo các bản hiệp ước nhằm bảo về an ninh lãnh thổ Nhật bản mà không
bội ước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(49)</span><div class='page_container' data-page=49>

46


tại thời điểm đó thì chính sách ngoại giao hịa bình hợp tác nên được thay thế
bằng chính sách phù hợp hơn để mở rộng phát triển đất nước một cách toàn


diện, khẳng định được vị thế của Nhật Bản với các nước khác trên thế giới.
Kết quả của việc phát triển quân sự của Nhật Bản là việc chế độ quân phiệt
Nhật đã được hình thành và tham gia vào cuộc chiến tranh thế giới thứ II gây
ra những tổn thất nặng nề cho tồn thế giới nói chung và Nhật Bản nói riêng.
<b>2.2.</b> <b>Tư tưởng của phe quân phiệt về tăng cường phát triển quân sự </b>
<b>2.2.1.</b> <b>Nguyên nhân xuất hiện tư tưởng chủ nghĩa quân phiệt </b>


Bước sang những năm 30 của thế kỷ XX, cuộc khủng hoảng kinh tế thế
giới 1929-1933 đã có những ảnh hưởng to lớn trên cả thế giới và cũng ảnh
hưởng mạnh đến nền kinh tế của Nhật Bản. Kéo theo sự khủng hoảng kinh tế
là sự khủng hoảng về chính trị cũng có sự chuyển biến. Trong giai đoạn trước,
thực hiện chính sách hợp tác phát triển kinh tế của Bộ trưởng Shidehara thì
đến giai đoạn này chính sách đó đã trở nên khơng cịn phù hợp nữa. Việc hợp
tác và mở rộng phát triển kinh tế đã tạo ra một lượng sản phẩm công nghiệp
thừa, trong khi người dân thì khơng có khả năng sử dụng đến các sản phẩm
đó. Mối quan hệ hợp tác kinh tế giữa Nhật Bản và các nước phương Tây đã
kéo theo sự sụp đổ của nền kinh tế.


</div>
<span class='text_page_counter'>(50)</span><div class='page_container' data-page=50>

47


Nhật Bản giai đoạn này đã xảy ra tình trạng đình cơng của cơng nhân và bạo
loạn của nơng dân.


Đứng trước tình hình khủng hoảng trong nước, buộc chính phủ Nhật
Bản phải tìm ra con đường nhằm ổn định xã hội. Mục tiêu trước hết là tìm ra
con đường giải thoát cho đất nước. Các nhà cầm quyền đã nhận thấy con
đường hợp tác phát triển kinh tế đã khơng cịn phù hợp với Nhật Bản trong
giai đoạn này nữa, hơn nữa ý kiến này cũng nhận được sự dồng tình của nhân
dân Nhật Bản. Trong khi đó, các nước trong khu vực châu Á vẫn cịn chưa có
sự phát triển mạnh, vì thế mà mục tiêu mới được hướng tới tại đây là cần mở


rộng sức ảnh hưởng của Nhật bản trong khu vực. Thêm vào đó, tác động của
khủng hoảng ảnh hướng mạnh mẽ nhất đến giai cấp tư sản, đặc biệt là các tập
đoàn tư bản độc quyền ở Nhật Bản. Vì vậy những người đứng lên tìm hướng
giải quyết cho vấn đề này đầu tiên là các ơng chủ tập đồn tài phiệt. Đồng
thời các tập đoàn tài phiệt cũng lợi dụng luôn cuộc khủng hoảng kinh tế này
để đẩy mạnh sự chiếm hữu độc quyền của họ, giải quyết vấn đề tồn đọng hàng
và thiếu nguồn lương thực trước hết là sự mở rộng về bành trướng thế lực.


Tư tưởng này đã được sự đồng lịng chấp tḥn từ chính phủ Nhật Bản
và từ chính người dân Nhật thời điểm đó. Họ có thể mở rộng sức ảnh hưởng
của mình trong khu vực đồng thời tìm kiếm một nguồn thị trường mới cho
việc phát triển. Khi có thị trường tiêu thụ mới thì họ có thể giải quyết được
vấn đề tồn đọng hàng hóa và tìm được nguồn nguyên liệu, đặc biệt là vấn đề
về lương thực.


</div>
<span class='text_page_counter'>(51)</span><div class='page_container' data-page=51>

48


tranh Nhật – Thanh năm 1904 cũng đã thúc đẩy tư tưởng đánh chiếm vào thị
trường Trung Quốc. Dựa vào tình hình biến động trong nước của Trung Quốc
khi Đảng Cộng sản và Quốc dân đảng Trung Quốc ngày càng mở rộng sự ảnh
hưởng tại Trung Quốc và hạn chế dần quyền lợi của Nhật Bản tại khu vực
này, cũng như vị trí địa lý và sức tiêu thụ của thị trường mà Nhật Bản đã lựa
chọn Mãn Châu làm mục tiêu cho cuộc tấn công bành trướng lãnh thổ của
mình. Khi chiếm được Mãn Châu, Nhật Bản khơng chỉ có được một thị
trường mới “màu mỡ” mà Mãn Châu còn thể đáp ứng được yêu cầu trở thành
một vùng đệm cho việc đối phó với Nga khu vực phía bắc.


Để tạo nên cuộc chiến tranh này, ngày 18 tháng 9 năm 1931 bên phía
Nhật Bản đã cố tình tạo ra sự kiện làm hỏng đoạn đường sắt gần ga Phụng
Thiên (nay thuộc tỉnh Thẩm Dương) để dổ lỗi cho bên phía chính phủ Trung


Quốc rồi đem quân sang đánh chiếm toàn bộ khu vực Mãn Châu. Sự kiện này
diễn ra nhanh chóng mà bên phía Trung Quốc cũng chưa kịp có những hành
động đáp trả với chính phủ Nhật Bản nên không kịp thời điều động quân đội
đến Mãn Châu. Kết quả là, quân đội Nhật Bản mà ở đây là phía lục qn đã
hồn toàn chiếm được Mãn Châu, xây dựng bộ máy “bù nhìn” nhằm quản lý
và kiểm sốt hồn tồn khu vực Mãn Châu. Chính sự kiện này đã đánh dấu
cho sự sụp đổ hoàn toàn của đường lối ngoại giao theo hướng hợp tác phát
triển kinh tế mà Bộ trương Shidehara đã xây dựng trong giai đoạn trước đó.
Hành động này của Nhật Bản đã nhận lại những lời chỉ trích, lên án của dự
luận thế giới. trước tình hình đó, Shidehara – Thủ tướng tạm thời6<sub>, đã chủ </sub>
trương phải dẹp ngay cho được cuộc biến loạn này. Kết cuộc, chính phủ nghe
theo ý kiến của ông và Thủ tướng Wakatsuki đã ra tuyên ngôn "không mở
rộng thêm chiến tranh", yêu cầu hai bên Trung Nhật không nên có những
hành động quân sự vượt xa hơn nữa.


6<sub>Năm 1931, Thủ tướng Hamaguchi bị kẻ khủng bố bắn trọng thương, Ngoại trưởng Shidehara Kijuurô giữ </sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(52)</span><div class='page_container' data-page=52>

49


Dù vậy, quân Quan Đông (Nhật Bản) vẫn không thèm đếm xỉa đến
quyết định của nội các, tiếp tục hành động quân sự. Bởi vì trước đó, Bộ tư
lệnh trung ương của quân đội –trước đây đã có những bức cúc vì những hạn
chế do chính sách ngoại giao của Shidehara - đã ngầm cho phép đám kiêu
binh kia bước thêm bước nữa. Sự bất mãn của phía quân đội với nội các cịn
thể hiện trong chính suy nghĩ của họ rằng: chỉ có quân đội mới chỉ huy được
quân đội, chứ nội các khơng có quyền ra lệnh bắt họ phải ngưng chiến đấu.
Thêm vào đó, dư luận báo chí tại thời điểm đó lại liên tục có những lý luận
rằng: "Nếu Mãn Châu trở thành thuộc địa, Nhật Bản chúng ta sẽ thoát ra được
cuộc khủng hoảng kinh tế Shơwa này!". Lịng mong mỏi đó đã trở thành hậu
thuẫn cho hành động háo chiến, một liều thuốc bổ gây hứng phấn cho đám


quân nhân và chính người dân Nhật Bản đang hứng chịu hậu quả của khủng
hoàng kinh tế.


</div>
<span class='text_page_counter'>(53)</span><div class='page_container' data-page=53>

50


thực hiện nốt công việc dang dở của cuộc Minh Trị duy tân để xây dựng Nhật
Bản trở thành một cường quốc phát triển tồn diện. Những người cản trở cơng
cuộc này thì bên phái sĩ quan trẻ tuổi sẵn sàng tiến hành ám sát. Chính những
hành động như vậy đã làm giảm đi sức ảnh hưởng của nội các đối với chính
trị Nhật Bản, quân đội trực tiếp tham gia vào các quyết định của chính phủ
ngày càng tăng lên. Bước ngoặt quan trọng nhất trong nền chính trị Nhật Bản
tại thời điểm đó là sự kiện ngày 26 tháng 2 năm 1936 một nhóm các sĩ quan
trẻ tuổi gồm 22 người với sự ủng hộ của 1400 hạ sĩ quan đã tiến hành một
cuộc đảo chính vưới mục tiêu là loại trừ “tất cả các nguyên lão trọng thần,
quân phiệt, tài phiệt, quan chức chính phủ và chính đảng” để thành lập một
chính quyền độc tài. Những cuộc đảo chính này nhanh chóng đã bị thất bại,
nó làm tiền đề cho sự phát triển của chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản.


Khi chủ nghĩa quân phiệt lên cầm quyền thì mục tiêu mà họ đặt ra là sử
dụng quân đội để kiểm sốt tồn bộ chính phủ dân sự cũng như các chính
sách đối ngoại của Nhật Bản, từ đó biến chính quyền Nhật Bản trở nên phát
xít hóa. Việc đầu tiên mà họ tiến hành đó chính là thay đổi quan niệm, suy
nghĩ của tất cả người dân Nhật Bản. Vì thế cần phải phát triển, mở rộng và
đưa quan niệm Quốc thể (Kokutai) đã xuất hiện từ sau “chính biến Mãn
Châu” trở thành lý luận.


</div>
<span class='text_page_counter'>(54)</span><div class='page_container' data-page=54>

51


Hành động in sách của chính quyền quân phiệt là một hành động đầy
triệt để nhằm hình thành nên suy nghĩ của người Nhật Bản tại thời điểm đó.


Vì những nhà cầm quyền nhận thấy rõ vai trò của quần chúng nhân dân trong
việc xây dựng nên bộ máy vững mạnh, họ cần sự đồng lòng ủng hộ của toàn
bộ người dân Nhật Bản mới có thể tận dụng được sự giúp đỡ của nhân dân.
Khi tiến hành mở rộng sự bành trướng mà chính nội bộ đất nước họ bị sự
phản đối của nhân dân thì sự nghiệp của họ sẽ không thể thành được. Cũng
như các chính quyền khác trên thế giưới, thì giới cầm quyền Nhật Bản đã phải
dựa vào niềm tin tôn giáo để lôi kéo sự ủng hộ của người dân. Họ sử dụng
chính Thiên hồng – niềm tin tín ngưỡng của nhân dân Nhật Bản – để thực
hiện việc tuyên truyền. Niềm tin này được hình thành trong tư tưởng của toàn
bộ nhân dân Nhật Bản rằng: họ là dân tộc cao hơn so với các dân tộc khác,
Thiên hồng của họ chính là hậu duệ của Nữ thần Mặt trời và việc họ đi theo
và ủng hộ Thiên hồng là hồn tồn đúng đắn. Chính vì tất cả mọi việc đều
được bắt đầu từ trong suy nghĩ của mọi người dân Nhật mà chế độ độc tài ở
đây hình thành một cách từ từ chậm chạp mà không phải trải qua bất kỳ một
cuộc chiến tranh đảo chính thay đổi lớn như các nước Đức và Ý. Vì vậy, với
tư cách là một quốc gia khao khát có được sự cơng nhận từ những quốc gia
phương Tây, sự tôn trọng sớm biến thành sự thù hận, các nước này đã chuyển
từ đối thủ cạnh tranh sang “kẻ thù” trong con mắt người Nhật Bản. những thái
độ chống đối phương Tây ngày càng rõ rệt hơn, từ đó mà chủ nghĩa dân tộc
Nhật Bản đã nhanh chóng trở thành chủ nghĩa cực đoan.


<b>2.2.2.</b> <b>Sự thay đổi của Nhật Bản trước sự lớn mạnh của chủ nghĩa quân </b>
<b>phiệt </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(55)</span><div class='page_container' data-page=55>

52


nhiên phá bỏ các quy định tại hòa ước Versailles7<sub> đồng thời tuyên bố rút khỏi </sub>
Hộ Quốc liên. Chính những hành động này của Đức đã khiến cho giới cầm
quyền của Nhật Bản chú ý đến, Nhật Bản nhận thấy rằng con đường mà Đức
đang đi phù hợp với lý tưởng bành trướng thế lực của Nhật Bản. Vì vậy mà


Đức sẽ là một đồng minh rất phù hợp. Kết quả, ngày 25 tháng 11 năm 1936
Nhật Bản và Đức đã tiến hành ký “Hiệp ước chống Quốc tế Cộng sản” , tiếp
sau đó là sự tham gia của Ý đã hình thành một trục phát xít
Berlin-Roma-Tokyo. Hơn thế nữa, trong nội bộ chính phủ Nhật Bản cũng đã có sự thay đổi
lớn, công tước Konoe Fumimaro (1891-1945) – một người có quan hệ chặt
chẽ vưới phe tài phiệt và các nhóm qn sự phát xít – lên làm thủ tướng, nội
các đã hoàn toàn thuộc quyền quản lý của phe quân phiệt.


Ta có thể nhận thấy Nhật Bản đã tạo đồng minh mạnh mẽ cho bản thân
mình nhằm nâng cao sức ảnh hưởng của quốc gia và cản trở việc Trung Quốc
dựa vào Liên Xô để chống lại Nhật Bản. Khi bản hiệp ước chống quốc tế
Cộng sản được ký kết giữa ba quốc gia thì Nhật cảm thấy quốc gia của mình
đã có thế ngang tầm vị thế với Mỹ và Liên Xô. Nhật Bản khơng cịn là một
quốc gia đơn lẻ mà đã có khối liên minh hình thành nhằm hiện thực hóa lý
tưởng của quốc gia. Để nâng cao uy thế của quốc gia trơng nền chính trị thế
giới, Nhật Bản đã tiến hành mở cuộc chiến tranh xâm lược Trung Quốc. Với
những thắng lợi lớn trên chiến trường Trung Quốc, Nhật Bản dựa trên “Trật
tự mới” mà chính quyền Hitler đã xây dựng tại châu Âu để thiết lập “Trật tự
mới ở Đông Á” (11/1937) nhằm xác lập lại sự thống trị của Nhật Bản tại Mãn
Châu và nhiều nơi khác. Trật tự này tuyên bố với Liên Xô và chính quyền
Trung Quốc về tầm ảnh hưởng của Nhật Bản tại những khu vực này và ngăn
cản sự can thiệp của các thế lực khác tại vùng ảnh hưởng của Nhật Bản. Do
trong thời gian trước tuy Nhật Bản đã chiếm được và xây dựng chính quyền
bù nhìn tại Mãn Châu nhưng vẫn vấp phải sự phản đối gay gắt từ dư luận bên
7<sub>Hòa ước Versailles năm 1919 là hịa ước chính thức chấm dứt cuộc Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914 – </sub>


</div>
<span class='text_page_counter'>(56)</span><div class='page_container' data-page=56>

53


ngồi. Đồng thời Nhật Bản ln cố phải đưa ra các biện pháp để chống lại sự
liên minh giữa chính phủ Trung Quốc và Liên Xơ nhằm chiếm lại khu vực


Mãn Châu. Nhưng chính việc mở rộng chiến tranh và thiết lập trật tự mới đã
giúp Nhật Bản hoàn toàn khẳng định được chủ quyền của mình tại Mãn Châu
một cách hợp lý.


Nhìn thấy những lợi ích mà cuộc chiến tảng xâm lược mang lại, chính
phủ Nhật Bản đã ban hành luật “Tổng động viên toàn quốc”, theo đó chính
phủ có quyền trưng dụng và huy động vật tư cũng như sức lao động của quần
chúng, đồng thời cũng động viên dân chúng tập trung phát triển ngành cơng
nghiệp qn sự. Từ chính tình hình của Nhật Bản ta cũng có thể hiểu được vì
sao mà nhân dân lại đồng lịng ủng hộ cho chính phủ. Đối với nhân dân Nhật
Bản tại thời điểm đó, khi họ vừa phải đối mặt với những tổn thất nặng nề từ
cuộc khủng hoàng kinh tế, chính phủ lại tiến hành truyền bá tư tưởng Kokutai
đến tất cả quần chúng. Hơn thế nữa họ nhận thấy kết quả của các cuộc chiến
tranh nhằm thu lợi nhuận về cho đất nước. Quần chúng nhân dân thấy được
việc làm của chính phủ hồn tồn phù hợp với mục tiêu “khẳng định vị thế
của Nhật Bản với các nước khác trên thế giới” chính vì vậy mà họ đồng ý với
quyết định của chính phù đã đề ra. Ta càng thêm khẳng định vai trò của giao
dục tư tưởng đơií vưới một quốc gia. Khi tư tưởng của nhân dân được chính
giới cầm quyền điều khiển thì lợi ích mà giới cầm quyền thu lại là rất lớn. Tất
cả những việc làm mà đôi khi theo dư luận thế giới là sự tàn ác vơ nhân tính
nhưng bằng cách truyền bá tư tưởng độc tôn dân tộc đã khiến cho nhân dân
Nhật Bản hoàn toàn thay đổi. Toàn bộ nhân dân một lòng hướng về sự phát
triển quân sự, xã hội Nhật Bản tập trung chạy đua vũ trang, tiến tới các cuộc
chiến tranh tại khu vực châu Á – Thái Bình Dương và tham gia vào chiến
tranh Thế giới thứ hai.


</div>
<span class='text_page_counter'>(57)</span><div class='page_container' data-page=57>

54


quan hệ của Nhật với Mỹ càng căng thẳng hơn. Đến năm 1939, chính phủ Mỹ
thơng báo là Hiệp định thông thương và hàng hải ký giữa Nhật Bản và Mỹ ký


từ xưa sẽ khơng cịn hiệu lực kể từ năm sau (tức là năm 1940) vì Mỹ khơng
thể nào nhẫn nhục với Nhật hơn nữa.


Bởi lẽ lúc đó quân đội Nhật Bản đã có vùng ảnh hưởng lớn của mình
tại khu vực Mãn Châu mà Mỹ không thể can thiệp được và cả nước Nhật
đang ở trên con đường quân quốc chủ nghĩa. Nội các cũng đã ngả về phía
quân đội, nhìn nhận Mãn Châu Quốc và đang tiến hành cuộc chiến tranh toàn
diện đối với Trung Quốc ngay trên đại lục. Trước thái độ ngoại giao ương
ngạnh của Nhật, một nước có lý tưởng bảo vệ quyền dân tộc tự quyết và nền
hồ bình thế giới (như Woodrow Wilson, nhà lãnh đạo của họ từng tuyên bố
trong điều 5 của Hịa ước Versailles 1919) thì chẳng lẽ điềm nhiên tọa thị.


Dù vậy, chính phủ Nhật đã có một phản ứng với hiệu quả ngược lại khi
bị Mỹ ra thông báo chấm dứt hiệp ước. Họ thầm nghĩ: “Trong trường hợp
nguồn vật tư phải mua của Mỹ cho đến nay bị gián đoạn, Nhật Bản sẽ không
thể tiếp tục chiến đấu với Trung Quốc. Chỉ cịn có cách đánh lấn xuống
phương Nam”. Thế nhưng họ khơng thể nói trắng ra rằng: “Để đánh nhau với
Trung Quốc, chúng tơi cần dầu hỏa và bơ-xít (ngun liệu để chế nhôm), cao
su, vậy chúng tôi phải tiến quân xuống miền Nam kiếm nó! Họ bèn dùng
những lời hoa mỹ như: “Chúng tôi muốn xây dựng một Khu vục thịnh vượng
chung Đại Đông Á (Daitôa Kyôeiken = Đại Đông Á cộng vinh quyển).


</div>
<span class='text_page_counter'>(58)</span><div class='page_container' data-page=58>

55


biệt quân đội Nhật, luôn thống nhất tuyên bố với thế giới: Với tư cách là kẻ
lãnh đạo vùng Đông Á, Nhật sẽ thiết lập một nền kinh tế và một nền văn hoá
lớn cho cả khu vực, để mọi thành viên có thể sống cộng tồn cộng vinh trong
sự tự cung tự cấp. Qua cách nói đó, họ đã có một lý do chính thức cho việc
đưa quân đội tiến đến chiếm phương Nam.



Trong bản cương yếu về quốc sách chính phủ Konoe đề ra: Hiện nay
trên thế giới đã chia ra thành nhiều khối (cụm quốc gia), trong mỗi khối, có
các thể chế chính trị, kinh tế, văn hóa đang thành hình và dự đốn rằng Đại
Đông Á mà họ cấu tưởng cũng sẽ là một khối như thế.


</div>
<span class='text_page_counter'>(59)</span><div class='page_container' data-page=59>

56


<b>2.2.3.</b> <b>Sự thay đổi của xã hội Nhật Bản sau chiến tranh Thế giới thứ hai </b>
Với những thất bại liên tiếp trên chiến trường châu Á – Thái Bình
Dương cùng việc gánh chịu hậu quả nặng nề bởi 2 quả bom nguyên tử do Mỹ
ném xuống tại Hiroshima (ngày 6 tháng 8 năm 1945) và Nagasaki (ngày 9
tháng 8 năm 1945), Nhật Bản đã chính thức chấp thuận những điều khoản đầu
hàng trong Tuyên bố Potsdam ký ngày 27 tháng 6 năm 1945 tại Potsdam
(Đức) mà lực lượng Đồng minh đưa ra (Tuyên bố Potsdam). Tuyên bố
Potsdam còn chỉ rõ Nhật Bản sẽ phải chịu sự chiếm đóng của Đồng minh (từ
năm 1945 đến năm 1952), các tội phạm chiến tranh sẽ bị truy tố, quân đội bị
tước vũ khí và chế độ độc tài sẽ chấm dứt.


Ngày 15 tháng 8 năm 1945, lần đầu tiên trong lịch sử, nhân dân Nhật
được nghe tiếng nói của Thiên hồng trên đài truyền thanh. Đó là lời tuyên bố
nước Nhật đầu hàng Đồng minh không điều kiện. Ngày 2 tháng 9 năm 1945,
các nước Đồng minh gồm Anh, Pháp, Australia và Mỹ đã chính thức tiếp
nhận sự đầu hàng của Nhật trên chiến hạm Missouri của Mỹ tại Vịnh Tokyo.
Mỹ sẽ thay mặt quân Đồng minh đóng chiếm tại Nhật và vùng trước kia thuộc
Nhật ở Micronesia. Tổng thống Mỹ lúc bấy giờ là Harry Truman (1884-1972)
đã bổ nhiệm tướng Douglas MacArthur (1880-1964) làm Tư lệnh Tối cao của
Các lực lượng Đồng minh (Supreme Commander of Allied Powers).


Kết thúc chiến tranh Thế giới thứ hai, Nhật Bản là một nước thua trận
và bị tàn phá nặng nề cả về tài sản và con người. Theo điều tra của cơ quan ổn


định kinh tế thì mức thiệt hại về tài sản của Nhật Bản bằng tổng lượng tích
lũy trong suốt 10 năm (1935-1945) đã bị tiêu hủy hoàn toàn. Về con người, số
người thiệt mạng trong chiến tranh, tính từ cuộc chiến tranh Trung – Nhật
(1937) đã lên đến hơn ba triệu người.


</div>
<span class='text_page_counter'>(60)</span><div class='page_container' data-page=60>

57


ngành công nghiệp quân sự bị thất nghiệp và số lượng binh sĩ giải ngũ từ các
thuộc địa của Nhật quay trở về quê hương nhưng khơng có cơng việc để làm.
Để giải quyết những vấn đề của xã hội, chính phủ buộc phải đưa ra những cải
cách mới để thúc đẩy phát triển kinh tế.


Lợi dụng tình hình của thế giới sau chiến tranh, do những bất đồng và
mâu thuẫn với Liên Xơ ngày càng sâu sắc vì thế Mỹ đã lựa chọn Nhật Bản trở
thành một vùng đệm, “một bức tường chống cộng sản” của mình tại khu vực
châu Á – Thái Bình Dương. Mỹ đã chủ trương đẩy mạnh sự phục hồi kinh tế
tại Nhật Bản, xây dựng khu quân sự của Mỹ tại Okinawa. Các hành động của
Mỹ nhằm khối phục Nhật Bản bao gồm: viện trợ lương thục để giải quyết nạn
đói, giúp đỡ về y tê sđể ngăn chặn nạn dịch bệnh; tiếp sau đó là hàng loạt các
viện trợ về dầu mỏ, quặng sát, các nguyên liệu khác để khôi phục lại các
ngành công nghiệp. những viện trợ của Mỹ đã bước đầu giúp cho Nhật Bản
khôi phục dần lại nền kinh tế đạt mức độ giống thời kỳ trước chiến tranh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(61)</span><div class='page_container' data-page=61>

58


tuyên bố từ bỏ chiến tranh, khơng có lực lượng qn đội mà chỉ duy trì một
lực lượng phịng vệ với số lượng hạn chế chỉ để đảm bảo an ninh quốc gia.


</div>
<span class='text_page_counter'>(62)</span><div class='page_container' data-page=62>

59
<b>Tiểu kết </b>



Ta có thể nhận thấy, tuy có mâu thuẫn về nội dung nhưng cả hai đường
lối ngoại giao đều nhằm phát triển Nhật Bản, khẳng định vị thế quốc gia trên
thế giới. Con đường phát triển bằng cách hợp tác phát triển kinh tế của Bộ
trưởng Shidehara đưa ra tại thời điển sau Hội nghị Washington là một sự lựa
chọn sáng suốt tại thời điểm đó. Nếu Nhật Bản khơng dừng chạy đua vũ trang
thì phải đối mặt với cả hai quốc gia là Anh và Hoa Kỳ trong khi đó, Hoa Kỳ
đã cố gắng tìm cách kìm nén sự phát triển của Nhật Bản – một đối thủ có thể
phát triển lớn mạnh ảnh hưởng đến lợi ích của Hoa Kỳ, thì rất có thể Hoa Kỳ
lợi dụng lý do này để tán công Nhật Bản. Đường lối hợp tác phát triển khơng
những có thể làm dịu đi mối quan hệ căng thẳng với các quốc qia khác, đồng
thời cịn khiến nền kinh tế phục hồi, ổn định tình hình trong nước. Nhưng do
Shidehara chịu ảnh hưởng quá nhiều của nền giáo dục phương Tây nên đường
lối của ơng cị mang nặng khuynh hướng tơn sùng Hoa Kỳ nên bị giới quân
phiệt cho rằng “núp bóng” Hoa Kỳ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(63)</span><div class='page_container' data-page=63>

60
<b>KẾT LUẬN </b>


Câu hỏi mà tôi đã dặt ra ngay từ đầu bài nghiên cứu của mình là:
Những nhân tố nào đã khiến cho tình hình của Nhật Bản có những thay đổi
như thế? Liệu rằng nếu sự thay đổi này diễn ra chỉ do một phía từ các nhà
lãnh đạo thì có đẫn đên thành cơng như vậy? Hay cần phải có sự hiệp sức
đồng lịng của toàn bộ nhân dân nước Nhật? Cũng tại thời điểm cuối thời kỳ
phong kiến, những nhà cải cách Việt Nam cũng có những ý kiến thay đổi đất
nước nhưng những ý kiến này lại không nhận được kết quả như tại Nhật Bản
vì: các nhà lãnh đạo Nhật Bản đã vận dụng thành công chủ nghĩa dân tộc để
tạo dựng niềm tin trong lịng dân chúng. Chính quan niệm “Quốc thể”
(Kokutai) đã tạo nên niềm tin vững chắc của tất cả nhân dân vào những quyết
định của Thiên Hoàng, toàn bộ Nhật Bản tiến hành thay đổi từ trong chính


suy nghĩ đến hành động. Còn ở Việt Nam chưa thành công một phần là do
những nhà canh tân mới tập trung đưa ra cac sý tưởng của mình dựa trên lý
thuyết và trình bày lên nhà vua chứ chưa tạo được một lý luận cụ thể để khơi
dậy chủ nghĩa dân tộc trong lòng nhân dân nên chúng ta chưa thành công.


</div>
<span class='text_page_counter'>(64)</span><div class='page_container' data-page=64>

61


dừng việc phát triển quân sự và lại tập trung vào phát triển kinh tế. Nhưng đến
giai đoạn những năm 1930 khi kinh tế đã phát triển đến mức độ ổn định thì
Nhật lại tiếp tục chuyển hướng phát triển của đất nước sang con đường quân
sự.


Thất bại tại chiến tranh Thế giới thứ hai đã gây ra tổn thất nặng nề cho
Nhật Bản, buộc Nhật Bản phải tạm dừng việc phát triển quân sự, điều này
được ghi rõ trong Hiến pháp Nhật Bản (1946).


Nhưng đến thời điểm hiện tại, khi Nhật Bản đang là một trong “Bốn
con rồng châu Á”, kinh tế đạt mức phát triển cao thì Nhật Bản lại cố gắng tiếp
tục đẩy mạnh phát triển quân sự để trở thành một quốc gia toàn diện, tăng vị
thế quốc gia trong nền chính trị thế giới bằng cách sửa đổi Điều 9 trong Hiến
pháp 1946. Qua những hành động của Nhật Bản ta có thể thấy được suy nghĩ
muốn khẳng định vị thế quốc gia của Nhật Bản rất mạnh mẽ. Tuy là một nước
nhỏ nằm ở khu vực Đông Bắc Á nhưng chính chủ nghĩa dân tộc trong tư
tưởng của người dân Nhật Bản tiêu biểu là giai cấp cầm quyền rất mạnh mẽ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(65)</span><div class='page_container' data-page=65>

62


<b>DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO </b>
<b>Sách tiếng Việt </b>



1. Ire Akira (2013), <i>Ngoại giao Nhật Bản</i>, Nxb Tri thức, Hà Nội.


2. Thích Thiện Ân (1965), <i>Lịch sử tư tưởng Nhật Bản</i>, Nxb Đông Phương,


Sài Gịn.


3. Ngơ Xn Bình (2000), <i>Chính sách đối ngoại của Nhật Bản thời kỳ sau </i>


<i>chiến tranh lạnh</i>, Nxb Khoa học và Xã hội, Hà Nội.


4. Nigel Holloway-Philip Bowring (1992), <i>Chân dung nước Nhật ở Châu Á</i>,
Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội.


5. R.M.H. Mason & J.G. Caiger (2003), <i>Lịch sử Nhật Bản</i>, Nxb Lao động,


Hà Nội.


6. Hội biên tập Từ điển lịch sử Nhật Bản (1990), <i>Nihonshi jiten</i>, Tokyo,
Sogensha.


7. Roger, F. Hackett (1959),, “<i>Nishi Amane: A Tokugawa-Meiji Bureaucrat</i>”


(Một quan viên của hai chính quyền Tokugawa và Meiji), trong Journal of
Asian Studies, XVII, 2.


8. Nguyễn Quốc Hùng (2012), <i>Lịch sử Nhật Bản</i>, Nxb Thế Giới.


9. Nguyễn Văn Hồng (1994), <i>Lịch sử giáo dục thời Minh Trị Duy tân</i>, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.



10. Hisao Kanamori (1994), <i>Thành công của Nhật Bản – Những bài học về </i>


<i>phát triển kinh tế</i>, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.


11. Katsuta Shuichi và Nakauchi Toshio (2001), <i>Giáo dục Nhật Bản</i>, Hội
thông tin giáo dục quốc tế, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.


12. Ishida Kazuyoshi (1972), <i>Nhật Bản tư tưởng sử,</i> tập 1, Nguyễn Văn Tần
dịch, Tủ sách Kim Văn, Sài Gòn.


13. Ishida Kazuyoshi (1972), <i>Nhật Bản tư tưởng sử,</i> tập 2, Nguyễn Văn Tần
dịch, Tủ sách Kim Văn, Sài Gòn.


14. Nguyễn Văn Kim (2003), <i>Chính sách đóng cửa của Nhật Bản thời kỳ </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(66)</span><div class='page_container' data-page=66>

63


15. Nguyễn Văn Kim (1998), “Nhật Bản cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII
quan con mắt của giáo sĩ Allesandro Valihnano”, <i>Tạp chí Nghiên cứu lịch </i>
<i>sử</i>, số 2-3.


16. Phan Hải Linh (2010), <i>Bài giảng chuyên đề Nghiên cứu Nhật Bản: Lịch </i>


<i>sử Văn hóa - Xã hội</i>, Bộ mơn Nhật Bản học, Nxb Thế giới.


17. Phan Hải Linh (2011), <i>Bài giảng chuyên đề Nghiên cứu Nhật Bản: Pháp </i>


<i>chế và Xã hội, Bộ môn Nhật Bản học</i>, Nxb Thế giới.


18. Nguyễn Tiến Lực (2011), <i>Nhật Bản và Việt Nam, phong trào văn minh </i>



<i>hóa cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX</i>, NXB Giáo dục Việt Nam.


19. Nguyễn Tiến Lực (2010), <i>Minh Trị Duy tân và Việt Nam</i>, Nxb Giáo dục


Việt Nam, Hà Nội.


20. C. Mác – Angghen – Lenin (1975), <i>Bàn về các xã hội tiền tư bản</i>, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.


21. R.M.H. Mason & J.G. Caiger (2003), <i>Lịch sử Nhật Bản</i>, Nxb Lao Động,


Hà Nội.


22. Michio Morishoma (1991), <i>Tại sao Nhật Bản thành cơng? Cơng nghệ </i>


<i>phương Tây và tính cách Nhật Bản</i>, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.


23. Nakayama Shigeru (1993), <i>Nước Nhật thời hậu chiến</i>, Viện Nghiên cứu
chủ nghĩa Mác Lenin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, Tp.Hồ Chí Minh.


24. Nakane Chie (1990), <i>Xã hội Nhật Bản</i>, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
25. Đào Huy Ngọc (1991), <i>Vài suy ngẫm về sự thần kỳ Nhật Bản</i>, Viện quan


hệ quốc tế, Hà Nội.


26. Nguyễn Khắc Ngữ (1969), <i>Nhật Bản Duy tân dưới thời Minh Trị Thiên </i>


<i>hồng</i>, Nxb Trình bày, Sài Gòn.



27. Đào Trinh Nhất (1936), <i>Nước Nhựt Bổn 30 năm Duy tân</i>, Huế.


28. Hoàng Khắc Nam (2011), <i>Quyền lực trong quan hệ quốc tế: Lịch sử và </i>


<i>vấn đề</i>, Nxb Văn hóa – Thơng tin, Hà Nội


29. Vũ Dương Ninh, <i>Phong trào cải cách ở một số nước Đông Á (giữa thế kỉ </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(67)</span><div class='page_container' data-page=67>

64


30. A.V. Pronnikov & I.D. Ladanov (1991), <i>Người Nhật</i>, Nxb Tp. Hồ Chí
Minh.


31. Edwin O. Reischauer (1994), <i>Nhật Bản quá khứ và hiện tại</i>, Nxb Khoa
học và xã hội, Hà Nội.


32. Lê Văn Sang, Lưu Ngọc Trịnh (1991), Nhật Bản đường đi tới một siêu
cường kinh tế, Nxb Khoa học và xã hội, Hà Nội.


33. G.B. Sansom (1990), <i>Lược sử văn hóa Nhật Bản</i>, tập 1, Nxb Khoa học và
xã hội, Hà Nội.


34. G.B. Sansom (1990), <i>Lược sử văn hóa Nhật Bản</i>, tập 2, Nxb Khoa học và
xã hội, Hà Nội.


35. G.B. Sansom (1994), <i>Lịch sử Nhật Bản</i>, tập 1, Nxb Khoa học và xã hội,
Hà Nội.


36. G.B. Sansom (1994), <i>Lịch sử Nhật Bản</i>, tập 2, Nxb Khoa học và xã hội,
Hà Nội.



37. G.B. Sansom (1994), <i>Lịch sử Nhật Bản</i>, tập 3, Nxb Khoa học và xã hội,
Hà Nội.


38. Vĩnh Sính (1990), <i>Nhật Bản cận đại</i>, Văn hóa Tùng thư.


39. Châm Vũ Nguyễn Văn Tần (1959), <i>Nhật Bản sử lược</i>, quyển 1, Sài Gòn.
40. Châm Vũ Nguyễn Văn Tần (1959), <i>Nhật Bản sử lược</i>, quyển 2, Sài Gòn.
41. Châm Vũ Nguyễn Văn Tần (1959), <i>Nhật Bản sử lược</i>, quyển 3, Sài Gòn.
42. Okubo Toshikane biên tập (1967), <i>Meiji keimô shisô shû (Tư tưởng khải </i>


<i>mông thời Minh Trị: Tuyển tập)</i>, Tokyo: Chikuma Shobo.


43. Lưu Minh Văn (2014), <i>Chủ nghĩa khu vực mới và sức mạnh mềm của </i>


<i>Nhật Bản,</i> Nghiên cứu Đông Bắc Á.


44. M.Y.Yoshino (1986), <i>Hệ thống quản lý của Nhật Bản – truyền thống và </i>


<i>đổi mới</i>, tập 1, Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Kinh tế thế giới.


45. M.Y.Yoshino (1986), <i>Hệ thống quản lý của Nhật Bản – truyền thống và </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(68)</span><div class='page_container' data-page=68>

65


46. Yutaka Kosai (1991), Kỷ nguyên tăng trưởng nhanh – những nhận xét về
nền kinh tế Nhật Bản sau chiến tranh, Viện Kinh tế thế giới, Hà Nội.


<b>Sách tiếng Nhật: </b>



47. 著作者石井進 (2001), 詳説日本史, 山川出版社,
<b>Luận văn: </b>


48. Luận văn Ths. Võ Minh Vũ (2005), <i>Cải cách địa tô ở Nhật Bản thời </i>


<i>Minh Trị</i>, Bộ môn Nhật Bản.


<b>Trang Wed </b>


</div>

<!--links-->

×