Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.59 MB, 10 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<i><b>Nguyễn Thị Bích Ha</b></i>
Như vậy, tín ngưỡng là một sản phẩm văn hoá do con người quan hệ
với tự nhiên, xã hội và chính bản thân mà hình thành.
Khái niệm tín ngưỡng và tơn giáo có nhiều chỗ gần gũi với nhau vì nó
cùng cỏ nguồn gốc từ lòng tin tuyệt đối vào một đấng cao siêu huyền bí nào
đó, nhưng chúng cũng có nhiều điểm khác nhau. Tôn giáo với tư cách một
giáo lí, giáo pháp chính là sự phát triển một tín ngưỡng, được cộng đồng thể
chế, quy phạm hoá cao độ. Mỗi tôn giáo cần có: Một vị giáo chủ đứng đầu
(Chúa Trời, đức Phật Thích Ca, Lão Tử); Một hệ thống giáo lí; Một hệ thống
thể chế, nghi lễ thờ tự và nơi thờ tự; Một hệ thống tổ chức gồm giáo luật
nghiêm chinh, giáo hội với các tín đồ.
Tơn giáo dân gian không hẳn là tôn giáo với những thể cách trên, nó
chù yếu mới là sự sùng tín, nó nằm trong tâm thức của con người, trong sinh
hoạt dân dã và được biểu hiện ra chủ yếu trong phong tục tập quán sinh hoạt
chứ chưa được thể chế hóa hay trở thành giáo luật. Các nhà nghiên cứu
thường gọi chung đối tượng này là tín ngưỡng, tín ngưỡng dân gian hoặc đôi
Tín ngưỡng dân gian Việt Nam chủ yếu dựa trên lòng biết ơn và ngưỡng
mộ của các thế hệ sau đối với tiền thần, tiền nhân. Ngồi những tín ngưỡng
riêng mà mỗi tộc người có thể có khác nhau, tín ngưỡng dân gian Việt Nam
khá phong phú, nó là tâm thức tơn sùng các lực lượng siêu nhiên như:
- Tôn sùng tự nhiên (mặt trời, mặt trăng, nước, mưa, gió, sấm, chóp...)
- Tơn sùng các loại cây trồng (bầu bí, lúa, ngơ, đậu...), vật ni (trâu,
bị, lựn, chó, cừu...)
- Tơn sùng vật tổ (vật tổ chim, cá, cây, trâu...)
- Tôn sùng tổ tiên (quốc tổ, thành hồng, tổ tiên, ơng bà)
- Tơn sùng sự sinh sản: sinh thực khí và các hoạt động tính giao
- Tôn sùng Mầu: các nữ thần, các mẫu tam phủ, tứ phủ (thiên phủ, địa
phủ, nhạc phủ, thoải phủ), Bà chúa xứ, Thiên Yana...
- Tôn sùng các anh hùng dân tộc, anh hùng địa phương, người có cơng
lớn với dân với nước: Thánh Gióng, Tản Viên Sơn Thánh, Lý Ông Trọng,
Bà Trưng, Đức thánh Trần, Chừ Đồng Tử...
Từ tâm thức sùng bái đó, trong các cộng đồng hình thành các phong
tục tập quán và nghi lễ thờ cúng tự nhiên, thờ cúng Tổ Tiên, thờ Mẩu và
nghi lễ phồn thực. Đó là những nghi lễ và phong tục rất quen thuộc đối với
người Việt khắp nơi trong cả nước. Mỗi loại tín ngưỡng này đều có nguồn
gốc sâu xa từ quan hệ qua lại giữa con người với các đối tượng siêu nhiên
7 4 2 V ănh ó ath ờ Nữthấn - mẫu ở Việ t namv à c h â u á
Mỗi loại tín ngưỡng trên lại được biểu trưng qua một số mã khác nhau
mà tìm hiểu tín ngưỡng đó thì khơng thể khơng nhìn nhận các mã của nó.
Trước khi tìm mã tín ngưỡng, phải hiểu bản thân tín ngưỡng đó như một
thực thể văn hóa, những biểu hiện cùa nó trong thực hành văn hóa truyền
thống, vị trí của nó trong các hình thức vãn hóa khác nhau như văn học, âm
nhạc, hội họa, nghi lễ...Từ đó mới có cơ sở để đi tìm sự thể hiện nó một
cách sâu sắc hơn. Đặc biệt là với những tín ngưỡng cổ, nhiều khi người ở
thời đại sau chi có thể nắm bắt được nó thơng qua các mã cùa nó, rồi từ đó
mà hiểu được tín ngưỡng của người xưa.
Chúng tơi đã có dịp trình bày vấn đề mã và mã văn hóa trong T/C Văn
hóa dân gian số 1/2006. Trong đó chúng tơi định nghĩa mã văn hóa như sau:
Mã văn hóa (Cultural code)
của các biểu tượng, nói rộng ra là hiểu được hệ giá trị văn hoá của một dân
tộc được kết tinh lại trong biểu tượng tức là có thể hiểu đến tận cùng con
người và dân tộc ấy.
Tín ngưỡng là một thành tố trong nhiều thành tố cấu thành chỉnh thể
văn hóa một cộng đồng, trong đó, mỗi ioại tín ngưỡng lại có một số mã tín
ngưỡng tương ứng (những biểu tượng của văn hóa tín ngưỡng) mà giải mã
tín ngưỡng là một thao tác khoa học thực sự lí thú và mang lại nhiều hữu ích
trong nghiên cứu văn hóa cộng đồng đó.
Trong tín ngưỡng dân gian cùa một số dân tộc phuơng Đơng và
phương Tây đều có tín ngưỡng trọng mẫu, đề cao, suy tơn nữ tính và người
mẹ. Tín ngưỡng đó bắt nguồn từ chế độ nguyên thuỷ với những thị tộc mà
người đứng đầu là phụ nữ, người chia thức ăn, người sinh sản và nuôi lớn
cộng đồng trong cả nghĩa đen và nghĩa bóng.
Với người Việt Nam, tinh thần trọng Mau đã trở thành một tín ngưỡng
và được thể hiện ra qua một số phong tục khác nhau ở nhiều địa phương.
Điều đó ngồi ý nghĩa chung với các dân tộc cùng có tín ngưỡng này, cịn có
ngun nhân từ lịch sử đặc biệt của Việt Nam. Truyền thống trọng mẫu của
Việt Nam có nguồn gốc từ chính vai trò to lớn của người phụ nữ trong lịch
sử hình thành và phát triển cộng động. Xã hội nguyên thủy được duy trì khá
dài ừên mảnh đất này. Trong xã hội đó, thường vai trò lớn nhất là những
người phụ nữ. Vì vậy mà trong tiếng thuần Việt, những gì to lớn nhất, quan
trọng nhất thường được gắn với từ “cái” với ý nghĩa là mẹ, là phụ nữ: Sông
cái, cột cái, cổng cái, đường cái, thúng cái, đũa cái... Tự nhiên trong con mắt
nắng, gây hạn hay làm ra lụt lội. Bà Mây (Pháp Vân), bà Mưa (Pháp Vũ), bà
Sấm (Pháp Lôi), bà Chớp (Pháp Điện), mang những chức năng chi phối
thiên nhiên nắng lắm mưa nhiều kia. Các thần mẫu tự nhiên khi bắt gặp Đạo
Giáo thần tiên mới được kết nạp vào tòa thánh, vào điện thờ để trờ thành Tam
toà thánh mẫu, Tứ phủ thánh linh. Đó là những tên gọi quen thuộc người Việt
dùng để gọi các nữ thần tự nhiên trong hình dung vũ trụ rộng lớn: Mầu Thiên
phủ (nữ thần coi sóc chín tầng trời), Mau Nhạc phù (nữ thần rừng núi), Mầu
Thoải phủ (nữ thần sông biển), Mầu Địa phủ (nữ thần đất đai).
Rồi từ các nữ thần tự nhiên, niềm tín ngưỡng ấy lan toả đến các thần
nông nghiệp như Bà Dâu, Bà Đậu, Bà Nành, Mẹ Lúa, Mẹ Chè, mẹ Mía, mẹ
Khoai... với niềm tin tưởng rằng nữ tính chính là đặc tính tối ưu đối với mùa
màng và sự sinh sản của cây cối, chì có các nữ thần cai quản cây cối thì mùa
màng mới bội thu. Người nông dân Việt Nam thường trìu mến và sùng kính
gọi tên các cây trồng quen thuộc, phổ biến và tối quan trọng của mình là
“mẹ” chính là xuất phát từ niềm tín ngưỡng đó.
Rồi từ các bà mẹ nông nghiệp, niềm tin ấy lại lan toả đến các bà mẹ
lịch sử. Ở vị trí địa lí tự nhiên khá đặc biệt “cuối nguồn sông, đầu nguồn
biển”, là dấu nối quan trọng giữa biển và lục địa, nên lịch sử Việt Nam gắn
liền với lịch sử chống ngoại xâm. “Giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh”, những
người phụ nữ bình thường khi đất nước có giặc giã binh đao, được khoác lên
vai chức năng coi kho, giữ lẫm, trở thành các bà Chúa Kho, Chúa Lẩm,...
các bà mẹ thần thánh tham gia chống ngoại xâm giữ nước bằng chức năng
đầy nữ tính của mình. Bắc Ninh, Bắc Giang, Hà Nội, Hà Nam, Thanh Hóa,
Hà Tĩnh đều có truyền thuyết về những người phụ nữ, người mẹ giữ kho và
cung cấp hậu cần cho quân đội trong thời chiến. Hon nữa, các bà chúa kho,
chúa lẫm ngày xa xưa ấy, đến nay vẫn tiếp tục trợ giúp các thế hệ cháu con
làm ãn, tăng tài tăng lộc. Của kho dường như là vô tận, các mẫu khi thì cho
vay, khi thì ban phát tiền của dồi dào cho con cháu. Đầu năm mới, đầu mùa
làm ăn, ai ai cũng đến xin lộc rơi lộc vãi của các bà chúa, các mẫu cũng rộng
rãi chia tài phát lộc khiến đền các bà chúa kho ờ Việt Nam đầu năm luôn tấp
nập đông vui.
là những người phụ nữ có thực trong lịch sử đã trở thành các quốc mẫu được
mọi người tôn vinh. Hệ thống tín ngưỡng thờ nữ thần vì vậy càng ngày càng
trở nên phong phú. Đen, phủ thờ các Mầu trải khắp các vùng trên đất Việt
Nam. Bên cạnh các đền phù thờ riêng các mẫu, Mẩu còn được phối thờ trong
đền “tiền Thần, hậu Mầu” hay trong chùa “tiền Phật, hậu Mầu” mà trong
nghi thức thờ tự ở các dân tộc khác trong khu vực khơng thấy có. Đó là nét
đặc sắc, độc đáo của tín ngưỡng thờ Mầu Việt Nam.
Trước hết, chúng tôi coi trang phục như một mã văn hóa được biểu
trưng trong nghi thức thờ mẫu. Nhìn vào một ban thờ mẫu có ba hoặc bốn vị
thánh mẫu được thờ ở vị trí cao nhất, ta biết đó là ban thờ Tam phủ hay Tứ
phù. Hơn nữa, dù vị tri của các mẫu được sắp xếp như thế nào thì qua màu
sắc trang phục của các mẫu ta có thể nhận biết ngay đó là thánh mẫu nào.
Mau đệ nhất (mẫu thiên phủ) thường ngồi ở chính giữa, trang phục màu đỏ
tượng trưng cho thế giới bên trên, cho quyền lực và sự oai nghi. Mầu đệ nhị
(mẫu nhạc phủ) thường ngồi ở bên phải mẫu đệ nhất, từ ngoài nhìn vào thì
mẫu ờ bên trái của ban thờ. Trang phục của mẫu màu xanh, tượng trưng cho
miền rừng núi, cho 81 cửa rừng mà mẫu cai quản, màu của cây cối xanh
tươi. Mầu đệ tam (mẫu thoải phủ) ngồi ờ bên trái mẫu đệ nhất, trang phục
màu trắng, biểu tượng cho nước, cho sự trong sạch, tinh khiết cùa thế giới
thủy phủ, vùng nước sông biển. Mau Địa thường ngồi ờ phía trước và thấp
hơn mẫu Thiên một chút. Mẩu mặc áo mầu vàng, màu tượng trưng cho đất
đai. Nhiều nơi thường chỉ thờ mẫu tam phủ, ít thờ tứ phủ. Dưới hàng tam
mẫu là hàng các quan lớn, các chầu bà, ơng hồng, cơ, cậu. Màu sắc trong
trang phục của các chầu bà, các quan lớn, các ơng hồng, các cơ, các cậu
cũng tùy vào vai trò của các vị theo hầu mẫu nào mà có màu sắc tương tự
Mầu Tam phù
Trong
phương Bắc, vì vậy biểu tượng cho phương Bắc cũng là màu đen. Còn hành
kim (kim loại) có màu trắng, kim chủ hướng Tây, vì vậy biểu tượng của
hướng Tây cũng màu trắng. Người Việt quan niệm nước biểu tượng cho sự
thanh sạch, trong trẻo, tinh khiết, vì vậy nước có màu trắng và mẫu Thoải, chù
về nước ln có trang phục màu trắng. Mầu nhạc phủ coi sóc vùng rừng núi,
mà rừng núi thì cây cổi xum xuê, xanh tốt nên trang phục của mẫu không thể
không là màu xanh, màu của tự nhiên rừng núi quen thuộc Việt Nam. Mầu
thiên phủ là mẫu đệ nhất trong các mẫu, mẫu cai quản thế giới bèn trên, gần
với vầng mặt trời đỏ rực rõ, mẫu cũng tượng trưng cho sức mạnh và quyền
lực, vậy nên màu đỏ là quan niệm về màu sắc gắn liền với mẫu.
Vai ừò nổi bật và đặc thù của người phụ nữ, của các Mầu là sinh sản
và nuôi dưỡng con người và mn vật. Vì vậy, tín ngưỡng thờ Mau thường
được thể hiện qua các mã thờ hang và thờ trứng,
Một trong những mã cùa tín ngưỡng dân gian là biểu tượng trứng. Nó
là một mã của tín ngưỡng sùng Mầu. Nhiều dân tộc trên thế giới quan niệm
quả trứng là mẫu gốc, từ đó sinh ra vũ trụ, trời đất và mn vật. Ở Việt Nam
ta, hình tượng quả trứng Điếng của tộc người Mường cũng mang <b>ý </b>nghĩa ấy.
Họ lí giải con người (hoặc con người của một dân tộc cụ thể nào đó) được
sinh ra từ trứng, hoặc được người mẹ thần linh sinh ra trứng rồi từ trứng đó
nở ra con. Rồi khi chết đi họ lại đi “xin đuông, chuộc số” để mong được trở
về với hình hài vật tổ, về với hình hài trứng mà từ đó họ sinh ra. v ề mã
trứng, Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới có viết “77«
Trưng đã tuẫn tiết ở đây). Truyền thuyết kể, trước khi tuẫn tiết vào ngày 6
tháng 3, Hai Bà đã ăn bánh trôi. Để tưởng niệm Hai Bà và hồi cố việc ăn
bánh, hồi cố xa hơn về sự sinh sản của Mau nên vào đêm trước hội, đêm
mồng 6 tháng 3 dần làng đã tổ chức làm và thả bánh. Cũng vì thế mà cả
nước có tục ăn bánh trôi vào ngày tết thanh minh mồng 3 tháng 3 âm lịch, thì
tại làng Hát Môn hiện nay, dân làng chỉ bắt đầu ăn bánh trôi vào ngày 6
tháng 3 âm, sau khi đã dâng bánh và thả bánh tưởng niệm Mau Trumg Trắc,
Trưng Nhị xuống ao làng.
Tín ngưỡng thờ mẫu ờ Việt Nam có nguồn gốc từ xa xưa, đến nay vẫn
đang tồn tại và phát triển. Các tín đồ sùng mẫu ngày càng nhiều, các vấn đề
có Hên quan đến đạo mẫu ngày càng được nghiên cứu, mổ xẻ, đánh giá và
dường như càng gần với hiện thực hơn. Tuy nhiên, nhiều vấn đề thuộc nội
hàm của đạo mẫu vẫn chưa được khai thác hết, chưa được lí giải cặn kẽ và
hợp lí. Chẳng hạn, tại sao ở Việt Nam đạo Mau lại liên quan đến tục lên
đồng? Tại sao tục thờ ngũ hổ hay ông lốt lại thờ trong điện Mầu mà không
phải ở những thờ tự khác cùa người Việt? Những tín hiệu văn hóa đó cịn ẩn
chứa điều gì?... Do thời gian diễn ra quá dài, lại trải qua nhiều sự kiện lịch sử
và sinh hoạt quan trọng được đan xen, lồng cài vào nhau; Do các mã vãn hóa
chuyển di từ thế hệ trước cho thế hệ sau bị thất truyền; Do con người cố tình
hiểu lại những vổn cổ để phục vụ mục đích nào đó trước mắt... kết quả là
nhiều tín ngưỡng mất đi sự thuần nhất, nhiều mã tín ngưỡng đã bị khúc xạ và
biến tướng đi, khiến việc giải mã nó khơng đơn giản. Điều đó đã thúc đẩy
chúng tơi tiếp tục quan tâm tìm hiểu về vấn đề tín ngưỡng và mã tín ngưỡng
thờ Mẩu trong thời gian tới.