Tải bản đầy đủ (.docx) (39 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KIỂM TOÁN CHU TRÌNH MUA HÀNG VÀ THANH TOÁN TRONG KIỂM TOÁN TÀI CHÍNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (258.52 KB, 39 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KIỂM TOÁN CHU TRÌNH MUA HÀNG VÀ
THANH TOÁN TRONG KIỂM TOÁN TÀI CHÍNH
I. CHU TRÌNH MUA HÀNG VÀ THANH TOÁN VỚI VẤN ĐỀ KIỂM TOÁN
1. VỊ TRÍ, VAI TRÒ CHU TRÌNH MUA HÀNG VÀ THANH TOÁN
Theo dòng lịch sử phát triển của kiểm toán, khái niệm về kiểm toán luôn
có những quan điểm khác nhau. Tuy nhiên, nếu xét về bản chất, ở một mức tổng
hợp toàn diện các quan điểm, có thể định nghĩa: Kiểm toán là xác minh và bày
tỏ ý kiến về thực trạng hoạt động được kiểm toán bằng hệ thống phương pháp
kỹ thuật của kiểm toán chứng từ và ngoài chứng từ do các kiểm toán viên có
trình độ nghiệp vụ tương xứng thực hiện trên cơ sở hệ thống pháp lý đang có
hiệu lực. (LTKT, tr 49). Trong đó, kiểm toán tài chính là hoạt động đặc trưng
nhất của kiểm toán bởi nó chứa đựng đầy đủ "sắc thái kiểm toán" ngay từ khi ra
đời cũng như trong quá trình phát triển, được thực hiện chủ yếu bởi kiểm toán
độc lập. (KTTC, tr 9).
Ở Việt Nam, theo quy chế về kiểm toán độc lập trong nền kinh tế quốc dân
(NĐ số 07/CP ngày 21/09/1994 của Chính phủ: "...kiểm toán độc lập là việc
kiểm tra và xác nhận của kiểm toán viên chuyên nghiệp thuộc các tổ chức kiểm
toán độc lập và tính đúng đắn hợp lý của các tài liệu...". Như vậy, kiểm toán độc
lập là hoạt động dịch vụ, tư vấn được pháp luật thừa nhận và bảo trợ, được quản
lý chặt chẽ bởi các hiệp hội chuyên ngành về kế toán. Do sự độc lập, khách quan
trong hoạt động nên kết quả kiểm toán được sự tin cậy của những người sử
dụng. Trong nền kinh tế thị trường thì vai trò của kiểm toán độc lập càng trở nên
cần thiết và khó có thể thay thế được. Mục đích của kiểm toán độc lập, trước hết
và cơ bản không phải là lợi nhuận mà là giúp các doanh nghiệp thực hiện đúng
chế độ pháp luật, chấn chỉnh sửa chữa sai sót, phòng ngừa vi phạm tổn thất và
góp phần tăng cường quản lý tài chính ở đơn vị được kiểm toán. Và do đó, có
thể khẳng định rằng kiểm toán độc lập là chỗ dựa quan trọng cho các cơ quan
nhà nước trong việc kiểm tra, kiểm soát hoạt động kinh doanh của các doanh
nghiệp.
Theo IFAC (Liên đoàn kế toán quốc tế): Kiểm toán là việc các kiểm toán


viên độc lập xác minh và bày tỏ ý kiến của mình về BCTC. Tuy nhiên, để có thể
xác minh và bày tỏ ý kiến của mình về BCTC thì người kiểm toán viên trước hết
phải là người giỏi kế toán, có kỹ năng nghề nghiệp và đạo đức, cũng như để thực
hiện một cuộc kiểm toán BCTC trước hết phải nắm vững những nguyên tắc kế
toán để lập nên BCTC đó.
1
Nguyễn Thị Nga - Kiểm toán - K41
1
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Báo cáo tài chính là bảng tổng hợp kết quả kinh doanh của đơn vị giúp cho
người lãnh đạo điều hành đưa ra quyết định đúng đắn mà trong đó quá trình kinh
doanh là một chuỗi các nghiệp vụ kinh tế kế tiếp nhau. Vì vậy, khi tiến hành
kiểm toán BCTC, kiểm toán viên cần phải chia BCTC thành các phần hành để
kiểm toán. Thông thường có hai cách phân chia:
* Phân chia theo khoản mục (tài khoản): Ví dụ như kiểm toán TK doanh thu,
TK chi phí, TK tiền, TK nợ phải trả...
* Phân chia theo chu trình: Các nghiệp vụ và các tài khoản có liên quan chặt
chẽ với nhau được tiến hành kiểm toán động thời. Chẳng hạn, các nghiệp vụ về
mua hàng và thanh toán, nghiệp vụ chi tiêu và số dư các khoản phải trả người
bán... đều nằm trong chu trình mua hàng và thanh toán.
Cách chia thứ nhất tuy đơn giản song không hiệu quả do tách biệt những
khoản mục ở vị trí khác nhau nhưng có liên hệ chặt chẽ với nhau gây trùng lặp
chẳng hạn như hàng tồn kho và giá vốn hàng bán. Trong thực tiễn kiểm toán,
cách phân chia thứ hai được ứng dụng thông dụng hơn cả bởi phương thức tiếp
cận kiểm toán này logic và tránh trùng lặp, căn cứ vào mối liên hệ chặt chẽ lẫn
nhau giữa các khoản mục, các quá trình cấu thành, các yếu tố trong một chu
trình chung của hoạt động tài chính. Với cách phân chia như vậy, một chu trình
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có thể coi là sự liên kết của các chu
trình bán hàng và thu tiền, chu trình huy động và hoàn trả vốn, chu trình mua
hàng và thanh toán, chu trình tiền lương và nhân viên, chu trình hàng tồn kho.

Các chu trình đó có mối quan hệ mật thiết với nhau, do xuất phát từ mối liên hệ
vốn có của các nghiệp vụ kinh tế và từ đó thu gom được các đầu mối của các
mối liên hệ trong kinh tế và trong ghi sổ kế toán chứa đựng trong BCTC. Mối
quan hệ này được thể hiện qua sơ đồ số 1.1 dưới đây
Sơ đồ 1.1: Mối quan hệ giữa các chu trình kiểm toán
TIỀN MẶT
CHU
TRÌNH
BÁN
HÀNG VÀ
THU TIỀN
CHU
TRÌNH
HUY
ĐỘNG VÀ
HOÀN
TRẢ VỐN
CHU
TRÌNH
MUA
HÀNG VÀ
THANH
TOÁN
CHU
TRÌNH
TIỀN
LƯƠNG
VÀ NHÂN
SỰ
2

Nguyễn Thị Nga - Kiểm toán - K41
2
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
CHU TRÌNH HÀNG TỒN KHO

Sơ đồ trên cho thấy, chu trình mua hàng và thanh toán cùng với bốn chu trình
khác là một khâu quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh với cách phân
loại theo vòng quay, vòng tuần hoàn của vốn.
Đối với các đơn vị sản xuất kinh doanh, quá trình kinh doanh bao gồm 3 giai
đoạn: Cung ứng, sản xuất và tiêu thụ. Còn ở các doanh nghiệp thương mại, quá
trình kinh doanh bao gồm 2 giai đoạn: mua hàng và bán hàng. Việc xem xét hai
loại hình doanh nghiệp trên cho thấy, dù là loại hình doanh nghiệp nào thì quá
trình “mua hàng”, nghĩa là cung cấp các yếu tố đầu vào đều hết sức quan trọng,
có ảnh hưởng quyết định đến các yếu tố đầu ra. Chi phí cho việc mua hàng
chiếm một tỉ lệ lớn trong tổng chi phí sản xuất kinh doanh. Hơn thế, số tài khoản
chịu ảnh hưởng của chu kỳ mua hàng và thanh toán nhiều hơn tất cả các chu kỳ
khác kết hợp lại. Do đó không có gì đáng ngạc nhiên khi phải mất nhiều thời
gian để kiểm toán chu kỳ mua hàng và thanh toán hơn là đối với các chu kỳ
khác.
2. BẢN CHẤT CHU TRÌNH MUA HÀNG VÀ THANH TOÁN
Chu trình mua hàng và thanh toán gồm các quyết định và các quá trình cần
thiết để có hàng hoá, dịch vụ cho quá trình hoạt động, sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp. Chu trình thường được bắt đầu bằng việc lập một đơn đặt mua
của người có trách nhiệm tại bộ phận cần hàng hoá hay dịch vụ và kết thúc bằng
việc thanh toán cho nhà cung cấp về hàng hoá hay dịch vụ nhận được (KTTC
201). Quá trình mua vào của hàng hoá hay dịch vụ bao gồm những khoản mục
như nguyên vật liệu, máy móc thiết bị, vật tư, điện nước, sửa chữa và bảo trì…
Chu trình này không bao gồm quá trình mua vào và thanh toán các dịch vụ lao
động hoặc những sự chuyển nhượng và phân bổ của chi phí ở bên trong tổ chức.
Kiểm toán chu trình mua hàng và thanh toán thực chất là việc kiểm tra, đánh

giá số dư của các tài khoản trên Bảng cân đối kế toán. Như đã phân tích ở trên,
chu kỳ mua hàng và thanh toán liên quan đến rất nhiều tài khoản trên bảng cân
đối kế toán như: tài khoản về tài sản, công nợ phải trả, tài khoản tiền và các tài
khoản phí tổn trên báo cáo kết quả kinh doanh… Số lượng các tài khoản liên
quan và chịu ảnh hưởng bởi chu trình mua hàng và thanh toán được thể hiện qua
sơ đổ 2.1. Tuy nhiên, quá trình mua hàng trong chu trình mua hàng và thanh
3
Nguyễn Thị Nga - Kiểm toán - K41
3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
toán có hai loại: Mua hàng trả tiền ngay và mua hàng trả chậm. Sơ đồ 2.1 chỉ
minh hoạ cho trường hợp mua hàng trả chậm.
4
Nguyễn Thị Nga - Kiểm toán - K41
4
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Sơ đồ 2.1: Các tài khoản trong chu trình mua hàng và thanh toán
Các khoản phải trả
Tiền gửi ngân hàng
Nguyên liệu mua vào
Hàng mua trả lại và được giảm giá
Chiết khấu mua vào
Phí tổn sản xuất
Tài sản cố định
Bảo hiểm trích trước
Hợp đồng thuê
Phí tổn quản lý
Phí tổn lưu động
3. CHỨC NĂNG CHU TRÌNH MUA HÀNG VÀ THANH TOÁN
5

Nguyễn Thị Nga - Kiểm toán - K41
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Đối với bất kì doanh nghiệp nào có nhu cầu cung cấp hàng hoá và dịch vụ
với quy mô lớn hay nhỏ, đơn giản hay phức tạp, về cơ bản, chu trình mua hàng
và thanh toán bao gồm các chức năng cơ bản sau:
3.1.Xử lý các đơn dặt mua hàng hoá hay dịch vụ
Đây là chức năng quan trọng trong chu trình mua hàng và thanh toán. Các
bước công việc cần thực hiện trong chức năng này bao gồm:
- Xác định nhu cầu hàng hoá, dịch vụ cần cung cấp: Thông thường mỗi
doanh nghiệp thường có một bộ phận chuyên nghiên cứu nhu cầu nguyên vật
liệu, công cụ, dụng cụ cần thiết cho sản xuất gọi là bộ phận kế hoạch. Bộ phận
này có nhiệm vụ lên kế hoạch, cung ứng đảm bảo cung cấp đầy đủ các yếu tố
đầu vào để quá trình sản xuất được liên tục nhưng đồng thời cũng không quá
nhiều gây ứ đọng vốn ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Ở
những doanh nghiệp có hệ thống kiểm soát nội bộ tốt sẽ có những quy chế cụ
thể về việc cung cấp hàng.
- Lập đơn kiến nghị mua hàng: Sau khi đã lên kế hoạch cung ứng, bộ phận kế
hoạch sẽ lập đơn yêu cầu mua hàng để trình Giám đốc hoặc người có thẩm
quyền ký duyệt (đơn yêu cầu mua hàng là một bản yêu cầu về khối lượng cũng
như chủng loại hàng hoá cần cung cấp). Sau đó, đơn yêu cầu mua hàng này sẽ
được chuyển cho bộ phận mua hàng.
- Tìm nhà cung cấp: Bộ phận mua hàng căn cứ vào đơn kiến nghị mua hàng
này để xem xét, tìm kiếm nhà cung cấp. Về nguyên tắc, trước khi quyết định
mua một mặt hàng nào thì cũng phải tìm hiểu đơn đặt hàng của nhiều nhà cung
cấp khác nhau để lựa chọn nhà cung cấp thích hợp nhất.
- Lựa chọn nhà cung cấp: Sau khi đã xem xét đơn chào hàng của các nhà
cung cấp khác nhau, đơn vị sẽ chọn ra một nhà cung cấp phù hợp nhất. Sự lựa
chọn này căn cứ vào giá cả, chất lượng của hàng hoá, các điều kiện ưu đãi như
chiết khấu thương mại, chiết khấu thanh toán, phương thức thanh toán,…

- Giao đơn đặt hàng: Đơn đặt hàng là một loại chứng từ trong đó ghi rõ loại
hàng, số lượng, các thông tin liên quan đến hàng hoá mà doanh nghiệp có ý định
mua vào. Tất cả các đơn đặt hàng đều phải đánh số trước, có đầy đủ chữ ký của
những người có thẩm quyền. Tất cả các đơn đặt hàng phải bao gồm vừa đủ số
cột và diện tích để hạn chế tối đa khả năng có gian lận trên đơn dặt mua hàng
này.
Các bước công việc trên cho thấy đơn đặt hàng (bản yêu cầu về sản phẩm
hoặc dịch vụ) được lập bởi công ty khách hàng là điểm khởi đầu của chu kỳ.
Mẫu của bản yêu cầu và sự phê chuẩn quy định phụ thuộc vào bản chất của hàng
6
Nguyễn Thị Nga - Kiểm toán - K41
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
hoá dịch vụ và quy định của công ty. Trong đó sự phê chuẩn đúng đắn nghiệp vụ
mua hàng là phần chính thức của chức năng này vì nó đảm bảo hàng hoá và dịch
vụ được mua theo các mục đích đã được phê chuẩn của công ty và tránh cho
việc mua quá nhiều hoặc mua các mặt hàng không cần thiết. Hầu hết các công ty
cho phép một sự phê chuẩn chung cho việc mua phục vụ các nhu cầu hoạt động
thường xuyên như hàng tồn kho ở mức cho phép (phù hợp định mức hàng tồn
kho). Thí dụ, các lần mua tài sản thường xuyên vượt quá một giới hạn tiền nhất
định nào đó có thể yêu cầu sự phê chuẩn của họi đồng quản trị, các mặt hàng
được mua tương đối không thường xuyên, như các hợp đồng dịch vụ dài hạn thì
được phê chuẩn bằng các viên chức nhất định, vật tư và những dịch vụ có giá trị
thấp hơn một giá trị quy định thì được phê chuẩn bởi quản đốc và trưởng phòng,
và một số loại nguyên vật liệu và vật tư được tự động tái đặt hàng bất cứ lúc nào
chúng ở mức giới hạn ấn định trước.
3.2. Nhận hàng hoá hay dịch vụ
Bước công việc thực hiện trong chức năng này là nhận hàng hoá hay dịch vụ
do nhà cung cấp chuyển đến. Việc nhận hàng hoá từ người bán hàng là một điểm
quyết định trong chu trình này vì đây là thời điểm mà tại đó bên mua thừa nhận

khoản nợ liên quan đối với bên bán trên sổ sách. Khi hàng hoá nhận được, quá
trình kiểm soát thích hợp đòi hỏi phải có sự kiểm tra mẫu mã, số lượng, thời
gian đến và các điều kiện khác.
Hầu hết các công ty có phòng (bộ phận) tiếp nhận để đưa ra một báo cáo
nhận hàng như một bằng chứng của sự nhận hàng và sự kiểm tra hàng hoá. Một
bản sao thường được gửi cho thủ kho và một bản khác gửi cho kế toán các
khoản phải trả để thông báo. Để ngăn ngừa sự mất mát, sự lạm dụng thì điều
quan trọng là hàng hoá phải được kiểm soát chặt chẽ từ lúc nhận chúng cho đến
khi chúng được chuyển đi. Nhân viên trong phòng tiếp nhận phải độc lập với thủ
kho và phòng kế toán (nguyên tắc phân công và phân nhiệm rõ ràng). Cuối
cùng, sổ sách kế toán sẽ phản ánh việc giao trách nhiệm đối với hàng hoá khi
hàng hoá được chuyển từ phòng tiếp nhận qua kho và từ kho vào quá trình sản
xuất hay đưa đi tiêu thụ.
3.3. Ghi nhận các khoản nợ người bán
Bước công việc thực hiện trong chức năng này là việc kế toán ghi nhận các
khoản nợ phải trả nhà cung cấp vào sổ kế toán từ các hoá đơn và phiếu nhập
kho. Công việc này đòi hỏi sự đúng đắn, chính xác và nhanh chóng. Việc ghi sổ
ban đầu có ảnh hưởng quan trọng đến các Báo cáo tài chính được lập và đến
khoản thanh toán thực tế, do đó kế toán chỉ được phép ghi vào các lần mua có cơ
7
Nguyễn Thị Nga - Kiểm toán - K41
7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
sở hợp lý theo số tiền đúng. Các phần hành kế toán được thực hiện trên máy vi
tính sẽ hạn chế tối đa việc ghi trùng lặp các khoản nợ.
Kế toán các khoản nợ phải trả có trách nhiệm kiểm tra tính đúng đắn của các
lần mua vào và ghi chúng vào sổ nhật kí và sổ hạch toán chi tiết các khoản phải
trả. Khi kế toán các khoản phải trả nhận được hoá đơn của người bán thì phải so
sánh mẫu mã. giá, số lượng, phương thức thanh toán và chi phí vận chuyển ghi
trên hoá đơn với thông tin trên đơn đặt mua (hoặc hợp đồng) và báo cáo nhận

hàng nếu hàng đã về. Thường thì các phép nhân và phép cộng tổng được kiểm
tra lại và được ghi vào hoá đơn. Sau đó, số tiền được chuyển vào sổ hạch toán
chi tiết các khoản phải trả.
Quá trình kiểm soát nội bộ quan trọng ở chức năng này là quy định tất cả
những ai ghi sổ các khoản chi tiền mặt không được liên quan đến tiền mặt, các
chứng khoán thị trường và các tài sản khác (nguyên tắc bất kiêm nhiệm). Bên
cạnh đó, các chứng từ và sổ sách thích hợp, các thủ tục đúng đắn để ghi sổ, và
các phiếu chi độc lập cũng là những quá trình kiểm soát cần thiết của chức năng
này.
3.4. Xử lý và ghi sổ các khoản thanh toán cho người bán
Việc xét duyệt chi quỹ để thanh toán cho người bán sẽ do bộ phận tài vụ
thực hiện. Chứng từ thanh toán cho nghiệp vụ mua hàng khi kỳ thanh toán đến
hạn là các phiếu chi, séc, uỷ nhiệm chi. Trước khi chuẩn chi, các chứng từ này
phải có sự phê chuẩn của giám đốc hoặc người được uỷ quyền. Các chứng từ
thanh toán này sau đó được sao làm nhiều bản mà bản gốc được gửi cho người
được thanh toán, bản sao được lưu lại trong hồ sơ cho người được thanh toán.
Các quá trình kiểm soát quan trọng đối với chức năng này là việc ký phiếu
chi phải do đúng cá nhân có trách nhiệm (phù hợp với nguyên tắc uỷ quyền và
phê chuẩn). Trước khi kí phiếu chi phải xem xét kĩ lưỡng các chứng từ minh
chứng cho nghiệp vụ mua hàng đã phát sinh và có sự tách biệt giữa người ký
phiếu chi với người chi tiền (nguyên tắc bất kiêm nhiệm). Các phiếu chi đều
phải được đánh số thứ tự từ trước và được in sẵn trên loại giấy đặc biệt để gây
khó khăn cho việc thay đổi người nhận tiền hoặc số tiền. Cần phải thận trọng khi
kiểm soát các phiếu chi đã ký, phiếu chi trắng và phiếu chi không còn hiệu lực.
Có một phương pháp để huỷ bỏ các chứng từ, chứng minh nhằm ngăn ngừa việc
sử dụng lại chúng để chứng minh cho phiếu chi khác sau này cũng là một điều
quan trọng. Phương pháp thường dùng là viết số của phiếu chi lên các chứng từ
chứng minh.
8
Nguyễn Thị Nga - Kiểm toán - K41

8
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Đó là toàn bộ tám bước công việc nằm trong bốn chức năng cơ bản mà
doanh nghiệp cần tiến hành đối với chu kỳ mua hàng và thanh toán. Mỗi một
chức năng trong chu kì sẽ phải tuân theo những quy tắc nhất định và có những
biện pháp kiểm soát riêng. Nắm chắc các chức năng của chu trình mua hàng và
thanh toán nêu trên sẽ là cơ sở để kiểm toán viên tiến hành cuộc kiểm toán một
cách có hiệu quả.
Với các bước công việc cần thực hiện này, các chứng từ sổ sách được sử
dụng trong chu trình bao gồm: Đơn kiến nghị mua hàng, đơn đặt hàng, phiếu
báo hàng, báo cáo nhận hàng, hoá đơn của người bán hàng, sổ nhật ký mua
hàng, sổ nhật ký chi tiền, sổ chi tiết nợ phải trả nhà cung cấp, sổ cái các tài
khoản, bản đối chiếu của nhà cung cấp, phiếu chi…
Các bước công việc cần thực hiện nêu trên chính là dòng vận động của
nghiệp vụ mua hàng và thanh toán được thể hiện qua sơ đồ 3.1
9
Nguyễn Thị Nga - Kiểm toán - K41
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Sơ đồ: 3.1. Quy trình tổ chức chứng từ mua hàng và thanh toán
* Đối với nghiệp vụ mua hàng
Nhu cầu vật liệu hàng
hoá
Bộ phận kế hoạch
Kế hoạch cung ứng
Bộ phận cung ứng
Khai thác hàng
Cán bộ thu mua
Lập chứng từ kho
Trưởng bộ phận cung ứng

11
11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Ký duyệt chứng từ
Thủ kho
Nhập kho
Kế toán
Ghi sổ chứng từ
Nhu cầu vật liệu hàng
hoá
13
13
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Nhu cầu thanh toán
Kế toán quỹ
Lập chứng từ chi quỹ
Thủ trưởng kế toán trưởng
Duyệt chứng từ
Thủ quỹ
Chi quỹ
Nhân viên thanh toán
15
15
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Nhận tiền và thanh toán
Kế toán
Ghi sổ
Lưu chứng từ
* Đối với nghiệp vụ thanh toán
17

17
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
II. NỘI DUNG KIỂM TOÁN CHU TRÌNH MUA HÀNG VÀ THANH TOÁN
1.MỤC TIÊU KIỂM TOÁN CHU TRÌNH MUA HÀNG VÀ THANH TOÁN
Để thực hiện đúng hướng và có hiệu quả hoạt động kiểm toán thì điều quan
trọng cần phải xác định được mục tiêu kiểm toán cho bất kỳ một chu trình nghiệp
vụ kinh tế nào. Cũng như vậy chu trình mua hàng với thanh toán cũng không nằm
ngoài quy luật chung ấy. Chu trình này dược coi là một bộ phận cấu thành của
BCTC và do đó kiểm toán viên phảI xác định được mục tiêu đặc thù với chu trình
này. Có thể kháI quát các bước triển khai mục tiêu kiểm toán đối với các chu trình
mua hàng và thanh toán theo sơ đồ 4.1.
Sơ đồ: 4.1 Các bước triển khai những mục tiêu kiểm toán chu trình
mua hàng và thanh toán
Các Báo cáo tài chính
Chu trình mua hàng và thanh toán - Một bộ phận cấu
thành của Báo cáo tài chính
Xác nhận của Ban Quản trị về chu trình mua hàng và
thanh toán
Các mục tiêu kiểm toán chung đối với chu trình mua
hàng và thanh toán
Các mục tiêu kiểm toán đặc thù đối với chu trình mua
hàng và thanh toán
1.1. Xác nhận của ban quản trị đối với chu trình mua hàng và thanh toán
Xuất phát từ trách nhiệm của ban quản trị là phải thiết lập trình bày và công bố
với các BCTC theo đúng các chuẩn mực kế toán hiện hành đồng thời phải chịu
trách nhiệm về sự tin cậy, hợp lý của các thông tin trên báo cáo tài chính, từ đó,
căn cứ để kiểm toán viên xây dựng mục tiêu kiểm toán cho chu trình mua hàng và
thanh toán. Xác nhận của ban quản trị là căn cứ có giá trị cho kiểm toán viên tiến
hành kiểm toán. Chuẩn mực kiểm toan quốc tế (ISA) số 580 và chuẩn mực kiểm
18

18
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
toán Việt Nam (VSA) 580 xác định: " KTV phảI thu thập bằng chứng về việc Giám
đốc đơn vị được kiểm toán thừa nhận trách nhiệm của mình trong việc lập và trình
bày BCTC trung thực, hợp lý, phù hợp với chuẩn mực và chế độ kế toán hiện hành,
đã phê duyệt BCTC ".
Đối với chu trình mua hàng và thanh toán cũng như các chu trình khác,
chúng gồm 5 xác nhận chung như sau:
Xác nhận về sự hiện hữu: Ban giám đốc xác nhận các nghiệp vụ mua hàng
phản ánh trên sổ sách là thực sự sảy ra, số dư tài khoản hàng tồn kho trên bảng cân
đối kế toán phảI thực sự tồn tại, nghĩa là phảI có hàng hoá trong kho.
Xác nhận về tính đầy đủ : Tất cả các khoản nợ phải trả nhà cung cấp đều
phải được ghi chép và trình bày trên Báo cáo tài chính. Ban giám đốc xác nhận
không có khoản nợ phải trả nào bị ”để ngoài sổ"kế toán của đơn vị.
Xác nhận về sự đánh giá và sự phân bố : Mục tiêu xác nhận này đề cập đến
việc các khoản phải trả có dược phân loại đúng bản chất kinh tế và được ghi sổ
chính xác. Ban giám đốc doanh nghiệp cần phải đảm bảo rằng các khoản cần phải
trả được ghi sổ thực sự là các khoản tiền mua hàng còn nợ nhà cung cấp chứ không
phải các khoản phải trả công nhân viên hay phải trả nợ cho một đối tượng nào khác
trong đơn vị.
- Xác nhận về quyền sở hữu và nghĩa vụ : Đơn vị có quyền sở hữu với hàng
hoá mua về và có nghĩa vụ thanh toán các khoản nợ cho nhà cung cấp. Ban giám
đốc cần xác nhận hàng hoá trong kho thực sự là của đơn vị và các khoản phải trả là
nghĩa vụ của đơn vị với nhà cung cấp.
- Xác nhận về sự trình bày: Ban giám đốc cần xác nhận lượng hàng hoá mua
vào và các khoản nợ phải trả nhà cung cấp đều được trình bày trung thực và đúng
đắn trên BCTC theo đúng chế độ kế toán doanh nghiệp áp dụng và tuân thủ các
quy định kế toán hiện hành
1.2. Các mục tiêu kiểm toán chu trình mua hàng và thanh toán
Nhiệm vụ trước hết trong chu trình này là việc kiểm toán viên xem xét

những xác nhận của ban quản trị về các chức năng của chu trình được trình bày ở
trên có trung thực hay không. Từ đó, KTV tiến hành xác định các mục tiêu kiểm
toán dựa trên các giải trình của Ban giám đốc.
Việc xây dựng các mục tiêu kiểm toán nhằm mục đích giúp KTV thu thập được
các bằng chứng đầy đủ, có giá trị và đúng lúc cho những khoản mục trọng yếu
19
19

×