Tải bản đầy đủ (.pdf) (48 trang)

Tải Bài tập làm văn mẫu Lớp 9 số 1 (Đề số 1 đến đề số 3) - 18 bài văn mẫu số 1 lớp 9 hay nhất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (472.51 KB, 48 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Download.com.vn xin gửi đến quý thầy cô giáo cùng các em học sinh bộ sưu tập bài</b>
<b>tập làm văn số 1 lớp 9(từ đề 1 đến đề số 3) nhằm hỗ trợ cho việc dạy và học hiệu quả</b>
<b>môn Ngữ văn lớp 9 của các thầy cô giáo và cùng các em học sinh.</b>


Bộ sưu tập những bài văn hay số 1lớp 9với chủ đề văn thuyết minh được tuyển chọn từ
những cuộc thi học sinh giỏi mơn văn trên tồn quốc.Những bài văn mẫu lớp 9này sẽ là
tài liệu tham khảo hữu ích vì nó giúp các em học sinh có thêm nhiều ý tưởng hay và mới
cho bài viết của mình. Sau đây, mời quý thầy cô giáo và các em cùng tham khảo.


<i><b>Bài viết số 1 lớp 9 đề 1:</b></i>


<b>Đề bài: Thuyết minh về một loại cây (cây lúa, cây dừa, cây tre…).</b>
<b>Dàn ý thuyết minh cây lúa Việt Nam</b>
<b>I. Mở bài</b>


- Giới thiệu tổng quát về cây lúa.


- Cây lúa gắn bó với đời sống Việt Nam từ xưa đến nay. Lúa là thức ăn nuôi dưỡng con
người.


- Cây lúa phổ biến tại Việt Nam và nhiều nước khác trên thế giới.
- Việt Nam có tên gọi là văn minh lúa nước.


<b>II. Thân bài</b>
<b>1. Khái quát</b>


- Cây lúa là cây trồng quan trọng của người dân Việt Nam.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<b>2. Chi tiết.</b>


<b>a. Đặc điểm, hình dạng và kích thước của cây lúa.</b>



- Cây lúa sống chủ yếu nhờ nước nên được gọi là lúa nước. Khơng có nước, lúa khơng thể
sống nổi.


- Thuộc loại cây một lá mầm và rễ chùm.


- Thân cây lúa thường mọc thẳng, được nối với nhau nhiều đốt và thân cây rỗng và mềm,
có thể dùng tay bóp nát một cách dễ dàng.


- Thân cây lúa có chiều rộng từ 2-3 cm, chiều cao khoảng từ 60 – 80 cm.
- Lúa được chia thành ba bộ phận:


+ Rễ: Nằm dưới đất có tác dụng hút dinh dưỡng nuôi cơ thể.
+ Thân: Là cầu nối dinh dưỡng từ rễ lên ngọn.


+ Ngọn: Đây là nơi bông lúa sinh trưởng và trở thành hạt lúa. Lúa chín có màu vàng và
người nông dân gặt về làm thực phẩm.


<b>b. Cách trồng lúa:</b>


- Gieo giống: Hay còn được gọi là đi gieo, để cho cây lúa sinh trưởng tốt người xưa có
quan niệm phải trải qua 4 giai đoạn: Nhất nước - > nhị phân - > tam cần - > tứ giống
+ Nhất nước: Lúa sinh trưởng là nhờ vào nước, cho nên khi trồng lúa người nông dân phải
chú trọng đến nước nhằm đảm bảo cho cây lúa sinh trưởng tốt nhất.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

+ Tam cần: Đó là cần cù trong việc lao động, đưa các phương pháp tiến bộ kỹ thuật vào
trồng lúa.


+ Tứ giống: Một cây lúa khỏe mạnh, năng suất cao phụ thuộc nhiều vào giống, hiện nay
có khá nhiều loại giống có sức đề kháng lại rầy, sâu nên được khá nhiều bà con lựa chọn.


- Cấy lúa: Ngày xưa việc gieo mạ bằng tay nên lúa mọc không đều, khi cây lúa cao
khoảng 20 cm. Người nông dân tiếp tục ra đồng để cấy lại lúa cho thật thẳng, đều để giúp
cây phát triển tốt hơn. Nhưng ngày nay, việc gieo lúa bằng máy nên người nông dân đỡ
vất vả. Cây lúa ngay từ khi gieo đã thẳng hàng nên người nông dân khơng cần đi cấy lúa
như ngày xưa.


- Chăm sóc lúa: Trong suốt thời gian cây lúa sinh trưởng, hàng tuần người nông dân phải
ra đồng chăm lúa và lấy nước. Việc thăm lúa giúp người nông dân phát hiện ra các ổ sâu,
chuột hại lúa. Khi lúa bắt đầu đẻ nhánh, người nơng dân phải làm cỏ, bón phân và diệt sâu
bỏ nhằm giúp cây lúa phát triển tốt hơn.


- Gặt lúa: khi cánh đồng bắt đầu ngả màu vàng, người nông dân từng tốp ra đồng để thu
thành quả sau một thời gian lao động. Ngày trước người nông dân thu hoạt lúa bằng tay,
điều đó khiến cho bà con tốn kém và vất vả. Vì sau khi gặt, người nông dân đem về và
phải tuốt lúa, phơi. Nhưng ngày nay việc thu hoạch lúa bằng máy, lúa được tuốt ngay
ngoài đồng nên bà con đỡ vất vả hơn ngày trước.


- Sau khi gặt lúa: Để tiếp tục cho các vụ tiếp theo, người nông dân lại ra đồng cày, bừa
cho đất thật phẳng để tiếp tục gieo.


<b>c. Vai trò của cây lúa.</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

- Lúa được dùng để chế tạo các loại bánh như: Bánh đa, bánh đúc, bánh giò, bánh tẻ, bánh
phở…


- Lúa là thực phẩm chính của người dân khơng chỉ tại Việt Nam mà còn các nước khác
trên thế giới.


+ Lúa non được dùng để làm cốm.



+ Sau khi xay hạt lúa, lúa được tách ra thành 2 loại đó là: Gạo và trấu. Gạo dùng để ăn.
Trấu dùng để làm phân bón cho cây cối, làm nguyên liệu đốt hoặc thậm chí làm ổ cho già,
vịt nằm trong mùa lạnh.


+ Thân lúa sau khi lấy hạt được gọi là rơm: Rơm được phơi khô và chất thành đống để dự
trự. Rơm được dùng để làm thức ăn cho gia súc, làm nguyên liệu đốt và dùng để gia súc
nằm khi trời lạnh.


+ Tóc: Cái này hơi khó hiểu cho những bạn chưa biết nhiều về lúa. Ngày xưa, người nông
dân + gặt lúa tận góc, sau đó lấy hạt. Thứ cịn lại là thân cây lúa, người nông dân cận thận
phơi thân cây đó thật khơ và đan lại với nhau thành những tấm lớn dùng để lợp nhà.
<b>d. Thành tựu</b>


- Ngày nay, Việt Nam đã lai tạo hơn 30 loại giống lúa khác nhau và được công nhận là
giống lúa quốc gia.


- Từ một nước nghèo đói, lạc hậu. Việt Nam nay là nước thứ 2 xuất khẩu gạo lớn nhất thế
giới, chỉ đứng sau Thái Lan.


<b>III. Kết bài.</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

0 Lúa không chỉ đem lại cuộc sống no đủ, mà nó cịn mang đến cho người dân Việt Nam
một nét đẹp trong đời sống văn hóa tinh thần mà khơng có một thứ gì có thể thay thế
được.


<b>Bài viết số 1 lớp 9 đề 1 - Thuyết minh cây lúa (Mẫu 1)</b>


Việt Nam là đất nước có nền văn minh lúa nước từ bao đời nay. Nghề trồng lúa được xem
là nghề chính và là niềm tự hào của cha ông ta, là thước đo giá trị tinh thần và kinh tế của
Việt Nam. Cho đến bây giờ mặc dù cơng nghiệp hóa hiện đại hóa song nghề trồng lúa vẫn


được coi trọng và đầu tư. Cây lúa nước cũng vì thế mà đi vào đời sống của mỗi con người
như một lẽ sống, có ý nghĩa vơ cùng quan trọng.


Ở Việt Nam nghề trồng lúa nước có từ rất lâu, kéo dài từ thế hệ này sang thế hệ khác. Mỗi
thời kỳ lại có những bước tiến và phát minh mới để nâng cao năng suất của cây lúa nước.
Cây lúa nước là cây lương thực chủ đạo của Việt Nam, mặc dù bên cạnh nó cịn có các
loại cây khác như ngô, khoai, sắn…nhưng không loại cây nào có thể thay thế được vị trí,
vai trị quan trọng của lúa nước.


Lúa chính là thành quả của một quá trình lao động sản xuất nhiều cơng đoạn, trải qua
nhiều nắng mưa, nhiều mồ hôi và lo toan của người nông dân.


Bởi thế người ta vẫn bảo nhau rằng:


<i>Ai ơi bưng bát cơm đầy</i>


<i>Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Từ một hạt lúa sẽ tạo nên thành nhiều hạt lúa chắc mẩm chính là q trình sinh sôi và phát
triển của cây lúa nước. Người nông dân sẽ lựa chọn những hạt lúa tròn và chắc để làm
giống, ủ vào nơi kín gió với nhiệt độ phù hợp, tránh sự xâm nhập của sâu bọ, chuột gián.
Ủ trong một thời gian vài ngày thì hạt thóc giống sẽ có độ ấm và bắt đầu nhú lên những
mầm trắng nhỏ xinh. Những mầm trắng ấy rất yếu ớt nên người nông dân khéo léo không
làm gãy chúng, bởi đó chính là cây mạ non sau này khi cấy xuống bùn. Ngay từ công
đoạn đầu đã bắt buộc kinh nghiệm, sự khéo léo và tỉ mỉ của bàn tay người nông dân đê tạo
ra những cây mạ cứng cáp.


Họ sẽ dùng những hạt trịn nảy mẩm đó gieo xuống luống đất sền sệt, vừa đủ nước ở
ngoài cánh đồng. Chờ đến một thời đủ dài để hạt giống đó tạo thành những cây mạ non
nằm sát vào nhau, màu xanh rất mượt mà. Lúc ấy cả cánh đồng đều bị sắc xanh của đám


mạ non bao phủ lấy, tạo nên sự yên bình và êm ả giữa chốn q nhà.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Vậy là đã hồn thành cơng đoạn cấy lúa, tiếp sau đó đến giai đoạn chăm sóc lúa theo từng
thời kỳ thích hợp nhất. Sau khi cấy thì người nơng dân đã phun thuốc để phịng trừ sâu
bệnh gây hại, vì đây là thời kỳ lúa còn non, rất dễ bị sâu bệnh xâm nhập. Người nông dân
đã trải qua bao nhiêu nắng mưa, nhiều đêm lo âu nghĩ mọi cách tìm ra cách phịng chống
sâu bệnh hiệu quả nhất và tiết kiệm nhất. Trồng được một hạt lúa là cả một nỗi dài nhọc
nhằn, lo toan. Để chúng ta ta giờ ăn một bát cơm cần phải nâng niu và trân trọng.


Trải qua một quá trình chăm sóc, vụn trồng, tưới tiêu và thời tiết ưu ái thì người nơng dân
sẽ có một vụ mùa thắng lợi, gánh về sân những hạt thóc trịn vàng ươm.


Lúa ở Việt Nam có hai loại chủ yếu là lúa nếp và lúa tẻ. Lúa tẻ là loại lúa hạt dài mà
người dân vẫn thường dùng trong các bữa cơm, cịn lúa nếp là loại lúa mình trịn nẩy
người ta thường dùng để làm xôi, làm bánh. Mỗi loại lúa đều có vai trị và chức năng
riêng của nó.


Lúa nước Việt Nam có vai trị vơ cùng quan trọng đối với cuộc sống của mỗi gia đình, là
“gia vị” không thể thiếu trong mỗi bữa cơm người Việt. Mỗi khi chúng ta ăn hạt cơm
trắng tròn, dẻo thơm vẫn không quên được công lao, gian nan của những người nông dân
đã làm ra chúng. Trong những bữa tiệc quan trọng thì gạo vẫn chiếm vai trị quan trọng
khơng thể thiếu. Đặc biệt với sự tích Bánh chưng bánh giầy từ thời Hùng Vương đã đề
cao vai trò của cây lúa đối với đời sống chúng ta.


Cho đến nay, Việt Nam trở thành một nước xuất khẩu gạo lớn trên thị trường thế giới.
Đây là điều khiến cho chúng ta và hơn hết là người nơng dân tự hào vì cơng sức mà mình
bỏ ra được đền đắp. Việt Nam phát triển lên từ ngành trồng lúa nước, và nó mãi mãi là
nghề truyền thống không thể thay thế.


<b>Bài viết số 1 lớp 9 đề 1 - Thuyết minh cây lúa (Mẫu 2)</b>


<i>“Việt Nam đất nước ta ơi,</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Từ ngàn đời nay, cây lúa đã gắn bó thân thiết với con người, làng quê Việt Nam. Bằng hạt
gạo – hạt ngọc trời ban cho, Lang Liêu đã làm nên bánh chưng, bánh giầy tượng trưng
cho trời và đất – để kính dâng vua Hùng. Chính vì thế, cây lúa nước đã trở thành một nét
đẹp văn hóa của người Việt. Hình ảnh của cây lúa và người nơng dân đã trở thành những
mảnh màu không thể thiếu trong bức tranh của làng quê Việt Nam bây giờ và mãi mãi về
sau.


Lúa là một thực vật quý giá, là cây trồng quan trọng nhất trong nhóm ngũ cốc, là cây
lương thực chính của người Việt Nam nói riêng và người dân Châu Á nói chung. Lúa
thuộc lồi thân thảo. Thân cây lúa trịn chia thành từng lóng và mắt. Lóng thường rỗng
ruột, chỉ có phần mắt là đặc. Lá lúa có phiến dài và mỏng,mọc bao quanh thân, mặt lá
nhám, gân lá chạy song song. Tùy thời kì sinh trưởng, phát triền mà lá lúa có màu khác
nhau. Khi lúa chín ngả sang màu vàng. Rễ của cây lúa không dài lắm, thường mọc với
nhau thành chùm bám chặt vào bùn để giữ cho thân lúa thẳng đồng thời hút dưỡng chất
nuôi thân cây. Hoa lúa nhỏ nhắn, mọc thành nhiều chùm dài. Điều đặc biệt của cây lúa mà
ít ai để ý đến. Hoa lúa cũng chính là quả lúa đồng thời trở thành hạt lúa sau này. Hoa lúa
khơng có cánh hoa, chỉ có những vảy nhỏ bao bọc lấy nhụy ở bên trong. Lúc hoa lúa nở,
đầu nhụy thị ra ngồi, có một chùm lơng để quét hạt phấn. Hoa lúa tự thụ phấn rồi biến
thành quả. Chất tinh bột trong quả khô đặc lại dần và biến thành hạt lúa chín vàng.
Trước đây, người Việt chỉ có hai vụ lúa: chiêm và mùa. Ngày nay, khoa học phát triển,
mỗi năm có nhiều vụ nối tiếp nhau. Trồng lúa phải qua nhiều giai đoạn: từ hạt thóc nảy
mầm thành cây mạ; rồi nhổ cây mạ cấy xuống ruộng. Ruộng phải cày bừa, làm đất, bón
phân. Ruộng phải sâm sấp nước. Khi lúa đẻ nhánh thành từng bụi (đang thì con gái) lại
phải làm cỏ, bón phân, diệt sâu bọ. Rồi lúa làm địng, trổ bơng rồi hạt lúa chắc hạt, chín
vàng. Người nơng dân cắt lúa về tuốt hạt, phơi khô, xay xát thành hạt gạo… Biết bao
cơng sức của nhà nơng để có hạt gạo nuôi sống con người.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

sống con người, hạt lúa, hạt gạo cịn gắn bó với đời sống tinh thần của người Việt. Có


nhiều loại gạo: gạo tẻ, gạo nếp… Gạo nếp dùng làm bánh chưng, bánh giầy là hai loại
bánh truyền thống của con người Việt Nam trong dịp Tết Nguyên Đán. Bánh chưng, bánh
giầy còn gắn liền với Lang Liêu thời vua Hùng dựng nước. Lúa nếp non còn dùng để làm
cốm – một thức quà thanh lịch của người Hà Nội. Gạo nếp dùng để đồ các loại xơi – một
món đồ lễ khơng thể thiếu trên bàn thờ của người Việt Nam trong ngày Tết và ngày cúng
giỗ tổ tiên. Đồng thời xôi cũng là thức quà quen thuộc hằng ngày. Từ lúa gạo, người Việt
còn làm rất nhiều loại bánh như: bánh đa, bánh đúc, bánh giò, bánh tẻ, bánh nếp, bánh
phở, cháo… Nếu khơng có gạo, thật là khó khăn trong việc tạo nên nền văn hóa ẩm thực
mang bản sắc văn hóa Việt Nam.


Ngày nay, nước ta đã lai tạo được gần 30 giống lúa được công nhận là giống lúa quốc gia.
Việt Nam từ một nước đói nghèo đã trở thành một nước đứng thứ 2 trên thế giới sau Thái
Lan về xuất khẩu gạo.


Tóm lại, cây lúa có tầm quan trọng rất lớn đối với nền kinh tế nước nhà chủ yếu cịn dựa
vào nơng nghiệp. Cây lúa bao đời là bạn thân thiết của người nông dân Việt Nam, khơng
chỉ về mặt vật chất mà cịn cả về mặt tinh thần. Mãi mãi vẫn còn nghe mọi người nhắc
nhau những vần điệu ca dao thấp thống bóng hình con trâu và cây lúa:


<i>“Bao giờ cây lúa cịn bong</i>
<i>Thì cịn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn”.</i>


<b>Bài viết số 1 lớp 9 đề 1 - Thuyết minh cây lúa (Mẫu 3)</b>


Lúa là một trong năm loại cây lương thực chính của thế giới. Đối với người Việt chúng ta
cây lúa không chỉ là một loại cây lương thực quý mà còn là một biếu tượng trong văn
chương ẩn dưới “bát cơm”,”hạt gạo”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

nghiệp của nước ta không chỉ sản xuất ra đủ một lượng lớn lương thực đáp ứng nhu cầu
trong nước mà còn xuất khẩu sang nhiều thị trường lớn trên thế giới. Trong đó ngành


trồng lúa ở nước ta là một trong những ngành ngành sản xuất lương thực vô cùng quan
trọng và đạt được những thành tựu đáng kể, đưa Việt Nam trở thành nước xuất khẩu gạo
lớn thứ hai trên thế giới.


Đối với người Việt chúng ta, hay phần lớn dân Á châu nói chung, cây lúa (tên khoa học là
Oryza sativa) và hạt gạo là một loại thực phẩm hết sức gần gũi và đóng một vai trị cực kỳ
quan trọng trong dinh dưỡng. Ngay từ khi còn trong lòng mẹ, chúng ta đã làm quen với
cơm gạo, và lớn lên theo cây lúa cùng hạt gạo. Với bản sắc văn hóa nơng nghiệp, cây lúa
và hạt gạo còn là một biểu tượng của cuộc sống. Ca dao, khẩu ngữ chúng ta có câu
“Người sống về gạo, cá bạo về nước”, hay “Em xinh là xinh như cây lúa”, v.v..


Qua hàng nghìn năm lịch sử, lúa đã là cây lương thực chủ yếu nuôi sống các thế hệ người
Việt cho đến nay. Trong đời sống tinh thần của con người, cây lúa cũng gắn bó thân thiết
vơ cùng. Điều đó được thể hiện rất rõ trong ngơn ngữ hàng ngày, trong cách nói, cách đặt
tên, gọi tên từ cửa miệng của những người hai sương một nắng.


Bắt đầu từ lúc ném hột mộng xuống đồng. Thơng thường ném buổi sáng thì buổi chiều
mộng “ngồi” được, tức là rễ đã bám được vào đất và mầm nhọn đã xi hướng lên trời.
Bác nơng dân hồn tồn có thể n tâm vì nó đã sống được trong mơi trường mới, đích
thực của nó.


Qua hơm sau, mầm nhú lên cao hơn, bắt đầu có chút xanh xanh, người ta bảo là mạ đã
“xanh đầu”. Mạ cũng có “gan”. “Gan mạ nằm ở thân non, dễ bị gãy nát. Nhổ khơng khéo,
nhỡ để giập “gan” thì rảnh mạ sẽ “chết”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

mặt nước nữa. Giờ đây đã “đứng chân” được, tức là cũng giống như người ta, có một tư
thế đứng chân vững vàng, đã chắc chắn bám trên mặt đất.


Khác với lúc nảy mầm, cây lúa sinh sôi bằng cách “đẻ nhánh”. Nhánh “con” nhánh “cái”
thi nhau mọc ra, tần vần thành khóm. Vào khoảng tháng hai âm lịch, khắp cánh đồng mơn


mởn màu xanh. Dáng cây thon thả, mềm mại, sắc lá non tơ đầy sức sống gợi cái gì đấy
tươi trẻ, xinh xắn, dịu dàng. Đó chính là lúc cây lúa “đang thì con gái”, thời đẹp nhất của
đời lúa, đời người. Gặp hôm trời quang mây tạnh, đứng ở đầu làng mà trông, cánh đồng
trải ra bát ngát, đẹp tựa bức tranh.


Hết thời kỳ xn xanh, lúa chuyển sang giai đoạn “trịn mình”, “đứng cái” rồi “ơm địng”.
Địng lúa to nhanh, nắng mưa rồi mỗi ngày mỗi khác. “Lúa chiêm lấp ló đầu bờ/Hễ nghe
tiếng sấm phất cờ mà lên”. Nếu mưa thuận gió hịa chỉ mươi hơm là lúa trổ xong. Nhưng
chẳng may gặp kỳ khơ hạn thì địng khơng trổ lên được, người ta bảo bị “nghẹn”.


“Nghẹn” là cực lắm rồi, là có cái gì nó vương vướng, như uẩn ức trong lịng…


Ngồi ra cũng có thể bị “ngã”, bị “nằm” lúc gặp gió lớn mưa to. Ơng bà ta sợ nhất cảnh
này vì mấy tháng trơng cây đã sắp đến ngày hái quả. Nếu chẳng may bị “ngã” non thì hột
thóc sẽ lép lửng, coi như hỏng ăn. Cịn lúa “nằm” dưới nước, ngâm độ vài ngày thì hột
thóc trương lên, nứt nanh và nảy mầm ngay trên bông. Mầm nhú trắng trơng xót ruột. Xót
ruột về khoe vui với nhau, thóc nhà tơi “nhe răng cười” ơng ạ!


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

Nông nghiệp Việt Nam vốn mang dáng dấp một nước – nền công nghiệp lúa nước bao đời
nay cho nên cây lúa gắn bó, gần gũi với người Việt, hồn Việt là lẽ dĩ nhiên.


<b>Bài viết số 1 lớp 9 đề 1 - Thuyết minh cây lúa (Mẫu 4)</b>


Lúa là người bạn mn đời gắn bó với sự cần lao của người nông dân Việt Nam. Nếu hoa
sen mang vẻ đẹp thanh khiết, áo dài mang vẻ đẹp thướt tha đặc trưng của người phụ nữ Á
Đơng, thì cây lúa Việt Nam có một nét đẹp dân dã thân thuộc.


Việt nam là một nước xuất khẩu gạo và có một ngành nông nghiệp trồng lúa từ xa xưa,
trên hầu hết cánh đồng lúa dải khắp các vùng đất từ Bắc vào Nam. Và các giống lúa cũng
ngày càng đa dạng , phong phú bởi lúa được nghiên cứu nuôi trồng và nhân giống. Lúa có


nhiều loại tùy thuộc theo từng vùng miền, khí hậu, mỗi vùng miền có địa hình và đất khác
nhau nên lúa cũng phân bố khác nhau, nhưng thích hợp trồng lúa nhất là những vùng có
nước ngọt, nếu vùng có nước quá mặn, phèn như vùng Tây Nguyên, lúa không thể lên
được và cây lúa sống chủ yếu nhờ nước là loại cây lá mầm rễ chùm. Thân lúa có chiều
rộng từ 2-3 cm, chiều cao khoảng từ 60-80 cm. Cây lúa được chia làm ba bộ phận chính ,
nhờ chúng cây có thể phát triển tốt: rễ cây nằm dưới lớp đất màu mỡ có tác dụng hút chất
dinh dưỡng ni cơ thể, thân cây là cầu nối con đường đưa dinh dưỡng từ rễ lên ngọn, cịn
ngọn là nơi bơng lúa sinh trưởng và trở thành hạt lúa. Lúa chín rồi có màu vàng và người
ta gặt về làm thành gạo. Người nông dân thường trồng các loại giống lúa phổ biến như:
lúa nước, lúa tẻ, lúa cạn, lúa nước nông, lúa nước sâu…. Lúa nếp người ta thường trồng
để làm bánh: bánh trưng, bánh nếp,… hoặc để thổi xơi, cịn lúa tẻ là lúa trồng làm nguồn
thực phẩm chính, đóng vai trị quan trọng trong mỗi bữa ăn của người dân Việt Nam còn
lúa non được dùng làm cốm. Theo các nghiên cứu, trước kia ông cha ta trồng giống lúa
NN8, ngày nay thì miền Bắc trồng các loại giống lúa C70, DT10, A20,…


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

tưới tắm ,nhổ cỏ và những ngày đông hoặc mưa bão, hạn hán người dân phải khổ cực
nhiều lần để che chắn và chăm sóc chúng. Trong suốt thời gian cây lúa sinh trưởng, hàng
tuần người nông dân phải ra đồng chăm lúa và lấy nước. Việc thăm lúa giúp người nông
dân phát hiện các ổ sâu hại lúa và bón phân để lúa phát triển tốt hơn. Đợt đến khi cánh
đồng bắt đầu ngả màu vàng , người nông dân mới thu hoạch. Trước đây người dân thu
hoạch bằng tay rất vất vả và tốn kém nhưng bây giờ , công nghệ phát triển tiến bổ hơn,
người ta thu hoạch bằng máy nên đỡ phần nào khó nhọc cho con người. Từ thời ơng cha
ta, nhân dân trồng chỉ có hai vụ lúa: chiêm và mùa. Ngày nay, xã hội phát triển, công
nghệ trong sản xuất được nâng cao hơn, mỗi năm có nhiều vụ nối tiếp nhau. Trồng lúa
phải qua nhiều giai đoạn: từ hạt thóc nảy mầm thành cây mạ; rồi nhổ cây mạ cấy xuống
ruộng. Ruộng phải cày bừa, làm đất, bón phân. Ruộng phải sâm sấp nước. Khi lúa đẻ
nhánh thành từng bụi , người dân lại phải làm cỏ, bón phân, diệt sâu bọ. Rồi lúa làm địng,
trổ bơng rồi hạt lúa chắc hạt, chín vàng. Người nơng dân cắt lúa về tuốt hạt, phơi khô, xay
xát thành hạt gạo… Biết bao cơng sức của nhà nơng để có hạt gạo nuôi sống con người.
Những hạt gạo được làm ra khơng chỉ phục vụ bữa ăn chính của con người mà cịn để làm


bánh , nấu xơi, đặc biệt vào những dịp lễ hay Tết, gạo để làm bánh trưng truyền thống và
cịn làm món q trao nhau. Chính những người nơng dân ấy đã góp phần quan trọng giúp
Việt Nam có vị thế như ngày hơm nay với ngành lúa nước hay đất nước chúng ta còn
được ca ngợi là Văn Minh Lúa Nước.


Cây lúa chính là người bạn thân thiết của người nông dân Việt Nam và là nguồn lương
thực dồi dào của nước ta, có tầm quan trong đối với phát triển kinh tế, mang lại sự no đủ
cho chúng ta và trở thành nét đẹp tinh thần của người dân Việt Nam.


<b>Dàn ý thuyết minh cây tre</b>
<b>I. Mở bài:</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

<b>II. Thân bài:</b>
<b>1. Nguồn gốc:</b>


- Cây tre đã có từ lâu đời, gắn bó với người dân Việt Nam qua hàng nghìn năm lịch sử.
- Tre xuất hiện cùng bản làng trên khắp đất Việt, đồng bằng hay miền núi...


<b>2. Các loại tre:</b>


- Tre có nhiều loại: tre Đồng Nai, nứa, mai, vầu Việt Bắc, trúc Lam Sơn, tre ngút ngàn
rừng cả Điện Biên, và cả lũy tre thân thuộc đầu làng...


<b>3. Đặc điểm:</b>


- Tre không kén chọn đất đai, thời tiết, mọc thành từng lũy, khóm bụi


- Ban đầu, tre là một mầm măng nhỏ, yếu ớt; rồi trưởng thành theo thời gian và trở thành
cây tre đích thực, cứng cáp, dẻo dai



- Thân tre gầy guộc, hình ống rỗng bên trong, màu xanh lục, đậm dần xuống gốc. Trên
thân tre cịn có nhiều gai nhọn.


- Lá tre mỏng manh một màu xanh non mơn mởn với những gân lá song song hình lưỡi
mác.


- Rễ tre thuộc loại rễ chùm, cằn cỗi nhưng bám rất chắc vào đất -> giúp tre không bị đổ
trước những cơn gió dữ.


- Cả đời cây tre chỉ ra hoa một lần và vịng đời của nó sẽ khép lại khi tre "bật ra hoa"...
<b>4. Vai trò và ý nghĩa của cây tre đối với con người Việt Nam:</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

- Tre giúp người trăm cơng nghìn việc, là cánh tay của người nông dân.
- Làm công cụ sản xuất: cối xay tre nặng nề quay.


<b>b. Trong sinh hoạt:</b>


- Bóng tre dang rộng, ơm trọn và tỏa bóng mát cho bản làng, xóm thơn. Trong vịng tay
tre, những ngôi nhà trở nên mát mẻ, những chú trâu mới có bóng râm để nhởn nhơ gặm cỏ,
người nơng dân say nồng giấc ngủ trưa dưới khóm tre xanh...


- Dưới bóng tre, con người giữ gìn nền văn hóa lâu đời, làm ăn, sinh cơ lập nghiệp.
- Tre ăn ở với người đời đời kiếp kiếp:


+ Khi chưa có gạch ngói, bê tơng, tre được dùng để làm những ngơi nhà tre vững chãi che
nắng che mưa, nuôi sống con người.


+ Tre làm ra những đồ dùng thân thuộc: từ đôi đũa, rổ rá, nong nia cho đến giường, chõng,
tủ...



+ Tre gắn với tuổi già: điếu cày tre.


+ Đối với trẻ con ở miền thơn q thì tre cịn có thể làm nên những trị chơi thú vị, bổ ích:
đánh chuyền với những que chắt bằng tre, chạy nhảy reo hò theo tiếng sao vi vút trên
chiếc diều cũng được làm bằng tre...


<b>c. Trong chiến đấu:</b>
- Tre là đồng chí...


- Gậy tre, chông tre chống lại sắt thép quân thù.


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

- Tre hi sinh để bảo vệ con người
<b>III – Kết bài:</b>


Cây tre trở thành biểu tượng của dân tộc Việt Nam. Trong đời sống hiện đại ngày nay,
chúng ta vẫn không thể rời xa tre.


<b>Bài viết số 1 lớp 9 đề 1 - Thuyết minh cây tre (Mẫu 1)</b>


Cây tre gắn bó với người nơng dân Việt Nam từ hàng nghìn năm rồi. Hình ảnh làng quê
Việt Nam từ xưa gắn liền với luỹ tre làng – những bụi tre gai ken dày chắn gió bão thiên
tai và che chắn cho mỗi làng Việt trước trộm đạo, giặc cướp và kẻ xâm lược – nhân tai.
Cây tre đã đi vào văn hố Việt Nam như một hình ảnh bình dị mà đầy sức sống, dẻo dai
chống chịu thiên tai, gió bão và giặc ngoại xâm. Thế nhưng những năm gần đây, có một
thực tế đáng buồn là loại cây đa dạng, thiết thực trong mọi mặt đời sống này đã bị coi nhẹ,
bị chặt phá, bị thoái hố…. bởi nhiều ngun nhân khác nhau.


Về tính năng, khơng thể kể hết tính đắc dụng của tre đối với người dân Việt Nam: làm nhà
cửa (vì kèo, lanh tơ, phên liếp, vách tường…), làm vô số vật dụng: cái cần câu, cái vó cất
tơm cất tép, cái đó, bè mảng, cái cầu ao và cả những cái cầu bắc qua những con mương,


con kênh nhỏ; làm chông, làm tên bắn chống giặt ngoại xâm…


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17></div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

Từ bao đời nay, cây tre đã có mặt hầu khắp các neỏ đường đất nước và gắn bó thủy chung
với cộng đồng dân tộc Việt Nam. Đặc biệt trong tâm thức người Việt, cây tre chiếm vị trí
sâu sắc và lâu bền hơn cả_ được xem như là biểu tượng của người Việt đất Việt,…Từ hồi
bé tẹo tôi vẫn nhớ bài “Cây tre Việt Nam: Nước việt nam xanh muôn vàn cây lá khác
nhau,cây nào cũng đẹp,cây nào cũng quý,nhưng thân thuộc nhất vẫn là tre nứa trúc mai
vầu mấy chục loại khác nhau, nhưng cùng một màu xanh mọc thẳng…”


<i>“Tre xanh, xanh tự bao giờ</i>
<i>Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh…”</i>


Cây tre, cây nứa, cây vầu, trúc và nhiều loại tre bương khác là loại cây thuộc họ Lúa. Tre
có thân rể ngâm, sống lâu mọc ra những chồi gọi là măng. Thân rạ hóa mộc có thể cao
đến 10 -18 m , ít phân nhánh. Mỗi cây có khoảng 30 đốt,… Cả đời cây tre chỉ ra hoa một
lần và vịng đời của nó sẽ khép lại khi tre “bật ra hoa”.


Cùng với cây đa, bến nước, sân đình – một hình ảnh quen thuộc, thân thương của làng
Việt cổ truyền, thì những bụi tre làng từ hàng ngàn năm đã có sự cộng sinh, cộng cảm đối
với người Việt. Tre hiến dâng bóng mát cho đời và sẵn sàng hy sinh tất cả. Từ măng tre
ngọt bùi đến bẹ tre làm nón, từ thân tre cành lá đến gốc tre đều góp phần xây dựng cuộc
sống.


Cây tre đã gắn bó với bao thăng trầm của lịch sử nước nhà. “…Đất nước lớn lên khi dân
mình biết trồng tre và đánh giặc…”. Không phải ngẫu nhiên sự tích loại tre thân vàng
được người Việt gắn với truyền thuyết về Thánh Gióng_ hình ảnh Thánh Gióng nhổ bụi
tre đằng ngà đánh đuổi giặc ngoại xâm lược đã trở thành biểu tượng cho sức mạnh chiến
thắng thần kỳ, đột biến của dân tộc ta đối với những kẻ thù xâm lược lớn mạnh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

chống quân xâm lược, chống thiên tai, đồng hóa. Tre thật sự trở thành chiến lũy và là


nguồn vật liệu vô tận để chế tạo vũ khí tấn cơng trong các cuộc chiến. Chính những cọc
tre trên sơng Bạch Đằng, Ngơ Quyền đã đánh tan qn Nam Hán. Chính ngọn tầm vơng
góp phần rất lớn trong việc đánh đuổi quân xâm lược để giàng Độc lập – Tự do cho Tổ
Quốc. “Tre giữ làng, giữ nước, giừ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín,…”


Vốn gần gũi và thân thiết với dân tộc, cây tre đã từng là nguồn cảm hứng vô tận trong văn
học, nghệ thuật. Từ những câu chuyện cổ tích (Nàng Út ống tre, cây tre trăm đốt,…) đến
các ca dao, tục ngữ đều có mặt của tre. Đã có khơng ít tác phẩm nổi tiếng viết về tre: “Cây
tre Việt Nam” của Thép Mới và bài thơ cùng tên của thi sỹ Nguyễn Duy,… Tre cịn góp
mặt trong những làn điệu dân ca, điệu múa sạp phổ biến hầu khắp cả nước. Và nó là một
trong những chất liệu khá quan trọng trong việc tạo ra các nhạc khí dân tộc như : đàn tơ
tưng, sáo, kèn,… Tre đi vào cuộc sống của mỗi người, đi sâu thẳm vào tâm hồn người
Việt. Mỗi khi xa quê hương, lữ khách khó lịng qn được hình ảnh lũy tre làng thân
thương, những nhịp cầu tre êm đềm… Hình ảnh của tre ln gợi nhớ về một làng quê Việt
Nam mộc mạc, con người Việt Nam thanh cao, giản dị mà chí khí.


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

<b>Bài viết số 1 lớp 9 đề 1 - Thuyết minh cây tre (Mẫu 2)</b>


Có lẽ đối với mỗi người Việt Nam, cây tre đã trở thành một phần của cuộc sống. Đặc biệt
với mỗi con người ra đi từ làng quê thì hình ảnh những luỹ tre xanh đã ăn sâu vào tiềm
thức, do vậy dù có đi đâu đến nơi đâu họ cũng đều nhớ về luỹ tre xanh như nhớ về kỉ
niệm gắn bó, thân thương nhất. Và đó chính là niềm tự hào của họ hàng nhà tre chúng tơi.
Sự gắn bó, gần gũi của họ hàng nhà tre chúng tôi được thể hiện ở chỗ đi bất cứ nơi đâu,
đồng bằng hay miền núi thì bạn cũng đều thấy chúng tơi nghiêng mình trên những con
đường hay trong những cánh rừng bát ngát. Họ nhà tre chúng tôi rất đông đúc, nào là: Tre
Đồng Nai, nứa, mai, vầu Việt Bắc, trúc Lam Sơn, tre ngút ngàn rừng cả Điện Biên, rồi
dang, rồi hóp và cả luỹ tre thân thuộc đầu làng...


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

<i>"Ở đâu tre cũng xanh tươi</i>
<i>Cho dù đất sỏi đá vôi bạc màu"...</i>



Trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc, chúng tôi luôn cùng con người đấu tranh
cho độc lập, tự do. Chẳng thế mà từ lâu, người Việt đã ví chúng tơi với phẩm chất quật
khởi của dân tộc ngàn đời.Những ngày đất nước Việt Nam còn sơ khai, chúng tơi đã giúp
ơng Gióng diệt lũ giặc Ân bạo tàn, đem lại hạnh phúc cho muôn dân. Rồi trong cuộc
chiến chống quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, chính chúng tơi đã dìm chết bao tàu
chiến của địch khiến cho chúng khiếp sợ phải thua cuộc. Thuở đất nước cịn chưa có vũ
khí hiện đại như bây giờ, chúng tơi là vũ khí mạnh nhất được dùng để tiêu diệt quân thù.
Và trong hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mĩ, chúng tơi cũng tích cực tham gia
kháng chiến bằng cách góp một phần bé nhỏ cơ thể mình để làm ra những cây chơng nhọn
hoắt sẵn sàng tiêu diệt kẻ thù. Bởi vững vàng trong chiến đấu mà họ mà tre tôi đã được
phong danh hiệu anh hùng bất khuất.


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

Đối với trẻ con ở miền thơn q thì tre cịn có thể làm nên những trị chơi thú vị, bổ ích.
Dưới những bãi đất rộng, được chúng tôi che hết ánh nắng oi ả của mùa hè, các bạn tha hồ
chơi đùa thoả thích. Các bạn nữ cịn trị gì thú vị hơn ngồi đánh chuyền với những que
chắt bằng tre. Còn các bạn nam lại chạy nhảy reo hò theo tiếng sáo vi vút trên chiếc diều
cũng được làm ra từ tre. Những cánh diều đó sẽ đem ước mơ của các bạn về nơi xa.


Tre chúng tơi cịn làm nên những tiếng nhạc réo rắt từ những cây sáo tre, sáo trúc, làm vơi
đi bao nỗi vất vả nhọc nhằn của người nơng dân chân lấm tay bùn.


Ngày nay lồi tre của chúng tơi cịn vươn xa hơn nữa. Có một giáo sư là Việt Kiều sống ở
Pháp đã đưa anh em chúng tôi sang trồng thử trên đất Pháp. Thế mà ở xứ lạ, chúng tôi vẫn
sống vững vàng. Ngày sau, dẫu nước mình có hiện đại hơn, lồi tre chúng tôi cũng vẫn sẽ
ngay thẳng, thuỷ chung và can đảm để tơn lên những đức tính của người hiền - đức tính
Việt Nam.


<b>Bài viết số 1 lớp 9 đề 1 - Thuyết minh cây tre (Mẫu 3)</b>



Từ bao đời nay, cây tre là người bạn gắn bó và gần gũi với người dân Việt Nam. Tre đã
cống hiến tất cả sự sống cho con người nên ta phải yêu quý và bảo vệ cây tre Việt Nam.
Tre là một loại cây khẳng khiu, có nhiều cơng dụng. Lá tre thường được người miền Nam
lấy để gói bánh tro vào dịp lễ giết sâu bọ. Lạt tre dùng để cột bánh. Thân tre được dùng để
làm đũa. Các thợ thủ công cũng đã tận dụng thân tre để đan thành giỏ tre, rổ tre. Nhân dân
ta thường đong dầu, đong nước mắm khi mua bán bằng ống tre. Thời cách mạng, bộ đội
Việt Nam dùng ông tre để đựng nước, nấu cơm. Trong quán ăn ở vùng nông thôn, người
ta cũng chẻ thân tre để làm ống tăm cho khách sử dụng sau bữa ăn. Thân tre chẻ nhỏ để
nhóm bếp rất đượm lửa.


</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

Cao khơng đến 10 m. Tre gai kích thước ốm và thấp hơn, lá cũng mỏng manh hơn nhưng
ở mỗi đốt tre mọc ra rất nhiều nhánh gai, sắc, nông dân thường trồng thành hàng rào
chống trộm. Tre ngà là loại tre có thân sọc vàng xen lẫn với sọc xanh rất đẹp. Người ta
thường trồng làm cảnh. Tre rừng, mọc hoang trong rừng nên thường không tươi tốt lắm.
Ngược lại, lồ ô là loại tre rừng khổng lồ, bề ngang và bề cao của nó gấp hai, ba lần tre
xanh. Nó mọc thành từng bụi, từng hàng như rừng trong vùng đất hoang. Người ta đốn lấy
gỗ làm nhà tranh, nhà sàn rất chắc chắn. Lồ ơ to lớn bao nhiêu thì trúc lại mảnh mai, yếu
ớt bấy nhiêu vì thân rỗng và kích thước nhỏ bé. Có hai loại trúc là trúc xanh và trúc vàng.
Gần đây nước ta có nhập thêm một ít trúc kiểng gọi là trúc Nhật. Những cây kiểng này có
hình dáng đặc biệt, thân màu vàng óng, lá xanh mượt mà rất được mọi người ưa chuộng,
trồng làm cảnh và thường bày ở mái hiên, phòng khách.


Hình ảnh cây tre dã đi vào ca dao, thơ văn và ca từ. Chẳng hạn như:
<i>"Rễ siêng chẳng ngại đất nghèo</i>


<i>Tre bao nhiêu lá bấy nhiêu cần cù</i>
<i>Nghiêng mình trong gió tre đu</i>
<i>Cây kham khổ vẫn hát ru lá cành..."</i>


(NGUYỄN DUY)


Ơng bà ta có nhiều kinh nghiệm trong việc lựa chọn tre tốt:


<i>"Trồng tre, trồng trúc, trồng dừa</i>
<i>Muốn nên cơ nghiệp thì chừa lang vân"</i>
Người ta cịn sử dụng tre già hay tre non vào những việc khác nhau:


</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

Người thợ mộc còn so sánh độ bền của tre như sau:
<i>"Tre già là bà gỗ lim"</i>


Ngoài ra, ơng bà ta cịn nhìn cây tre để nghe ngóng về thời tiết: "Lá tre trôi lộc, mùa rét
xộc đến". Và từ đó người xưa cịn rút ra một quy luật sống của thiên nhiên và con người:
"Tre già, măng mọc" tre chẻ ra làm nuộc lạt, trở thành, một thứ khơng thể thiếu ở nhiều
chỗ: khi gói bánh, bó rau hoặc lợp nhà. Ca dao cũng nhắc đến nuộc lạt: "Bao nhiêu nuộc
lạt nhớ ông bà bấy nhiêu".


Ai từng đọc truyện Thánh Gióng hẳn khơng qn bụi tre Đằng Ngà khi Thánh Gióng nhổ
tre đánh tan giặc ngoại xâm: "Chẻ tre nghe Gióng".


Tre khơng những đi vào thơ văn mà măng tre còn là một thực phẩm chế biến đa dạng. Các
món ăn từ măng tre: măng tươi, măng khô, bún măng vịt, măng xào thịt ba rọi, thịt kho
măng, măng luộc chấm mắm tôm, măng chua... Bún măng vịt là món ăn được nấu với vịt
non, béo, măng tươi hoặc khô đã được luộc và thay nước nhiều lần, khi ăn người ta cho
bún, một ít hành răm và rau sống vào nữa, trở thành một món ăn vừa thơm vừa béo với
nước dùng ngọt dịu. Măng tươi đã luộc kĩ, có màu vàng chanh, được sắt miếng xào chung
với thịt ba rọi trở thành một món ăn dân dã và rất ngon nếu có thêm một vài lát ớt đỏ thì
lại càng hấp dẫn. Thịt heo kho măng cũng là một món ăn "bắt mắt", nấu nhanh và để được
vài ngày, tiết kiệm được thời gian nấu nướng mà khi chan vào chén cơm nóng thì cũng rất
ngon miệng. Măng luộc phải chọn măng trúc non, vào mùa mưa. Sau khi luộc nhiều lần,
ta sắt mỏng rồi chấm với mắm tôm hoặc nước mắm ngon ăn kèm với cơm như một món
rau. Nó sẽ có một vị vừa ròn vừa mát, kèm theo một vị ngọt dịu của măng tươi. Nói tóm


lại thì cây tre ln là người bạn đồng hành và nó đóng góp tất cả lợi ích của bản thân
mình cho con người Việt Nam.


</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

giá. Ngày nay, nhiều người đã bỏ trồng lúa hoặc cây khoai, đốn cây tre để có chỗ xây nhà
lầu, nhưng nếu một lúc nào đó, nước ta khơng cịn một bóng tre thì đời sống sẽ khó khăn
và buồn tẻ biết mấy!


<b>Bài viết số 1 lớp 9 đề 1 - Thuyết minh cây dừa</b>


Dừa không chỉ một loại cây ăn quả, cây cảnh mà còn là loại cây quen thuộc của nhiều
làng quê Việt Nam. Cây dừa đã gắn bó với đời sống của người Việt, và trở thành biểu
tượng của làng quê, trong đó phải nói đến vùng đất dừa Bến Tre.


Có thể nói, bất kì ở vùng quê nào trên đất nước Việt ta đều thấy thấp thống những bóng
dừa. Có 2 loại dừa: Dừa cao và dừa lùn. Dừa lùn thường trồng để làm cảnh, loại dừa cao
được phân ra thành các loại dừa như: Dừa xiêm, dừa bị, dừa nếp, dừa lửa, dừa dâu, dừa
dứa, dừa sáp.


Các bộ phận của cây dừa gồm: Thân, lá, hoa, buồng, trái. Thân dừa cao khoảng 20 – 25 m,
trên thân dừa có những đốt như hổ vằn, thường có màu nâu sậm, đường kính khoảng 45
cm. Với những loại dừa cảnh, thân dừa thường có màu xanh, nhiều đốt, đốt trên cùng là
nơi xuất phát những phiến lá ôm lấy thân rồi tỏa ra. Lá dừa to, có màu xanh, gồm nhiều
tàu, khi già lá sẽ vàng dần rồi héo và có màu hơi nâu. Hoa dừa có màu trắng, nhỏ, kết
thành chùm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

Dừa không phải chỉ để ăn quả mà các bộ phận của nó được dùng vào rất nhiều việc.
Nhiều người đã dùng thân dừa để bắc ngang con mương nhỏ làm cầu. Do thân dừa rất
chắc nên người ta đã dùng nó làm cột, làm kèo xây nhà, hoặc sáng tạo ra các mặt hàng thủ
công mỹ nghệ khác hoặc làm chén đũa…Bơng dừa tươi được dùng làm vật trang trí rất
đẹp mắt. Đọt dừa non có thể làm gỏi, lăn bột, xào.. rất thích hợp với người ăn chay. Có


một món ăn đặc biệt mà nhiều người khơng biết đó là con sâu sống trên cây dừa( còn gọi
là đuống dừa. Do ăn đọt dừa non nên ruộng dừa béo múp míp nên được chế biến thành
nhiều món ăn khối khẩu và bổ dưỡng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

Xơ dừa được đánh tơi ra dùng làm thảm, làm nệm, làm dép đặc trị cho những người bệnh
thấp khớp hoặc bện làm dây thừng, lưới bọc các bờ kè chống sạt lở ven sơng. Lá dừa có
thể dùng để lợp nhà, làm phên liếp, chằm nón, mà cịn là chất đốt thường dùng để đun nấu
phổ biến ở thôn quê, lá dừa khô bó lại làm đuốc để đi trong đêm tối trời.


Có thể thấy cây dừa không chỉ mang lại cảnh đẹp cho cuộc sống thêm phần tươi đẹp, cho
con người những món ăn thơm ngon bổ dưỡng mà nó cịn có rất nhiều công dụng với đời
sống của con người. Cây dừa cũng trở thành biểu tượng của người dân Việt Nam bởi sự
kiên cường bất khuất, giám đối mặt với mọi gian nan để vươn cao, vươn xa hơn


<b>Bài viết số 1 lớp 9 đề 1 - Thuyết minh cây bàng</b>


Dù đã đi ngược về xuôi, vào Nam ra Bắc, nhưng tơi chưa từng nhìn thấy một cây bàng
nào từng trải và to lớn như cây bàng phố tôi. Thân nó to, phải hai, ba vịng tay người lớn
mới ơm xuể. Cịn tán nó rộng, che kín cả một cái sân lớn diện tích cả trăm mét vng.
Sinh thời bác tôi bảo: Cây bàng lớn này dễ thường đã sống cả trăm năm, đáng được gọi là
cây bàng cổ thụ.


Tuổi thơ tơi gắn bó với cây bàng cổ thụ. Tơi nhớ những lần trốn nắng, trú mưa trong sự
chở che hào phóng của tán bàng, những lần thưởng thức mùi vị ngọt chát hấp dẫn của quả
bàng chín, những lần nhấm nháp vị bùi bùi khó tả của nhân quả bàng và nhớ cả những lần
đi bắt ve, những lần chơi trốn tìm hớ hênh quanh gốc bàng. Tất cả cho tơi hình dung về
một khái niệm bàng của riêng đám trẻ phố tôi.


</div>
<span class='text_page_counter'>(28)</span><div class='page_container' data-page=28>

mùa hạ lá xanh…như một điệp khúc chào đón mùa hè quay trở lại (sau này tôi mới biết
đây là phần mở đầu trong ca từ một ca khúc của nhạc sĩ Hoàng Vân viết cho thiếu nhi vào


những năm 60, 70 của thế kỷ trước). Có một nhà thơ, trong khi nhìn ngắm mùa đơng, nhìn
ngắm màu đỏ của lá bàng mà đã viết được một bài thơ thật xúc động: Vẫn gió bấc căm
căm/ Vãn mơ hồ mưa bụi/ Vẫn những lá bàng uốn cong mình mà cháy/ Đỏ như khi phải
từ biệt bầu trời/ Anh chẳng biết thế nào để yêu em thêm nữa/ Khi mùa đông tới gần….


Nhưng đến bây giờ thì cây bàng cổ thụ ấy khơng cịn nữa. Vì lấy đất dành cho sự mưu
sinh, người ta đã triệt hạ nó. Sau khi hồn thành nghĩa vụ qn sự trở về đứng trên mảnh
đất từng gắn bó với cây bàng cổ thụ mà lịng khơng khỏi xót xa, tiếc nuối. Trong lịng tơi
tự dưng thấy trống trải thiếu thốn…


</div>
<span class='text_page_counter'>(29)</span><div class='page_container' data-page=29>

nó là một phần kỷ niệm khơng thể thiếu trong khoảng trời thơ ấu và đáng nhớ của chúng
tôi.


<i><b>Bài viết số 1 lớp 9 đề 2:</b></i>


<b>Đề bài: Thuyết mình về một lồi động vật hay vật ni ở quê em</b>
<b>Dàn ý thuyết minh con chó</b>


<b>I. Mở bài:</b>


Nhiều cách, trực tiếp hoặc gián tiếp. Cứ chọn cái nào thu hút người đọc


VD: Chó là lồi vật thơng minh và sống tình cảm, thậm chí hơn cả lồi mèo nữa.
<b>II. Thân bài:</b>


<b>1. Phân loại:</b>


Chó ta chó tây chó Bẹc, Chihuahua v.v...
Nhưng chủ yếu ta thuyết minh về chó nhà.



<b>2. Cung cấp những tri thức về đặc điểm hình dạng:</b>


- Từ khái quát đến cụ thể, từ đầu --> đuôi (Thông tin trên mạng, trong đời sống, và cả ở
bài của Susu kia nữa). Chú ý nếu những đặc điểm nổi bật: Là lồi động vật! có 3 mí chẳng
hạn v.v...


<b>3. Thuyết minh về đặc điểm sống (Cứ tìm trên mạng nhé):</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(30)</span><div class='page_container' data-page=30>

- Đặc điểm sinh sản (lứa, số con 1 lứa v.v...)


- Đặc điểm tổ chức: Bầy đàn/ riêng lẻ v.v..., quan hệ vợ chồng, cha mẹ con cái v.v..
- Đặc điểm sống: Các tập tính, thói quen...


Vd: Chúng thường khoanh vùng sống bằng nước tiểu...
<b>4. Vai trị:</b>


- Là vật ni (chỉ rõ ra là vật ni như thế nào)
- Là người bạn


- Ngồi ra: Chó đặc vụ, cảnh sát v.v...


Phân tích từng vai trị (tại sao nó lại có thể làm thế, nó làm thế như thế nào)
<b>5. Quan hệ của chúng với con người:</b>


- Thân thiết, trung thành v.v...
<b>6. Mở rộng vấn đề:</b>


- Thái độ hiện trạng của con người (tình cảm, yêu quý, làm thịt v.v...) ==> Đánh giá nên
hay không nên



- Giải pháp và hướng đi cho việc đối xử với loài vật này.
<b>III. Kết bài:</b>Đánh giá chung và riêng về nó..


<b>Bài viết số 1 lớp 9 đề 2 - Thuyết minh con chó (Mẫu 1)</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(31)</span><div class='page_container' data-page=31>

người và hiện nay cịn được sử dụng rất nhiều trong các ngành cảnh sát và bảo vệ an ninh.
Một chú chó cưng trong nhà là một sự lựa chọn hàng đầu của hầu hết tất cả các gia đình.
Chó là lồi động vật ni đầu tiên được con người thuần hóa được cách đây 15. 000 năm
vào cuối Kỷ băng hà Tổ tiên của lồi chó là chó sói. Lồi vật này được sử dụng để giữ nhà
hoặc làm thú chơ Tổ tiên của lồi chó bao gồm cả cáo và chó sói là một lồi động vật có
vú gần giống như chồn sinh sống ở các hốc cây vào khoảng 400 triệu năm trước. Cịn lồi
chó như chúng ta thấy ngày nay được tiến hóa từ một lồi chó nhỏ, màu xám. Vào cuối kỳ
Băng hà, cách đây khoảng 40. 000 năm, chó sói và người chung sống với nhau thành
nhóm săn mồi theo bầy. Chó sói và người thường tranh nhau con mồi, thậm chí cịn giết
nhau. Nhưng hẳn là chó sói đã bắt đầu tìm bới những mẫu thức ăn thừa do con người bỏ
lại. Con người đã thuần hóa chó sói con và qua lai giống nhiều thế hệ, chó sói tiến hóa
thành chó nhà.


Thời gian mang thai trung bình của chó kéo dài khoảng 60 đến 62 ngày, có thể sớm hơn
hoặc kéo dài đến 65 ngày. Lúc mới ra đời, chó con khơng có răng nhưng chỉ sau 4 tuần
tuổi đã có thể có 28 chiếc răng. Bộ hàm đầy đủ của loài thú này là 42 chiếc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(32)</span><div class='page_container' data-page=32>

Người ta đã tính được rằng: chó 1 năm tuổi tương ứng với người 16 tuổi. Chó 2 tuổi
tương ứng với người 24 tuổi, chó 3 năm tuổi – người 30, và sau đó cứ thêm một năm tuổi
chó bằng 4 năm tuổi người. Ngày nay, nhu cầu ni chó cảnh đang được phát triển nên
những giống chó nhỏ hoặc chó thơng minh được nhiều người chơi quan tâm đến. Điều
này cũng khơng có gì khó hiểu bởi chó là con vật thủy chung, gần gũi với con người. Chó
giúp con người rất nhiều việc như trơng nhà cửa, săn bắt, và được coi là con vật trung
thành, tình nghĩa với con người.



Chó là một lồi động vật rất thơng minh trong tất cả mọi cơng việc. Có thể nói chó là một
lồi động vật khơng bao giờ phản bội chúng ta và là một người bạn đồng hành của con
người trong tất cả mọi hoàn cảnh.


<b>Bài viết số 1 lớp 9 đề 2 - Thuyết minh con chó (Mẫu 2)</b>


Đối với con người, chó là một lồi động vật vô cùng thân thiết đã từ lâu đời. Là một lồi
vật có nhiều đức tính tốt cũng như lợi ích khi ni nên nó được coi như người bạn trung
thành của con người.


</div>
<span class='text_page_counter'>(33)</span><div class='page_container' data-page=33>

trong nhũng ngày mưa rét, thậm chí cịn có nhiệm vụ “hạ nhiệt” trong những ngày oi bức.
Đây là lồi động vật có bốn chân, có móc vuốt sắc nhưng thường ta khơng thấy rõ vì khi
đi, chân chúng cụp vào. Một số giống chó như là Béc- giê, Collie, Larbador, Chó Bắc
Kinh,…


Chó là loài động vật đầu tiên được loài người thuần hóa làm vật ni trong nhà cách đây
khoảng mười lăm nghìn năm. Tổ tiên của lồi chó là lồi chó sói. Chó là một lồi động
vật vơ cùng có ích cho con người. Khi là vật nuôi trong nhà, những chú chó chẳng khác
nào những người bảo vệ trung thành, nếu có một chú chó trong nhà thì sẽ vơi đi nỗi lo
mất trộm vào ban đêm cũng như khi vắng nhà.


Ta có thể nghi ngờ bất kì ai, nhưng lồi chó thì tuyệt đối trung thành với chủ nên có thể
hồn tồn n tâm về chúng. Vì khả năng đánh hơi của mình, chó cịn được cảnh sát sử
dụng trong việc đánh hơi tìm tội phạm hoặc vật chứng, khơng chỉ vậy, chó cịn tham gia
bắt tội phạm nhờ vào khả năng chạy rất nhanh của mình và có khơng ít những câu chuyện
những chú chó như vậy lập được nhiều cơng cho lồi người. Ở một số nước, người ta cịn
sử dụng chó để chăn cừu, kéo xe, dẫn đường cho người khiếm thị,… Ngồi ra thịt chó
cũng là một loại thức ăn rất giàu chất đạm nhưng hiện nay trên thế giới có rất nhiều quốc
gia bảo vệ và nghiêm cấm giết chúng, nếu xảy ra bạn cịn có thể phải ngồi tụ vì tội giết
chó bất hợp pháp.



</div>
<span class='text_page_counter'>(34)</span><div class='page_container' data-page=34>

khúc xương. Đặc biệt đừng xua đuổi hay đánh những con chó, dù chúng là chó của ai, có
thể là chó gặp ngồi đường, chúng ta phải có trách nhiệm bảo vệ và tơn trọng “những
người bạn bốn chân” trung thành của mình.


Con người thậm chí có thể bỏ nhau lúc hoạn nạn, những chú chó thì lúc nào cũng trung
thành với chủ của mình, dù là ở khó khăn bao nhiêu, thậm chí phải hi sinh chúng cũng sẽ
quyết bên chủ đến đến cùng. Vậy nên, con người chúng ta phải có trách nhiệm bảo vệ,
trân trọng và yêu quý chúng như những người bạn thực thụ của mình.


<b>Bài viết số 1 lớp 9 đề 2 - Thuyết minh con chó (Mẫu 3)</b>


Diễn văn của luật sư Georges Graham Vest tại một phiên tòa xử vụ kiện người hàng xóm
làm chết con chó của thân chủ, được phóng viên William Saller của The New York Times
bình chọn là hay nhất trong tất cả các bài diễn văn, lời tựa trên thế giới trong khoảng 100
năm qua.


Thưa quý ngài hội thẩm!


Người bạn tốt nhất mà con người có được trên thế giới này có thể một ngày nào đó hố ra
kẻ thù quay lại chống lại ta. Con cái mà ta ni dưỡng với tình u thương hết mực rồi có
thể là một lũ vơ ơn.


Những người gần gũi thân thiết ta nhất, những người ta gửi gắm hạnh phúc và danh dự có
thể trở thành kẻ phản bội, phụ bạc lòng tin cậy và sự trung thành. Tiền bạc mà con người
có được, rồi sẽ mất đi. Nó mất đi đúng vào lúc ta cần đến nó nhất. Tiếng tăm của con
người cũng có thể tiêu tan trong phút chốc bởi một hành động một giờ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(35)</span><div class='page_container' data-page=35>

Con chó của ta ln ở bên cạnh ta trong phú quý cũng như trong lúc bần hàn, khi khoẻ
mạnh cũng như lúc ốm đau. Nó ngủ yên trên nền đất lạnh, dù đông cắt da cắt thịt hay bão


tuyết lấp vùi, miễn sao được cận kề bên chủ là được. Nó hơn bàn tay ta dù khi ta khơng
cịn thức ăn gì cho nó. Nó liếm vết thương của ta và những trầy xước mà ta hứng chịu khi
ta va chạm với cuộc đời tàn bạo này. Nó canh giấc ngủ của ta như thể ta là một ơng hồng
dù ta có là một gã ăn mày.


Dù khi ta đã tán gia bại sản, thân bại danh liệt thì vẫn cịn con chó trung thành với tình
u nó dành cho ta như thái dương trên bầu trời. Nếu chẳng may số phận đá ta ra rìa xã
hội, khơng bạn bè, vơ gia cư thì con chó trung thành chỉ xin ta một ân huệ là cho nó được
đồng hành, cho nó làm kẻ bảo vệ ta trước hiểm nguy, giúp ta chống lại kẻ thù.


Và một khi trò đời hạ màn, thần chết rước linh hồn ta đi để lại thân xác ta trong lòng đất
lạnh, thì khi ấy khi tất cả thân bằng quyến thuộc đã phủi tay sau nắm đất cuối cùng và
quay đi để sống tiếp cuộc đời của họ. Thì khi ấy cịn bên nấm mồ ta con chó cao thượng
của ta nằm gục mõm giữa hai chân trước, đôi mắt ướt buồn vẫn mở ra cảnh giác, trung
thành và chân thực ngay cả khi ta đã mất rồi.


<b>Bài viết số 1 lớp 9 đề 2 - Thuyết minh con thỏ</b>


Nếu tôi hỏi bạn về một câu: "Trong các lồi vật ni trong gia đình, bạn yêu quý con vật
nào nhất?" thì tơi chắc chắn rằng sẽ có rất nhiều câu trả lời. Nhưng riêng đối với tôi, tôi
vẫn yêu quý chú thỏ trắng nhà mình với bộ lơng mềm và trắng muốt.


</div>
<span class='text_page_counter'>(36)</span><div class='page_container' data-page=36>

Hiện nay, tuy thỏ đã được nuôi dưỡng trong nhiều gia đình nhưng chúng vẫn mang nhiều
tập tính của thỏ rừng - tổ tiên xa xưa của chúng. Một trong những tập tính của thỏ mang
dấu ấn của tổ tiên chúng là tập tính đào hang. Ở hai đơi chi trước và sau của thỏ đều có
vuốt giúp chúng bới đất. Đối với thỏ, hang có vị trí rất quan trọng, vì nó khơng chỉ là nơi
sinh sống của thỏ, mà đó cịn là nơi để chúng trốn tránh kẻ thù.


Vì thiếu những bộ phận tự vệ như nanh, vuốt sắc nên chúng thường đi kiếm ăn về buổi
chiều hay ban đêm để tránh bị kẻ thù săn đuổi. Chúng ăn cỏ, lá và một số loại thực vật.


Do ăn bằng cách gặm nhấm nên răng cửa thỏ dài, cong, vát và sắc. Thỏ là loài dộng vật
chịu được lạnh , dù thời tiết hanh khô hay giá lạnh chúng vẫn thích nghi được. Nhiệt độ
của cơ thể ln ổn định. Thỏ là lồi động vật đẻ con. Mỗi lần đẻ từ một đến hai con.
Chúng nuôi con bằng sữa của mình.


Thỏ "đi" khơng như chó, mèo mà chúng di chuyển bằng cách "nhảy cóc". Hai chi sau dài
hơn hai chi trước. Khi nhảy, hai chan sau đạp một cái là cất mình bay lên, khi hạ xuống
thì hai chân trước đỡ như cái nhíp. Khi gặp nguy hiểm, ngồi cách lẩn trốn vào hang, thỏ
cịn bỏ chạy. Thỏ chạy rất nhanh, có thể lên tới tám mươi ki-lô-mét trong một giờ. Thỏ
thường chạy theo những đường uốn khúc để đánh lừa kẻ săn đuổi và làm chúng mất đà.
Ngày nay, đã có ít nhất trên sáu mươi giống thỏ. Ở nước ngồi thỏ được ni trong các
lồng sắt, nhưng ở Việt Nam phần lớn thỏ được thả ở ngoài vườn và cho tự đi kiếm ăn.
Thỏ được ni để ăn thịt hoặc lấy lơng. Ngồi ra thỏ cịn được dùng trong cách phịng thí
nghiệm. Vì thỏ có cấu tạo gần giống cơ thể người nên được dùng để thử những loại thuốc
mới. Thịt thỏ thơm, được dùng để chế biến nhiều loại thức ăn. Ngoài ra, tai thỏ ngâm
rượu cịn là một loại thuốc q. Lơng thỏ được dùng may áo bông, làm khăn,... vừa đẹp
lại vừa ấm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(37)</span><div class='page_container' data-page=37>

phim hoạt hình "Hãy đợi đấy" nói về một chú thỏ là một con sói. Thỏ con tuy nhỏ bé
nhưng thông minh, nhanh nhẹn, luôn chiến thắng con sói già gian ác.


Thỏ đã trở thành một li vật ni kinh tế ở nước ta, và cũng cịn được ni trong nhiều
gia đình. Giữ gìn, bảo vệ loài thỏ là bảo vệ hệ đa dạng sinh thái môi trường.


<b>Bài viết số 1 lớp 9 đề 2 - Thuyết minh con mèo</b>


Có rất nhiều lồi vật đã được con người thuần hố, ni dưỡng và trở thành "thú cưng"
trong mỗi giã đình. Nhưng trong số đó, có thể nói mèo là lồi vật được u chiều, nâng
niu nhất.



Mèo nhà là một phần loài trong họ mèo (trong họ mèo cịn có báo, linh miêu..). Theo
những căn cứ khoa học đáng tin cậy thì chúng đã sống gần gũi với lồi người trong
khoảng từ 3.500 năm đến 8.000 năm.


Có rất nhiều các giống mèo khác nhau, một số không có lơng hoặc khơng có đi. Các
màu lơng mèo rất đa dạng: màu trắng, màu vàng, màu xám tro... Có những chú mèo mang
nhiều màu lơng nên có những tên gọi như mèo tam thể (có ba màu lơng), mèo vằn (hai
màu lông chạy xen nhau), mèo đốm,...


</div>
<span class='text_page_counter'>(38)</span><div class='page_container' data-page=38>

ngày có khác nhau, thường là 12 giờ đến 16 giờ, mức trung bình 13 giờ đến 14 giờ. Một
số chú mèo có thể ngủ 20 giờ trong ngày. Vì thường chỉ hoạt động nhiều lúc mặt trời lặn,
mèo rất hiếu động và hay đùa nghịch vào buổi tối và sáng sớm.


Mèo là những "vận động viên điền kinh" tài giỏi có thể chạy rất nhanh và nhảy xuống đất
từ độ cao lớn. Có điều đó vì chúng có cấu tạo cơ thể rất đặc biệt.


Mèo có bốn chân, mỗi bàn chân đều có vuốt và đệm thịt ở phần tiếp xúc với mặt đất.
Giống như mọi thành viên khác của họ mèo, vuốt của mèo thu lại được. Bình thường, ở vị
trí nghỉ các vuốt được thu lại trong da và lơng quanh đệm ngón.


Điều này giữ vuốt ln sắc bởi chúng không tiếp xúc với mặt đất cũng như cho phép mèo
đi nhẹ nhàng rình mồi. Các vuốt chân trước thường sắc hơn so với phía sau. Mèo có thể
giương một hay nhiều vuốt ra tùy theo nhu cầu. Khi rơi từ trên cao xuống, mèo có thể sử
dụng cảm giác thăng bằng sắc bén và khả năng phản xạ của nó tự xoay thân tới vị trí thích
hợp. Khả năng này được gọi là "phản xạ thăng bằng." Nó ln chỉnh lại thăng bằng cơ thể
theo một cách, khiến chúng ln có đủ thời gian thực hiện phản xạ này khi rơi. Giống như
chó, mèo là lồi vật đi trên đầu ngón chân: chúng bước trực tiếp trên các ngón, các xương
bàn chân của chúng tạo thành phần thấp nhìn thấy được của cẳng chân. Mèo có thể bước
rất chính xác, bởi vì khi đi, chúng đặt bàn chân sau (hầu như) trực tiếp lên đầu của bàn
chân trước, giảm thiểu tiếng ồn và dấu vết để lại. Điều này cũng giúp chúng có vị trí đặt


chân sau tốt khi bước đi trên bề mặt ghồ ghề.


Hỗ trợ đắc lực cho mèo trong quá trình di chuyển, ngồi chân ra cịn có đi. Đi mèo
dài và uyển chuyển, chúng được dùng để xua đuổi ruồi muỗi. Nhưng chức năng chủ yếu
là giữ thăng bằng khi chạy nhảy leo trèo.


</div>
<span class='text_page_counter'>(39)</span><div class='page_container' data-page=39>

màu nâu, màu xanh... về thính giác, con người và mèo có tầm thính giác ở mức thấp
tương tự như nhau, nhưng mèo có thể nghe được những âm thanh ở độ cao lớn hơn, thậm
chí tốt hơn cả chó. Khi nghe âm thanh nào đó, tai mèo sẽ xoay về hướng đó; mỗi vành tai
mèo có thể quay độc lập về hướng nguồn âm thanh. Khứu giác của mèo cũng rất phát
triển. Nó mạnh gấp 14 lần so với của con người. Số lượng tế bào khứu giác ở mũi của
chúng cũng nhiều gấp đôi, do dó mèo có thể ngửi thấy những mùi mà chúng ta không
nhận thấy được.


Mèo là động vật ăn thịt thế nên đối tượng để nó săn mồi cho nhu cầu sinh tồn là những
loài vật nhỏ như: chuột, rắn, cóc nhái, cá... Vũ khí để săn mồi là móng vuốt. Khi gặp con
mồi, nó thường đứng từ xa cách con mồi khoảng chừng 5 đến 6 mét. Sau đó nó nằm bẹp
hạ cơ thể xuống sát đất, mắt chăm chăm nhìn khơng nháy mắt đến đối tượng đồng thời
bước tới con mồi cần săn rất nhẹ nhàng. Khi đến gần khoảng cách mà nó cảm thấy ăn
chắc, lồi mèo tung ra sức mạnh cuối cùng bằng cách đẩy mạnh 2 chân sau và đồng thời
phóng mạnh tồn cơ thể tới phía trước và dùng móng sắc nhọn duỗi thẳng ra và chụp lấy
con mồi. Ngày nay, lồi mèo ln sống với người qua nhiều thế hệ con cháu. Cho nên,
thức ăn của loài mèo là cơm hoặc thức ăn sẵn. Nhưng thức ăn ưa thích nhất của lồi mèo
vẫn là món cá.


Mèo thường tránh nơi ẩm ướt và ở rất sạch sẽ. Để làm vệ sinh cho cơ thể, nó thường thè
lưỡi ra, tiết nước bọt vào chân của nó rồi bơi lên mặt và tồn thân thể. Hành động này cho
thấy mục đích nó muốn xóa sạch các vết bẩn, ngay cả hơi tay của con người vừa mới
bồng hay vuốt ve nó. Lồi mèo ln tự làm lấy vệ sinh cho cơ thể nhiều lần trong ngày,
thường là lúc nó mới ngủ dậy hay đi đâu đó về. Hành động đó đã trở thành thói quen


thường thấy ở lồi mèo ngay cả khi cơ thể của nó khơng có vết bẩn nào cả.


</div>
<span class='text_page_counter'>(40)</span><div class='page_container' data-page=40>

Hy vọng với hai bài văn thuyết minh về con mèo và con chó là đề tài giúp các bạn tham
khảo và bổ sung vào bài viết cho mình.


<i><b>Bài viết số 1 lớp 9 đề 3:</b></i>


<b>Đề bài: Thuyết minh về một nét đặc sắc trong di tích, thắng cảnh quê em.</b>
<b>Bài viết số 1 lớp 9 đề 3 - Văn miếu Quốc Tử Giám</b>


Trong số hàng nghìn di tích lịch sử của Hà Nội, hơn 500 di tích đã được xếp hạng, thì Văn
Miếu - Quốc Tử Giám là một di tích gắn liền với sự thành lập của kinh đô Thăng Long
dưới triều Lý, đã có lịch sử gần nghìn năm, với quy mô khang trang bề thế nhất, tiêu biểu
nhất cho Hà Nội và cũng là nơi được coi là biểu tượng cho văn hóa, lịch sử Việt Nam.
Theo Đại Việt sử ký, vào mùa thu năm Canh Tuất - 1070, Vua Lý Thánh Tông đã cho
khởi công xây dựng Văn Miếu để thờ các bậc tiên thánh tiên hiền, các bậc nho gia có
cơng với nước, trong đó có thờ Khổng Tử - người sáng lập ra nền nho giáo phương Đông
và Tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An, người thầy tiêu biểu đạo cao, đức trọng của
nền giáo dục Việt Nam. Sáu năm sau - năm 1076, Vua Lý Nhân Tông quyết định khởi xây
Quốc Tử Giám - một trường Nho học cao cấp nhất hồi bấy giờ nhằm đào tạo nhân tài cho
đất nước. Đây là một sự kiện có ý nghĩa quan trọng đánh dấu sự chọn lựa đầu tiên của
triều đình phong kiến Việt Nam về vấn đề giáo dục, đào tạo con người Việt Nam theo mơ
hình Nho học châu Á.


</div>
<span class='text_page_counter'>(41)</span><div class='page_container' data-page=41>

Tịa lạc trên khn viên hơn 54.000 m, khu di tích Văn Miếu - Quốc Tử Giám nằm giữa
bốn dãy phố, cổng chính ở đường Quốc Tử Giám (phía Nam), phía Bắc giáp đường
Nguyễn Thái Học, phía Đơng giáp phố Tơn Đức Thắng, phía Tây là phố Văn Miếu. Bên
ngồi có tường vây bốn phía, bên trong chia làm 5 khu vực. Khu vực 1 gồm có Văn hồ
(hồ văn); Văn Miếu mơn, tức cổng tam quan ngồi cùng, cổng có ba cửa, cửa giữa to cao
và xây hai tầng, tầng trên có ba chữ Văn Miếu mơn. Khu vực thứ hai, từ cổng chính đi


thẳng vào cổng thứ hai là Đại Trung môn, bên trái là Thánh Dực môn, bên phải có Đạt
Tài mơn. Tiếp trong là Kh Văn Các (được xây dựng vào nǎm 1805). Khu vực 3 là giếng
Thiên Quang (Thiên Quang Tỉnh có nghĩa là giếng trời trong sáng). Tại khu vực này có
82 bia Tiến sĩ dựng thành hai hàng, mặt bia quay về giếng, là một di tích thật sự có giá trị.
Qua cửa Đại Thành là vào khu vực thứ 4, cửa Đại Thành cũng mở đầu cho những kiến
trúc chính như hai dãy Tả Vu và Hữu Vu, chính giữa là Tịa Đại Bái đường, tạo thành một
cụm kiến trúc hình chữ U cổ kính và truyền thống. Xưa, đây là nơi thờ những vị Tổ đạo
Nho. Khu trong cùng là nơi giảng dạy của trường Quốc Tử Giám thời Lê, nhiều thế hệ
nhân tài "nguyên khí của nước nhà" đã được rèn giũa tại đây. Khi nhà Nguyễn dời trường
Quốc học vào Huế, nơi đây dùng làm đền thờ Khi Thánh (cha mẹ Khổng Tử), nhưng ngôi
đền này đã bị hư hỏng hoàn toàn trong chiến tranh...


Điều đáng mừng là trong nǎm 2000, Chính phủ Việt Nam đã quyết định khởi công xây
dựng Thái học đường với giá trị 22 tỷ đồng. Dự kiến sẽ hoàn thành vào năm 2003 nhằm
làm cho khu di tích Vǎn Miếu - Quốc Tử Giám ngày càng hoàn chỉnh hơn, đúng với tầm
cỡ và vị trí của di tích. Cơng trình này mang tính u cầu của thời đại, đó là cơng trình
mới nhằm tơn vinh nền văn hoá của dân tộc. Những người đời sau đến đây có được những
giây phút tưởng niệm những người đã có cơng sáng lập và xây dựng nền giáo dục Việt
Nam.


</div>
<span class='text_page_counter'>(42)</span><div class='page_container' data-page=42>

hoá hàng đầu và mãi là niềm tự hào của người dân Thủ đô khi nhắc đến truyền thống ngàn
năm văn hiến của Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội.


<b>Bài viết số 1 lớp 9 đề 3 - Chùa Hương</b>


Chắc hẳn ai cũng biết đến chùa Hương một danh lam thắng cảnh của Việt Nam. Hăng
năm cư đến mùng sáu tháng giêng sau tết Nguyên Đán nơi đây lại tổ chức lễ hội chua
Hương. Khách hành hương tư khắp mọi miền đất nước, việt kiều, du khách nước ngoài
nườm nượp đổ về đây vừa để cầu mong môt diều tốt lành vừ để đăm minh trong khung
cảnh thần tiên của Hương Sơn.



Chùa Hương thuộc huyện Mĩ Đức, tỉnh Hà Tây, cách thủ đô Hà Nội khoảng 70 km về
phía tây nam. Từ đây đi ô tô qua thị xã Hà Đông, Vân Đình, thẳng đến bến đục thì dừng.
Du khách xuống đị, lướt theo dòng suối Yến Vĩ trong xanh giữa hai bên là cánh đồng lúa.
Trước mắt là những dãy núi trung điệp đẹp vơ cùng!


Có thể nói cái đẹp của Hương Sơn đc tạo nên từ bàn tay khéo léo kì cơng của con người
và sự ban tàng của mẹ thiên nhiên. Các ngôi chùa đc xây rải rác trên triền núi đá vơi, thấp
thống bên dưới là những rừng cây xanh thẳm. Từ chân núi đi ngược lên hàng ngàn bậc
đá cheo leo,hành khách sẽ thắp nhang ở chùa ngoài rồi vào chùa trong, lên chùa Giải Oan,
chùa Thiên Mụ,với đọng hình bồng, đọng Hương Tích. Chùa nào cũng cổ kính uy nghi ẩn
hiện trong làn mờ mờ ảo ảo, tạo nên một bầu khơng khí huyền bí linh thiêng.Mỗi người
đến đây đều mang theo một riêng nhưng tất cả mọi người đều cảm thấy trút bỏ được
vướng bận hằng ngày, tất cả đều lâng thoải mái.


</div>
<span class='text_page_counter'>(43)</span><div class='page_container' data-page=43>

thoảng trong gió. Tiếng chim ríu rít, tiếng suối róc rách lúc gần lúc xa. Đưng s tên cửa
động, du khách hít căng lồng ngực khơng khí thơm, trong lành.


Được chúa Trịnh Xâm ca ngợi là “Nam Thiên đệ nhất động”. Từ bên ngoài, cửa động như
miếng một con rồng khổng lồ ăn sâu vào trong lòng núi. Đáy rộng và phẳng có thể chứa
được mấy trăm người. Ánh đèn nến lung linh huyền ảo. Những nhũ đá, cột mn hình vạn
trạng, lấp lánh bảy sắc cầu vồng.


Muốn tham quan được hết chùa Hương phải mất máy ngày mới thăm hết được. Ngồi
trong động Hình Bồng, lắng tai nghe tiếng gió tạo thành tiếng nhạc du dương trầm bổng ta
sẽ được đắm mình vào trong cõi mộng. Trên đỉnh núi co một tảng đá lớn tương truyền dó
là bàn cờ tiên. Mỗi năm một lần nơi đây các vị tiên ông thương hay đánh cờ đọ tài cao
thấp ở đó. Cịn có biết bao những sự tích, huyền thoại gắn liền với chùa Hương, tạo thêm
cho vẻ kì bí linh thiêng của chốn phong cảnh hữu tình này.



Khi đi về, trong tay ai cũng đều mang về một thư gì đó làm kỉ niệm. Du khách lên xe mà
long bâng khuâng lưu luyến, không ai bảo ai mỗi người đều quay lại ngắm nhìn để in đậm
những kỉ niệm về chùa Hương càng thêm tự hào về giang sơn gấm vóc mong sớm đến
năm sau để lại có dịp tới thăm chùa Hương một lần nữa.


<b>Bài viết số 1 lớp 9 đề 3 - Động Phong Nha</b>


Những năm gần đây, ngành du lịch của đất nước ta đang rất phát triển. Trên khắp đất
nước có rất nhiều những danh lam thắng cảnh nổi tiếng như vịnh Hạ Long, phố cổ Hội An,
Mỹ Sơn... Trong số đó, động Phong Nha cũng là một địa điểm thu hút rất nhiều khách du
lịch trong và ngồi nước. Động Phong Nha đã được UNESCO cơng nhận là di sản văn
hoá thế giới.


</div>
<span class='text_page_counter'>(44)</span><div class='page_container' data-page=44>

đến đoạn sông Gianh gặp sông Son rồi cứ theo sông Son mà vào động. Nếu đu đường bộ
thì lộ trình sẽ theo tỉnh lộ số 2 đến bến sông Son (đoạn đường này ước chừng 20 cây số).
Nhưng dù đi bằng cách nào thì bạn đều phải đi xuồng máy hoặc chèo đị từ bến sơng Son
vào cửa hang Phong Nha. Nếu đi bằng xuồng máy từ bến sông Son vào đến cửa hàng
Phong Nha thì mất khoảng nửa giờ. Ngồi trên xuồng ngắm nhìn dịng sơng xanh thẳm và
rất trong, nhìn những khối núi đá vơi trùng điệp, những xóm làng, nương ngơ rải rác hai
bên bờ thì thật là thú vị.


Phong Nha gồm hai bộ phận là động khô và động nước. Động khô ở độ cao khoảng 200
m, giờ chỉ còn những vòm đá trắng vân nhũ cùng vơ số những cột đá óng ánh màu xanh
ngọc. Nhưng theo các nhà địa lý học thì xưa kia, ở động khơ này vốn là một dịng sơng
ngầm, nay đã cạn hết nước. Động nước thì bây giờ vẫn cịn có một con sơng dài chảy suốt
ngày đêm. Con sơng này nước rất trong và cũng khá sâu.


Động nước là nơi hấp dẫn và được khách du lịch lui tới nhiều hơn cả. Vì hiện nay động
nước vẫn có một con sơng dài nên muốn vào được thì cần phải có thuyền. Nhưng điều
quan trọng là phải mang theo đèn, đuốc để thắp sáng vì càng vào sâu trong hang thì càng


ít ánh sáng. Tuy một số nơi ở trong hang đã được mắc điện nhưng muốn đi suốt 1500 mét
hang thì vẫn phải cần có dụng cụ để thắp sáng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(45)</span><div class='page_container' data-page=45>

Đi thuyền thăm động Phong Nha, chúng ta sẽ bị bất ngờ và hấp dẫn trước vẻ đẹp kỳ ảo
của nó. Dưới ánh sáng của đèn đuốc, các khối nhũ đá hiện lên với nhiều màu sắc, hình
khối. Những khối nhũ đá này có đường nét hài hịa, màu sắc huyền ảo, sắc lóng lánh như
kim cương. Nhất là dưới ánh đèn đuốc thì cảnh hiện lên lại càng lung linh, huyền ảo. Trên
vách động thi thoảng còn thấy những nhánh phong lan rừng rủ xuống xanh mướt. Trong
hang cũng có một số bãi cát nhỏ, tới đây du khách có thể ghé thuyền lại mà leo trèo, thăm
thú, ghi hình, chụp ảnh làm kỷ niệm. Vào động Phong Nha ta cảm thấy một khung cảnh
thật khác lạ: trước mắt là những khối nhũ đá lung linh huyền ảo, ta lại được nghe tiếng
nước chảy, âm vang của tiếng nói, được cảm nhận khơng khí mát mẻ, trong lành thật là
sảng khoái.


Quả thật xứng với danh hiệu "Kỳ quan đệ nhất động", động Phong Nha là một hang động
đẹp, kỳ vĩ. Theo báo cáo khoa học của đoàn thám hiểu hội địa lý Hoàng gia Anh, động
Phong Nha có tới bảy cái nhất: hang động dài nhất, cửa hang cao và rộng nhất, bãi cát, bãi
đá rộng và đẹp nhất, có những hồ ngầm đẹp nhất, hang khô rộng và đẹp nhất, thạch nhũ
tráng lệ và kỳ ảo nhất, sơng ngầm dài nhất. Để giữ gìn và bảo tồn vẻ đẹp của động Phong
Nha, chúng ta phải có ý thức tham gia bảo vệ danh lam thắng cảnh này.


<b>Bài viết số 1 lớp 9 đề 3 - Sông Hồng</b>


Đi qua khu chợ Đồng Xuân quanh năm ồn ào náo nhiệt, tôi thư thả dạo bước trên cầu
Long Biên, mở rộng tầm mắt nhìn con sơng Hồng mênh mang, êm đềm xi về biển. Gió
vi vu thổi. Tơi hít sâu một ngọn gió mát lạnh vào lồng ngực, những cơn gió đã từng thổi
phổng phao cơ thể tơi lớn lên trong suốt thời thơ ấu. Trời xanh cao quá, trong lành quá,
bao kỷ niệm thuở xưa chợt ùa về, dâng lên, khiến tâm hồn tôi phút chốc bồng bềnh như
đang trơi trên dịng cảm xúc.



</div>
<span class='text_page_counter'>(46)</span><div class='page_container' data-page=46>

Những bãi cỏ xanh rì trải rộng, những hồ ao quanh bờ rậm rịt luỹ tre bụi chuối, trinh nữ,
mâm xôi... Tiếng chim ríu rít trên đầu, thỉnh thoảng gặp một nhóm dăm ba người đi câu
cá. Qua hết bãi cỏ là đến vành đê bao trong, con đê này nhỏ hơn, được đắp dá làm kè rất
cẩn thận. Từ đây, dịng sơng Hồng mênh mang mở rộng trước mắt, bãi cát vàng óng ả,
nước sơng đỏ quạch như gạch cua, ầm ì xi về đơng, ấp ơm, ni nấng cả một vùng
đồng bằng trù phú. Bọn trẻ con chúng tôi thích nhất mùa hè, được nghỉ học, tha hồ chơi
đùa chạy nhảy suốt cả ngày trong cái thế giới cổ tích đó. Sớm tinh mơ, sương hãy cịn ướt
đầm bãi cỏ, tôi đã thức dậy chạy sang bên đê, vươn vai hít thở khơng khí trong lành. Trưa
nắng chang chang, lại vác chai đi đổ dế về chọi thi, rồi thi tát cá, câu lươn, bắn chim, khát
nước thì bẻ ngơ non hít,... nhiều trị chơi thú vị lắm. Chiều đến, cả lũ rủ nhau đá bóng
hoặc thả diều, quần nhau đến mệt lử, cơ bắp mỏi nhừ, người như bốc hoả, ấy thế mà chỉ
cần nhảy tùm xuống sông, tức thì thịt da mát dịu ngay. Có lần mới tập bơi, tôi đã phải
uống một bụng nước, nên dường như nước sơng Hồng vẫn cịn đang quyện hồ trong máu
tôi. Tối đến, cơm nước xong, nhiều người thường trải chiếu trên bờ đê hóng mát. Gió vi
vu thổi, khơng gian yên bình, bầu trời trong vắt, lấp lánh trăng sao, trong bờ cỏ rối thơm
ngai ngái, tiếng côn trùng cứ miệt mài rỉ rả hát ru tôi vào giấc ngủ giữa sườn đê, hồn
nhiên và trong trẻo. Anh trai tôi cõng về nhà lúc nào mà tôi cũng chẳng hay. Mùa hè cũng
là mùa mưa lũ, lũ từ phương Bắc đổ về, qua trung du lại hội nhập với sông Đà, sông Lô
càng trở nên hung tợn, ầm ầm đổ quân xuống, dìm nghiến bãi bồi, chực phá tan đê. Mới
hơm trước, bãi giữa sơng cịn trải dài như tấm lưng con thuồng luồng lớn, mà hơm sau chỉ
cịn cái mô đất ngoi lên như mai con rùa rồi mất hẳn giữa dòng nước đỏ cuồn cuộn, dữ
dằn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(47)</span><div class='page_container' data-page=47>

Tới mùa khô, nước rút đi để lại một vùng màu mỡ, đất phù sa vàng ươm dưới ánh nắng
chói chang. Chỉ cần phủi lớp cát bề mặt đã bị gió vờn khơ là trơng thấy mặt đất ẩm ướt,
đỏ tươi như thịt, vốc lên tay nghe xôm xốp, tơi mềm. Người nông dân bắt đầu vãi ngô,
đậu, lạc... Chẳng phải cuốc xới, phân gio gì mà mầm cây đâm lên vùn vụt. Cuối vụ, mỗi
bắp ngô to như bắp chân, hạt đều tăm tắp, trắng như sữa, gặm vào ngập chân răng, vừa
ngọt, vừa bùi. Cũng bởi vì nhiều cát, nên người ta đào những hố hàm ếch rộng chừng 1-2
m, cát cứ trôi tuột xuống hố. Người đi lấy cát chỉ việc lấy xẻng xúc lên, đầy thuyền thì


xi xuống cảng Phà Đen, tập kết thành bãi lớn đợi chủ thầu đến mua rồi chở vào các
công trình xây dựng trong thành phố.


Có bận đến nửa tháng trời, sáng sớm hôm nào tôi cũng theo anh bạn, đánh xe bò lên cảng
Phà Đen lấy cát rồi xuống Lĩnh Nam, đi đò sang Bát Tràng, một làng nghề gốm sứ có từ
600 năm trước.


Chẳng mấy chốc, những ngọn gió mùa đơng bắc đã kéo về, trẻ con chúng tơi co ro lại vì
rét, khơng mấy khi ra đến bờ sông nữa. Thế nhưng trong cái thời tiết u ám, lạnh đến thấu
xương đó, những đứa bạn tơi đất Quảng Bá, Nhật Tân vẫn còn đang phải tất bật cùng gia
đình chăm chút cho hàng ngàn cây đào, cây quất, thứ cây đỏng đảnh như con gái, trồng cả
năm chỉ phục vụ cho có ba ngày tết.


Thời tiết ấm dần lên, mưa xuân bay lây phây như sương. Lũ trẻ reo vang: "Tết đến rồi".
Cả một dài bờ sông nhất loại bừng sáng, muôn sắc hoa thơm chen nhau đua nở: bên cái
màu vàng óng ả của hoa cúc, có màu tím ngắt của lưu ly những vườn đào mênh mông
hồng ấm lên như nắng, cánh đồng cải cúc vàng bạt ngàn. Nam thanh, nữ tú mặt mày hớn
hở dắt nhau đi xem, chọn và mua hoa, những bông đào nở hồng hồng như xác pháo,
những tán quất xoe trịn, lộc non mơn mởn, quả chín sai trĩu trịt.


</div>
<span class='text_page_counter'>(48)</span><div class='page_container' data-page=48>

tận bờ sông, con đê đắp bằng đất từ ngàn năm trước, đã được xây cạp lại bằng bê tông gọn
ghẽ. Hà Nội đổi thay từng giờ, nhưng sơng Hồng thì dường như mn đời vẫn vậy. Vẫn
chở nặng phù sa, vẫn bên bồi bên lở...


</div>

<!--links-->

×