Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH HUY ĐỘNG VỐN VÀ SỬ DỤNG VỐN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (245.22 KB, 27 trang )

PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH HUY ĐỘNG VỐN VÀ SỬ DỤNG VỐN
TẠI NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
HUYỆN LẤP VÒ
4.1 PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH HUY ĐỘNG VỐN TỪ 2005 ĐẾN 2007
4.1.1 Quy mô huy động vốn
Trong quá trình hoạt động kinh doanh của ngân hàng thì nguồn vốn đóng vai trò
hết sức quan trọng, nó quyết định đến khả năng hoạt động cũng như hiệu quả hoạt động
kinh doanh của ngân hàng. Nguồn vốn cho vay của ngân hàng chủ yếu từ hai nguồn:
vốn huy động, vốn điều chuyển từ ngân hàng cấp trên.
- Đối với nguồn vốn huy động: ngân hàng được toàn quyền sử dụng sau khi đã
trích lại một phần theo tỷ lệ đảm bảo do Ngân hàng Nhà nước quy định, đồng thời có
trách nhiệm trả cả gốc lẫn lãi đúng hạn cho khách hàng.
- Đối với nguồn vốn điều chuyển từ ngân hàng cấp trên: ngân hàng chỉ sử dụng
nguồn vốn này khi nguồn vốn huy động - phần vốn được phép sử dụng - không đủ đáp
ứng nhu cầu cho vay tại chi nhánh, khi đó chi nhánh sẽ yêu cầu được điều chuyển vốn
đến và phải chịu lãi suất bằng với lãi suất huy động bình quân tại thời điểm nhận lệnh
điều chuyển.
Ta có thể xem xét nguồn vốn của ngân hàng dựa vào số liệu qua 3 năm 2005,
2006 và 2007 trong bảng sau
Bảng 2: CƠ CẤU NGUỒN VỐN CỦA NGÂN HÀNG QUA 3 NĂM

ĐVT: triệu đồng
(Nguồn Bảng báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh trong 3 năm từ 2005 đến 2007)
Chỉ tiêu
Năm So sánh chênh lệch
2005 2006 2007 2006/2005 2007/2006
Số tiền % Số tiền % Số tiền % Số tiền % Số tiền %
Vốn HĐ 120.312 47,75 122.089 45,16 150.628 47,06 1.777 1,48 28.539 23,38
Vốn ĐC 131.636 52,25 148.268 54,84 169.420 52,94 16.632 12,63 21.152 14,27
Tổng
NV 251.948 100 270.357 100 320.048 100 18.409 7,31 49.691 18,38



* Vốn điều chuyển
Nếu chỉ dựa vào nguồn vốn huy động thì sẽ không đủ để đảm bảo hoạt động kinh
doanh của ngân hàng, do vậy ngân hàng cấp trên sẽ kịp thời điều chuyển vốn đến khi
chi nhánh có nhu cầu và chi nhánh phải trả phần chi phí cao hơn chi phí huy động vốn.
Do đó, ngân hàng sẽ giảm đến mức thấp nhất nguồn vốn điều chuyển để gia tăng lợi
nhuận.
Năm 2005 vốn điều chuyển đến của ngân hàng là 131.636 triệu đồng chiếm
52,25% tổng nguồn vốn. Năm 2006 là 148.268 triệu đồng chiếm 54,84% tổng nguồn
vốn, so với năm 2005 tăng 16.632 triệu đồng tương ứng tăng 12,63%. Đến năm 2007 là
169.420 triệu đồng chiếm 52,94% tổng nguồn vốn, so với năm 2006 tăng 21.152 triệu
đồng tương ứng tăng 14,27%.
* Vốn huy động:
Khi ngân hàng huy động được nhiều vốn sẽ chủ động trong công tác cho vay,
đồng thời giảm chi phí so với việc sử dụng vốn điều chuyển từ cấp trên. Do đó đây là
nguồn vốn rất quan trọng đối với hoạt động của ngân hàng, ngân hàng phải biết tận
dụng được nguồn vốn nhàn rỗi từ nền kinh tế để phục vụ cho mục tiêu kinh doanh của
mình.
Nhìn chung nguồn vốn huy động tăng qua các năm, năm 2005 là 120.312 triệu
đồng chiếm 47,75% tổng nguồn vốn. Năm 2006 là 122.089 triệu đồng chiếm 45,16%
tổng nguồn vốn, so với năm 2005 tăng 1.777 triệu đồng tương ứng tăng 1,48%. Năm
2007 là 150.628 triệu đồng chiếm 47,06% tổng nguồn vốn, so với năm 2006 tăng
28.539 triệu đồng tương ứng tăng 23,38%. Mặc dù có tăng nhưng tỷ trọng vốn huy
động vẫn chiếm tỷ lệ tương đối thấp trong tổng nguồn vốn. Tuy nhiên, đã thể hiện sự cố
gắng của ngân hàng trong công tác huy động vốn.
4.1.2 Cơ cấu các loại tiền gửi:
Mỗi khoản mục nguồn vốn đều có nhu cầu khác nhau về chi phí, tính thanh khoản,
thời hạn hoàn trả … Do đó, ngân hàng cần phải quan sát, đánh giá chính xác từng loại
Hình 4: CƠ CẤU NGUỒN VỐN CỦA NGÂN HÀNG QUA 3 NĂM TỪ 2005 ĐẾN 2007
nguồn vốn để kịp thời có những chiến lược huy động vốn tốt nhất trong từng thời kỳ

nhất định để hạn chế những rủi ro có thể gặp phải và tối thiểu hóa chi phí đầu vào cho
ngân hàng.
Tình hình nguồn vốn huy động của ngân hàng qua các năm nhìn chung đều tăng.
Hoạt động huy động vốn của ngân hàng có tiến triển tốt, công tác huy động đạt hiệu
quả năm sau cao hơn năm trước. Huy động vốn là khâu quan trọng tạo nên vị thế vững
chắc trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Có được kết quả trên là do chi nhánh
luôn có chính sách thu hút vốn đúng đắn, kịp thời để duy trì khách hàng truyền thống,
tìm kiếm khách hàng mới, công tác huy động vốn ngày càng đạt hiệu quả nên nguồn
vốn hàng năm tăng lên liên tục. Nguồn vốn này bao gồm tiền gởi tiết kiệm của dân cư,
tiền gửi của các tổ chức kinh tế, tiền gửi của kho bạc và phát hành giấy tờ có giá. Trong
đó huy động từ tiền gửi tiết kiệm chiếm tỷ trọng cao nhất qua các năm.
Cơ cấu vốn huy động của ngân hàng được thể hiện trong bảng sau:
Bảng 3: TÌNH HÌNH HUY ĐỘNG VỐN QUA 3 NĂM TẠI NGÂN HÀNG
ĐVT: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm So sánh chênh lệch
2005 2006 2007 2006/2005 2007/2006
Số tiền % Số tiền % Số tiền % Số
tiền
% Số
tiền
%
1. Tiền gửi tiết
kiệm
55.007 45,72 52.175 41,22 64.268 42,67 -2.832 -5,15 12.093 23,18
- Không kỳ hạn 8.407 6,99 6.594 5,40 4.190 2,78 -1.813 -21,57 -2.404 -36,46
- Có kỳ hạn 46.600 38,73 45.581 37,33 60.078 39,89 -1.019 -2,19 14.497 31,80
Dưới 12 tháng 11.650 9,68 10.028 8,21 18.023 11,97 -1.622 -13,92 7.996 79,73
Từ 12 đến 24
tháng

32.620 27,11 31.907 26,13 37.248 24,73 -713 -2,18 5.342 16,74
Từ 24 đến 60
tháng
2.330 1,94 3.646 2,99 4.806 3,19 1.316 56,50 1.160 31,80
2. Tiền gửi TCKT 39.325 32,69 43.825 35,90 60.500 40,17 4.500 11,44 16.675 38,05
3.Tiền gửi kho
bạc
18.580 15,44 19.313 15,82 14.275 9,48 733 3,95 -5.038 -26,09
4. Giấy tờ có giá 7.400 6,15 6.776 6,89 11.585 7,69 -624 -8,43 4.809 70,97
- Kỳ phiếu 3.500 2,91 6.276 5,14 10.985 7,29 2.776 79,31 4.709 75,03
- Trái phiếu 3.900 3,24 500 0,41 600 0,40 -3.400 -87,18 100 20,00
Nguồn vốn huy
động
120.312 100 122.089 100 150.628 100 1.777 1,48 28.539 23,38
(Nguồn Bảng cân đối tài khoản chi tiết năm từ 2005 đến 2007)
Ghi chú: - TCKT: tổ chức kinh tế
Tình hình vốn huy động của ngân hàng được biểu diễn bằng đồ thị sau:
Hình 5: TÌNH HÌNH HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG QUA 3 NĂM
Ghi chú: - TG: tiền gửi
- TK: tiết kiệm
- TCKT: tổ chức kinh tế
- GTCG: giấy tờ có giá
Để thấy được cụ thể tình hình huy động vốn, ta sẽ đi sâu phân tích từng khoản
mục:
4.1.2.1 Tiền gửi tiết kiệm:
Năm 2005 là 55.007 triệu đồng, chiếm 45,72% nguồn vốn huy động. Năm 2006 là
52.175 triệu đồng, giảm 2.832 triệu đồng so với năm 2005, tương ứng giảm 5,15% và
chỉ chiếm 41,22% nguồn vốn huy động. Nguyên nhân là giá cả hàng hoá dịch vụ tăng,
người dân làm ăn không hiệu quả - nhất là các hộ sản xuất kinh doanh cá thể, nguồn thu
nhập không đủ bù đắp chi phí đầu vào, nên không có tiền nhàn rỗi. Mặc dù giảm nhưng

đây vẫn là khoản mục chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng nguồn vốn huy động.
Năm 2007 là 64.268 triệu đồng, tăng 12.093 triệu đồng so với năm 2006, tương
ứng tăng 23,18%, chiếm 42,67% nguồn vốn huy động. Nguyên nhân làm cho tiền gửi
tiết kiệm tăng do tình hình kinh tế đã tương đối ổn định, cùng với sự phát triển của khoa
học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin các hình thức thanh toán không dùng
tiền mặt ngày càng được mở rộng và đa dạng đã làm cho loại tiền gửi này tăng. Đây
cũng là đối tượng huy động chủ yếu nên ngân hàng luôn có chính sách duy trì phương
pháp huy động truyền thống như tăng lãi suất tiền gửi để giữ chân khách hàng cũ và thu
hút khách hàng tiềm năng đến gửi tiền.
Có 2 loại tiền gửi: không kỳ hạn và có kỳ hạn:
+ Đối với tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn: khi khách hàng tạm thời có một số
tiền nhàn rỗi trong một thời gian họ gửi vào ngân hàng để hưởng lãi. Cụ thể, năm 2005
là 8.407 triệu đồng, năm 2006 là 6.594 triệu đồng giảm 1.813 triệu đồng, tương ứng
giảm 21,57% so với năm 2005. Năm 2007 là 4.190 triệu đồng giảm 2.404 triệu đồng so
với năm 2005 tương ứng giảm 36,46%. Khách hàng chủ yếu là người dân trên địa bàn,
khi họ có khoản tiền dôi ra sẽ gửi vào ngân hàng để sinh lợi. Nguyên nhân tiền gửi
giảm liên tục là do lãi suất của loại tiền gửi này thấp hơn so với tiền gửi tiết kiệm có kỳ
hạn nên thu hút được khách hàng, mặt khác là do giá vàng trên thị trường tăng khách
hàng chuyển sang đầu tư vàng thay vì gửi tiền vào ngân. Mặt khác, đây là khoản mục
huy động có thể gặp rủi ro khi khách hàng rút tiền trước kỳ hạn nên ngân hàng thường
chú ý gia tăng tỷ trọng các khoản huy động khác nhiều hơn.
+ Đối với tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn: là khoản tiền gửi đã được xác định thời
gian trả lãi cho khách hàng vì vậy nó có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng, tạo
nguồn vốn ổn định giúp ngân hàng có thể chủ động trong đầu tư. Vì vậy, tiền gởi tiết
kiệm có kỳ hạn chiếm tỷ trọng cao hơn tiền gởi tiết kiệm không kỳ hạn, nhưng nguồn
huy động này biến đổi không đều qua các năm.
Cụ thể, năm 2005 là 46.600 triệu đồng, năm 2006 là 45.581 triệu đồng giảm 1.109
triệu đồng tương ứng giảm 2,19 % so với năm 2005. Đến năm 2007 là 60.078 triệu
đồng tăng 14.497 triệu đồng, tương ứng tăng 31,80% so với năm 2006.
Trong đó:

Tiền gửi có kỳ hạn dưới 12 tháng năm 2005 là 11.650 triệu đồng, năm 2006 là
10.028 triệu đồng so với năm 2005 giảm 1.622 triệu đồng, tương ứng giảm 13,92%.
Năm 2007 là 18.023 triệu đồng tăng 7.996 triệu đồng tức tăng 79,73% so với năm 2006.
Tiền gửi có kỳ hạn từ 12 đến 24 tháng – đây là khoản mục chiếm tỷ trọng cao nhất
trong vốn huy động bằng tiền gửi có kỳ hạn. Năm 2005 là 32.620 triệu đồng, năm 2006
là 31.907 triệu đồng so với năm 2005 giảm 712 triệu đồng, tương ứng giảm 2,18%.
Năm 2007 là 37.248 triệu đồng tăng 5.342 triệu đồng tức tăng 16,74% so với năm 2006.
Tiền gửi có kỳ hạn trên 24 tháng – đây là khoản mục chiếm tỷ trọng thấp nhất
trong vốn huy động bằng tiền gửi có kỳ hạn. Năm 2005 là 2.330 triệu đồng, năm 2006
là 3.646 triệu đồng so với năm 2005 tăng 1.316 triệu đồng, tương ứng tăng 56,50%.
Năm 2007 là 4.806 triệu đồng tăng 1.160 triệu đồng tức tăng 61,80% so với năm 2006.
Nguyên nhân giảm là do năm 2006 lãi suất huy động của ngân hàng ở loại tiền gửi
này thấp hơn so với các ngân hàng khác trên địa bàn nên đã giảm một lượng khách
hàng đến gửi tiền. Nguồn tiền huy động này đã tăng trở lại là do ngân hàng có chiến
lược huy động vốn hiệu quả: tăng lãi suất huy động cho phù hợp với các ngân hàng
thương mại khác trên cùng địa bàn, thông tin đến những khách hàng tiềm năng về các
tiện ích của việc gửi tiền tiết kiệm để thu hút khách hàng.
Đây là loại tiền gửi có lãi suất cao hơn tiền gửi không kỳ hạn nên đã huy động
được một lượng lớn khách hàng đến gửi tiền qua các năm. Tuy nhiên, do lãi suất huy
động của loại hình này cao cho nên ngân hàng cần phải có những chính sách phù hợp
để tiếp tục giữ vững và phát triển đối với loại hình này, mà vẫn đảm bảo hoạt động kinh
doanh có hiệu quả.
4.1.2.2 Tiền gửi của các tổ chức kinh tế :
Đối với loại tiền gửi này, khách hàng gửi tiền là các doanh nghiệp thuộc tất cả các
thành phần trong Huyện. Khách hàng gởi tiền vào ngân hàng nhằm đảm bảo cho các
dịch vụ thanh toán từ ngân hàng hoặc khi có lượng tiền nhàn rỗi, khách hàng gửi tiền
vào ngân hàng nhằm mục đích sinh lời. Đây cũng là khoản mục chiếm một tỷ trọng
tương đối cao trong tổng nguồn vốn huy động và tăng đều qua các năm.
Năm 2005 là 39.325 triệu đồng, chiếm 32,69% trong nguồn vốn huy động, đến
năm 2006 là 43.825 triệu đồng, chiếm 35,90% nguồn vốn huy động, so với năm 2005

tăng 4.500 triệu đồng, tương ứng tăng 11,44%. Năm 2007 đạt 60.500 triệu đồng chiếm
40,17%, so với năm 2006 tăng 16.675 triệu đồng, tức tăng 38,05%.
Nguyên nhân của sự tăng lên là do các doanh nghiệp trên địa bàn Huyện làm ăn
ngày càng hiệu quả, cần mở tài khoản để thanh toán trong quá trình kinh doanh. Ngân
hàng có mối quan hệ tốt với các công ty, doanh nghiệp, tạo được uy tín và cung cấp các
dịch vụ tiện ích nên thu hút được lượng tiền khá lớn từ các đơn vị này.
4.1.2.3 Tiền gửi của kho bạc:
Qua quá trình hình thành và phát triển của mình, kho bạc là khách hàng lâu năm
và quen thuộc của ngân hàng. Lượng tiền kho bạc gửi vào là để chi trả lương cho các
đơn vị hành chính sự nghiệp trên địa bàn.
Cụ thể, năm 2005 đạt 18.580 triệu đồng, chiếm 15,44% nguồn vốn huy động.
Năm 2006 đạt 19.313 triệu đồng, chiếm 15,82% nguồn vốn huy động, so với năm 2005
tăng 733 triệu đồng, tương đương tăng 3,95%. Năm 2007 chỉ còn 14.275 triệu đồng,
chiếm 9,48% nguồn vốn huy động, so với năm 2006 giảm 5.038 triệu đồng, tương ứng
giảm 26,09%.
Nguyên nhân của sự tăng giảm bất thường này là do kho bạc cần tiền để chi trả
lương cho các đơn vị hành chính, chi tiền cho các công trình xây dựng thuỷ lợi, các dự
án có vốn uỷ thác từ cấp trên…Đây là nguồn vốn không ổn định, ngân hàng không nên
quá chú trọng quá nhiều.
4.1.2.4 Phát hành giấy tờ có giá:
Năm 2005 là 7.400 triệu đồng chỉ chiếm 6,15% nguồn vốn huy động. Năm 2006
đạt 6.776 triệu đồng, so với năm 2005 giảm 624 triệu đồng, tương đương giảm 8,43%,
nhưng lại chiếm đến 6,89% nguồn vốn huy động. Năm 2007 là 11.585 triệu đồng,
chiếm 7,69% vốn huy động, tăng 4.809 triệu đồng tương đương tăng 70,97%.
+ Đối với kỳ phiếu: năm 2005 phát hành 3.500 triệu đồng, chiếm 2,19% tổng vốn
huy động. Năm 2006 là 6.276 triệu đồng, chiếm 5,14% tổng vốn huy động, so với năm
2005 tăng 2.776 triệu đồng, tương ứng tăng 79,31%. Nguyên nhân là do khoản mục tiền
gửi tiết kiệm giảm, vốn huy động giảm nên ngân hàng cần một lượng tiền để đáp ứng
nhu cầu vốn.
Năm 2007 phát hành 10.985 triệu đồng, chiếm 7,19% vốn huy động, so với năm

2006 tăng 4.709 triệu đồng, tương đương tăng 75,03%. Thông thường, các loại giấy tờ
có giá có lãi suất cao hơn các loại tiền gửi khác nên thu hút khách hàng hơn. Kỳ phiếu
năm 2007 tăng là do nhu cầu sử dụng vốn tăng, mặc dù các loại tiền gửi có tăng nhưng
vẫn không đủ đáp nhu cầu vốn cho vay.
+ Đối với trái phiếu: năm 2005 là 3.900 triệu đồng, năm 2006 là 500 triệu đồng
giảm 3.400 triệu đồng tương đương giảm 87,18%. Nguyên nhân là do ngân hàng không
phát hành thêm trái phiếu nhưng phải thanh toán cho các trái phiếu đến hạn.
Năm 2007 là 600 triệu đồng, so với năm 2006 tăng 100 triệu đồng, tương đương
tăng 20%. Trong năm này, ngân hàng phải tăng vốn huy động nên phát hành thêm trái
phiếu mới, đồng thời cũng phải thanh toán các trái phiếu đến hạn nên mức tăng không
đáng kể.
4.1.2.5 Cơ cấu lãi suất huy động qua 3 năm:
Bảng 4: CƠ CẤU LÃI SUẤT HUY ĐỘNG TẠI NGÂN HÀNG
ĐVT: %
Loại tiền gửi
Năm
2005 2006 2007
1. Tiền gởi dân cư
- Tiền gửi không kỳ hạn 0,25 0,25 0,25
- Tiền gửi có kỳ hạn
+ Dưới 12 tháng
0,58 0,62 0,73
+ Từ 12 đến 24 tháng
0,67 0,72 0,75
+ Trên 24 tháng
0,68 0,74 0,76
2. Tiền gởi các TCKT
- Tiền gửi không kỳ hạn 0,2 0,2 0.2
(Nguồn Báo cáo cơ cấu lãi suất 3 năm từ 2005 đến 2007)
Ghi chú: - TCKT: tổ chức kinh tế

Qua bảng trên ta thấy khung lãi suất huy động tiền gửi có kỳ hạn ngày một tăng
lên, đây là điều kiện thuận lợi để ngân hàng thu hút vốn tiền gửi từ dân cư. Mặc dù lãi
suất huy động có thấp hơn so với các ngân hàng khác trên cùng địa bàn, nhưng ngân
hàng được lợi thế là có thời gian hoạt động lâu năm nên có một lượng khách hàng
truyền thống đáng kể giúp thu hút một lượng vốn nhàn rỗi nhất định, tăng khả năng
cạnh tranh của ngân hàng.
4.1.3 Tỷ số vốn huy động trên tổng nguồn vốn
Bảng 5: TỶ SỐ VỐN HUY ĐỘNG TRÊN TỔNG NGUỒN VỐN
ĐVT: triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm
2005 2006 2007
Vốn huy động 120.312 122.089 150.628
Tổng nguồn vốn 251.948 270.357 320.048
VHĐ/ Tổng nguồn vốn(%) 47,87 45,16 47,06
(Nguồn Bảng cân đối tài khoản chi tiết năm từ 2005 đến 2007)
Ghi chú: VHĐ: vốn huy động
Chỉ tiêu này cho thấy hiệu quả huy động vốn của NHNo & PTNT huyện Lấp Vò.
Cụ thể năm 2005, vốn huy động trên tổng nguồn vốn chiếm tỷ trọng 47,87% sang năm
2006 tỷ trọng này giảm xuống còn 45,16%.Đến năm 2007 chỉ tiêu này là 47,06%. Qua
đó cho thấy hiệu quả huy động vốn của ngân hàng tuy tăng đều qua các năm nhưng
nhìn chung chưa cao so với tiềm năng và còn lệ thuộc quá nhiều vào nguồn vốn điều
chuyển. Nguyên nhân là do nguồn thu nhập của người dân chưa cao nên lượng tiền
nhàn rỗi rất ít, họ chưa có thói quen gửi tiền vào ngân hàng mà chỉ thích đầu tư vào sản
xuất hay kinh doanh vàng. Tuy nguồn vốn huy động đạt được với tỷ trọng chưa cao
nhưng điều đáng khích lệ là doanh số huy động vẫn tiếp tục tăng, điều này có thể nói
ngân hàng cũng dần dần phát huy được bước phát triển của mình trong xu thế hội nhập.
Nhìn chung, công tác huy động vốn của ngân hàng qua 3 năm thực hiện rất tốt,
luôn đạt kế hoạch đề ra. Có được kết quả như vậy là do chi nhánh luôn phấn đấu nỗ lực
tìm mọi biện pháp tăng nguồn vốn huy động. Tuy nhiên, trên địa bàn có nhiều tổ chức

tín dụng với phương thức huy động vốn với lãi suất hấp dẫn, nên ngân hàng cần tăng
cường công tác huy động vốn và gia tăng các dịch vụ tiền gửi để giữ chân khách hàng
truyền thống và thu hút khách hàng mới, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vốn cho
các thành phần kinh tế trong Huyện.
Trong xu thế hội nhập hiện nay, công tác huy động vốn là vấn đề sống còn trong
hoạt động của ngân hàng, vì vậy ngân hàng nên chủ động về nguồn vốn để đảm bảo
hoạt động, tránh bị động về vốn gây ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngân hàng.
4.1.4 Khả năng đáp ứng nhu cầu vốn vay
Bảng 6: KHẢ NĂNG ĐÁP ỨNG NHU CẦU VỐN VAY
ĐVT: triệu đồng
Chỉ tiêu
Năm
2005 2006 2007
1.Vốn huy động 120.312 122.089 150.628
Ngắn hạn 81.462 86.036 107.973
Trung hạn 38.850 36.053 42.655
2.Dư nợ 237.372 254.014 311.264
Ngắn hạn 213.953 233.145 291.943
Trung hạn 23.419 20.869 19.321
- VHĐ ngắn hạn/ dư nợ trung hạn (%) 28,75 24,26 17,89
3.Vốn điều chuyển 131.636 148.268 169.420
- Vốn điều chuyển dự kiến (DN-VHĐ) 117.060 131.925 160.636
(Nguồn Bảng cân đối tài khoản chi tiết năm từ 2005 đến 2007)
Ghi chú: - VHĐ: vốn huy động
- DN: dư nợ
4.1.4.1 Vốn huy động ngắn hạn trên dư nợ trung hạn
Theo khoản 1 điều 15 quyết định 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19 tháng 4 năm 2005
của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước: “Tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn tổ chức tín
dụng được sử dụng để cho vay trung hạn và dài hạn:
a. Ngân hàng thương mại: 40%

b. Tổ chức tín dụng khác: 30%”
Tại NHNo & PTNT Huyện Lấp Vò tỷ số này qua 3 đều dưới 40%, cụ thể năm
2005 là 28,75%; năm 2006 là 24,26%; năm 2007 là 17,89% không vượt quá quy định
của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
4.1.4.2 Khả năng đáp ứng nhu cầu vay của vốn điều chuyển:
Vốn điều chuyển dự kiến năm 2005 là 117.060 triệu đồng, trong khi đó điều
chuyển đến tại ngân hàng là 131.636 triệu đồng, lượng vốn điều chuyển thừa là 14.576

×