Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Luận văn thạc sĩ nhân thân người phạm tội cướp tài sản trên địa bàn quận 3, thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 77 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐOÀN THANH PHÚC

NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI CƯỚP TÀI SẢN
TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN 3, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ TỘI PHẠM HỌC VÀ PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM

HÀ NỘI - 2020


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐOÀN THANH PHÚC

NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI CƯỚP TÀI SẢN
TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN 3, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Ngành: Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm
Mã số: 638.01.05

LUẬN VĂN THẠC SĨ TỘI PHẠM HỌC VÀ PHÒNG NGỪA TỘI PHẠM

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. PHẠM VĂN TỈNH


HÀ NỘI - 2020


LỜI CAM ĐOAN
Luận văn: “Nhân thân người phạm tội cướp tài sản trên địa bàn Quận 3,
Thành phố Hồ Chí Minh” là cơng trình nghiên cứu của cá nhân tơi dưới sự hướng
dẫn của PGS.TS Phạm Văn Tỉnh. Các số liệu, kết quả trong luận văn là trung thực
và chưa được cơng bố bởi các cơng trình khác.
Người viết luận văn

Đoàn Thanh Phúc


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÂN THÂN NGƯỜI
PHẠM TỘI CƯỚP TÀI SẢN ..................................................................................7
1.1.Khái niệm nhân thân người phạm tội cướp tài sản ............................................7
1.2. Các đặc điểm nhân thân người phạm tội cướp tài sản ......................................8
1.3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội cướp tài sản ............13
Tiểu kết chương 1 ....................................................................................................22
Chương 2: THỰC TIỄN NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI CƯỚP TÀI SẢN
VÀ NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI
CƯỚP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN 3 ........................................................24
2.1. Thực tiễn nhận thức về nhân thân người phạm tội cướp tài sản trên địa bàn
Quận 3 giai đoạn từ năm 2015 - 2019 ...................................................................24
2.2. Thực tiễn các đặc điểm nhân thân người phạm tội cướp tài sản trên địa bàn
Quận 3 giai đoạn 2015 đến 2019 ...........................................................................35
Tiểu kết chương 2 ....................................................................................................50
Chương 3: NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI CƯỚP TÀI SẢN VÀ NHỮNG

VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI CƯỚP TÀI
SẢN TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN 3 .............................................................................52
3.1. Tăng cường nhận thức về nhân thân người phạm tội cướp tài sản trên địa bàn
quận vì mục đích phịng ngừa tình hình tội phạm .................................................52
3.2. Hồn thiện hệ thống giải pháp phòng ngừa tội cướp tài sản trên địa bàn Quận
3 từ khía cạnh nhân thân người phạm tội …………………....................................64
Tiểu kết chương 3 ....................................................................................................63
KẾT LUẬN ..............................................................................................................64
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng

Tên bảng

Trang

Bảng 2.1:

Tỉ lệ giữa số vụ, số bị cáo của tội cướp tài sản so với tổng

25

số vụ, số bị cáo phạm tội hình sự trên địa bàn Quận 3.
Bảng 2.2:

Tỉ lệ số vụ, số bị cáo phạm tội cướp tài sản trên địa bàn

26


Quận 3 so với số vụ, số bị cáo phạm tội cướp tài sản trên
địa bàn tồn Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn 2015 2019.
Bảng 2.3:

Diễn biến của tình hình tội cướp tài sản trên địa bàn Quận

27

3 giai đoạn 2015 - 2019. So sánh mức độ tăng, giảm của số
vụ, số bị cáo (lấy năm 2015 làm gốc 100%)
Bảng 2.4:

Diễn biến của tình hình tội cướp tài sản trên địa bàn Quận

28

3 giai đoạn 2015 – 2019 trong so sánh liên kế.
Bảng 2.5:

Mức độ của tình hình tội cướp tài sản trên địa bàn Quận 3,

29

xét theo yếu tố dân cư của 14 đơn vị hành chính cấp
phường (số dân cư sinh sống/bị cáo) từ năm 2015 - 2019.
Bảng 2.6:

Mức độ của tình hình tội cướp tài sản trên địa bàn Quận 3,


30

xét theo yếu tố diện tích (m2) của 14 đơn vị hành chính cấp
phường, (số bị cáo/ 1m2), từ năm 2015 - 2019.
Bảng 2.7:

Mức độ của tình hình tội cướp tài sản trên địa bàn Quận 3,

31

xét theo yếu tố dân cư và diện tích của 14 đơn vị hành
chính cấp phường, từ năm 2015 - 2019.
Bảng 2.8:

Cơ cấu theo chế tài đã áp dụng.

35

Bảng 2.9:

Cơ cấu theo giới tính nhân thân người phạm tội cướp tài

36

sản trên địa bàn Quận 3 (2015 - 2019).
Bảng 2.10:

Cơ cấu theo độ tuổi nhân thân người phạm tội cướp tài sản

37


trên địa bàn Quận 3 (2015 - 2019).
Bảng 2.11:

Cơ cấu theo dân tộc nhân thân người phạm tội cướp tài sản

38

trên địa bàn Quận 3 (2015 – 2019) .
Bảng 2.12:

Cơ cấu theo trình độ học vấn của nhân thân người phạm

38


tội cướp tài sản trên địa bàn Quận 3 (2015 – 2019).
Bảng 2.13:

Cơ cấu theo nghề nghiệp của nhân thân người phạm tội

38

cướp tài sản trên địa bàn Quận 3 (2015 – 2019).
Biểu đồ 2.1:

Thông số về mức độ của tình hình tội cướp tài sản trên địa
bàn Quận 3 giai đoạn 2015 - 2019 .

26



DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS:

Bộ lt hình sự

TAND:

Tịa án nhân dân

THTP:

Tình hình tội phạm

HSST:

Hình sự sơ thẩm


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Là một quận nội thành của thành phố Hồ Chí Minh, Quận 3 có diện tích
4,92 km2, dân số 190.000 người [10], có phía Bắc giáp quận Phú Nhuận; phía
Đơng và Đơng Nam giáp Quận 1 với ranh giới là đường Hai Bà Trưng và đường
Nguyễn Thị Minh Khai; phía Nam và Tây Nam giáp quận 10 qua đường Cách
mạng tháng tám và đại lộ Lý Thái Tổ. Quận 3 được coi là nơi có vị trí chiến lược
quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố Hồ Chí Minh, có
nhiều trục giao thơng quan trọng chạy qua điạ bàn: đường Cách mạng tháng 8
nối với quốc lộ 22 đi Tây Ninh đi Camphuchia; đường Điện Biên Phủ nối với

quốc lộ 1 xuyên Việt; đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa đi sân bay Tân Sơn Nhất. Ở
Quận này còn quy tụ nhiều cơng trình về khoa học, giáo dục, thương mại, y tế
với hàng loạt trung tâm thương mại sầm uất, thu hút nhiều dự án đầu tư phát
triển kinh tế, tạo công ăn việc làm cho người lao động, góp phần cải thiện đời
sống vật chất, tình thần cho người dân, nâng cao thu nhập bình quân đầu người
hàng năm.
Bên cạnh những thuận lợi, cơ hội thì Quận 3 cũng có những khó khăn,
thách thức do những tác động tiêu cực như: do nhu cầu về việc làm nên số lượng
người từ nhiều nơi kéo về đã mang theo những tệ nạn xã hội và phát sinh những
tiêu cực, nảy sinh những mâu thuẫn, tranh chấp trong cộng đồng dân cư; tình
hình tội phạm các loại ngày càng gia tăng, đặc biệt là tội cướp tài sản. Theo số
liệu thống kê của Tòa án nhân dân (TAND) Quận 3, từ năm 2015 - 2019, trên địa
bàn quận đã xảy ra 1.283 vụ án với 2.269 bị cáo, trong đó, tội cướp tài sản có
163 vụ, 271 bị cáo, tức là gần 8,37% về số bị cáo, một tỉ lệ rất cao so với toàn
quốc giai đoạn 1986 - 1988 là 4,26 %, giai đoạn 2001 - 2003 là 5,77 % [4]
Mặt khác, các biện pháp phòng ngừa tội phạm trên phạm vi toàn quốc,
cũng như trên địa bàn cấp tỉnh và cấp huyện những năm qua đã được thực hiện
thống nhất và ráo riết: Đảng có Chỉ thị 48 - CT/TW ngày 22/10/2010 về tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với cơng tác phịng, chống tội phạm trong tình
hình mới; Thủ tướng chính phủ có Quyết định số 282/QĐ – TTg ngày 24 tháng
1


02 năm 2011, Quyết định 623/QĐ-TTg ngày 14 tháng 4 năm 2016 về phê duyệt
chiến lược quốc gia phòng, chống tội phạm giai đoạn 2016 – 2025 và định hướng
đến năm 2030; Đảng và chính quyền cấp tỉnh và quận, huyện đều đề ra kế hoạch
và chương trình hành động để triển khai thực hiện Chỉ thị và Quyết định của
Trung ương như đã nêu một cách ráo riết và liên tục. Tuy vậy, kết quả đạt được
còn hạn chế, tình hình tội phạm vẫn xẩy ra và có diễn biến phức tạp. Để phòng
ngừa tội phạm xảy ra trên thực tế, tiến tới đẩy lùi tội phạm trên một địa bàn cụ thể

như địa bàn Quận 3, thì tình hình tội phạm cần phải được nghiên cứu cơ bản và
chuyên sâu, tức là việc phòng ngừa tội phạm phải được nghiên cứu và thiết lập trên
cơ sở hướng dẫn của khoa học chuyên ngành, cái đã và đang hiện hữu ở nước ta. Đó
là tội phạm học.
Trong nghiên cứu tội phạm học, nhân thân người phạm tội vốn là mặt bộc
lộ ra bên ngoài bao trùm nhất và sát thực nhất về bản chất xã hội của người phạm
tội, cái giữ vai trò là cơ sở khách quan cho việc xác định nguyên nhân và điều kiện
của tội phạm với tính cách là sự kết tinh của mơi trường sống vào con người.
Chính vì vậy, đề tài: “Nhân thân ngươì phạm tội cướp tài sản trên địa bàn
Quận 3, thành phố Hồ Chí Minh” đã được lựa chọn để nghiên cứu trong phạm vi
chuyên ngành Tội phạm học và phịng ngừa tội phạm.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
2.1. Nhóm các cơng trình nghiên cứu lý luận cơ bản về nhân thân người
phạm tội
Thuộc về nhóm này, các cơng trình khoa học tiêu biểu sau đây cần phải được
nghiên cứu:
- Dương Tuyết Miên (2017), Tội phạm học đương đại, Nxb Tư Pháp;
- Phạm Văn Tỉnh (2011), Phòng ngừa tội phạm và vấn để bảo vệ quyền con
người một nghiên cứu liên ngành tội phạm học và nhân quyền học, Tạp chí Cảnh
sát nhân dân, (số 29), tr 7 - 14;
- Phạm Văn Tỉnh (2011), Cơ chế hành vi phạm tội - cơ sở để xác định
nguyên nhân và điều kiện phịng ngừa tội phạm, Tạp chí kiểm sát, (số 1, số 3);

2


- Phạm Văn Tỉnh (2016), Tăng cường nhận thức về khái niệm tham nhũng và
phòng, chống tham nhũng nước ta hiện nay, Tạp chí Nhân lực khoa học xã hội, (số
2);
- Bùi Ai Giôn (2018), Các yếu tố tác động đến sự hình thành nhân thân

người thực hiện các tội xâm phạm tình dục, truy cập ngày 28/06/2020.
Các cơng trình nghiên cứu trên là cơ sở để nhận thức những vấn đề lý luận
cơ bản về nhân thân người phạm tội trong tội phạm học, bao gồm khái niệm nhân
thân người phạm tội; phân biệt khái niệm nhân thân người phạm tội với một số khái
niệm khác có liên quan; các đặc điểm của nhân thân người phạm tội; vai trò của
nhân thân người phạm tội trong nghiên cứu ngun nhân và điều kiện của tội phạm
theo mơ hình cơ chế hành vi phạm tội… Đây là những cơ sở lý luận quan trọng mà
luận văn sẽ kế thừa để giải quyết các vấn đề do đề tài luận văn đặt ra.
2.2. Nhóm các cơng trình nghiên cứu cụ thể về nhân thân người phạm tội
ở cả khía cạnh luật hình sự và tội phạm học
Thuộc nhóm này có các cơng trình nghiên cứu sau đây đã được tham khảo:
- Chu Thị Quỳnh (2015), Vai trò nhân thân người phạm tội – dấu hiệu quy
trách nhiệm hình sự, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật – Đại học quốc gia Hà
Nội.
- Phan Thị Phương Thảo (2017), Nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản
trên địa bàn quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ Luật học,
Học viện khoa học xã hội;
- Trần Thị Liên (2018), Nhân thân người phạm tội về ma túy trên địa bàn
quận Phú Nhuận, Thành phố Hồ Chí Minh, Luận án tiến sĩ, HVKHXH.
Các cơng trình nghiên cứu trên được xem như những tài liệu thực tế ở nhiều
vùng, miền khác nhau, ở các phạm vi nghiên cứu khác nhau và ở các tội phạm khác
nhau để nhận thức rõ về các vấn đề như:
Thứ nhất, thấy rõ sự khác biệt giữa khoa học luật hình sự và tội phạm học
trong nhận thức về cùng khái niệm nhân thân người phạm tội;
3


Thứ hai, xác định hệ thống phân loại tối ưu đối với các đặc điểm nhân thân
người phạm tội trong tội phạm học;
Thứ ba, xác định mối quan hệ giữa nhân thân người phạm tội với tình hình

nhân thân người phạm tội và nhờ mối quan hệ này mà nhận biết được đích thực
vai trị của nhân thân người phạm tội trong cơ chế hành vi phạm tội
Thứ tư, xác định đặc thù của từng địa bàn, từng môi trường sống và của từng
loại tội phạm thông qua đặc điểm, cũng như hệ thống đặc điểm nhân thân người
phạm tội.
Tóm lại, tình hình nghiên cứu như đã trình bày cho phép khẳng định, đề tài:
"Nhân thân người phạm tội cướp tài sản trên địa bàn quận 3, Thành phố Hồ Chí
Minh" có tính kết thừa và tính khả thi cao, lại khơng bị trùng lặp.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu nhân thân người phạm tội cướp tài sản trên địa bàn Quận
3, Thành phố Hồ Chí Minh hướng đến mục đích là hồn thiện các giải pháp phịng
ngừa tình hình người phạm tội cướp tài sản trên địa bàn Quận 3, Thành phố Hồ Chí
Minh thơng qua việc làm rõ những đặc điểm nhân thân người phạm tội và xác định
được các yếu tố tác động đến quá trình hình thành nhân thân người phạm tội cướp
tài sản trên địa bàn Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để nghiên cứu luận văn cần thực hiện những nhiệm vụ sau đây:
Một là, nghiên cứu lý luận và pháp luật;
Hai là, nghiên cứu thực tế;
Ba là, nghiên cứu triển khai.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài đã nêu thể hiện ở việc làm rõ mối quan hệ
phụ thuộc giữa các đặc điểm nhân thân người phạm tội cướp tài sản với các hiện
tượng, quá trình kinh tế - xã hội khác trên địa bàn Quận 3, tức là làm rõ quy luật của
sự hình thành tội phạm cướp tài sản trên địa bàn quận.

4



4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung, đề tài nghiên cứu nhân thân người phạm tội cướp tài sản
dưới góc độ tội phạm học thuộc chuyên ngành tội phạm học và phịng ngừa tội
phạm;
- Về khơng gian, đề tài chỉ nghiên cứu đối với địa bàn Quận 3, Thành phố
Hồ Chí Minh;
- Về thời gian, đề tài sử dụng các số liệu thống kê trong giai đoạn từ 2015
đến năm 2019;
- Về tội danh, đề tài nghiên cứu đối với tội cướp tài sản được quy định tại
Điều 168 BLHS năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh phòng, chống tội phạm nói
chung và về từng vấn đề do đề tài luận văn đặt ra, như vấn đề Chung – Riêng – Đặc
thù; vấn đề quyết định luận; vấn đề môi trường sống và con người; vấn đề khách
quan, chủ quan; vấn đề phản ánh và được phản ánh; vấn đề bản chất và hiện
tượng…
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên
cứu, cụ thể:
- Phương pháp nghiên cứu lí luận, nghiên cứu tài liệu, hệ thống hóa, khái
quát hóa và cụ thể hóa được sử dụng để làm rõ những vấn đề lý luận chung về nhân
thân người phạm tội cướp tài sản.
- Phương pháp nghiên cứu lý luận, thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh,
quy nạp, hệ thống, biểu đồ, diễn dịch, đối chiếu, suy luận, phương pháp lịch sử
logic, phương pháp nghiên cứu tổng hợp bản án, nghiên cứu hồ sơ vụ án...
- Phương pháp tổng kết đánh giá; phân tích luận điểm, quy định của pháp
luật, số liệu…


5


- Để nghiên cứu sâu các đặc điểm nhân thân người phạm tội, tác giả sử
dụng phương pháp nghiên cứu 100 bản án, hồ sơ vụ án với 167 bị cáo là người
phạm tội cướp tài sản trên địa bàn Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn từ
năm 2015 đến năm 2019 đã được TA Quận 3 xét xử cũng như các số liệu thống kê
của các cơ quan tiến hành tố tụng ở Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh để phân tích,
tổng hợp số liệu thể hiện các đặc trưng về nhân thân người phạm tội cướp tài sản.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về lý luận, kết quả nghiên cứu của Luận văn góp phần bổ sung lý luận về
nhân thân người phạm tội cướp tài sản dưới góc độ Tội phạm học.
Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của Luận văn là những tài liệu quan trọng
giúp các cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội trên địa bàn Quận 3 đề ra các
giải pháp nâng cao hiệu quả cơng tác phịng ngừa tội phạm cướp tài sản, góp phần
bảo đảm cuộc sống bình n cho người dân trên địa bàn.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn có kết cấu ba chương, cụ thể như sau:
Chương 1. Những vấn đề lý luận chung về nhân thân người phạm tội cướp
tài sản
Chương 2. Thực tiễn nhân thân người phạm tội cướp tài sản trên địa bàn
Quận 3 và những yếu tố tác động đến quá trình hình thành nhân thân người phạm
tội cướp tài sản trên địa bàn Quận
Chương 3. Nhân thân người phạm tội cướp tài sản và những vấn đề đặt ra
đối với phòng ngừa tội phạm này trên địa bàn Quận 3.

6



Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
VỀ NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI CƯỚP TÀI SẢN
1.1.Khái niệm nhân thân người phạm tội cướp tài sản
Từ kết quả nghiên cứu những công trình tội phạm học như đã đề cập ở mục
tình hình nghiên cứu, khái niệm nhân thân người phạm tội cướp tài sản trong tội
phạm học được hiểu một cách cô đọng thông qua những nhận xét sau:
Thứ nhất, Nhân thân người phạm tội được coi là một khách thể nghiên cứu
của Tội phạm học. Sở dĩ như vậy là vì bản thân chủ thể hành vi phạm tội, các đặc
điểm về nhân chủng học, dân tộc học, về tâm lý, sinh lý, về xã hội và về tư pháp
hình sự của chủ thể đó đều tồn tại khách quan, có thể nhận thức được và chứa đựng
những thơng tin cho phép nhìn nhận ra mối quan hệ nhân quả hay quy luật của sự
phạm tội, tức là cho phép thấy được đối tượng nghiên cứu của tội phạm học để dựa
vào đó mà xác định biện pháp phịng ngừa hiệu quả;
Thứ hai, nhân thân người phạm tội cướp tài sản được coi là một bộ phận
không thể tách rời của tình hình tội cướp tài sản (tội được quy định tại Điều 168
BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Thứ ba, có sự khác nhau giữa khoa học luật hình sự và tội phạm học trong
quan niệm về nhân thân người phạm tội. Khoa học Luật hình sự khai thác nhân thân
người phạm tội để tìm kiếm những đặc điểm, những yếu tố có ý nghĩa, có giá trị
thiết thực cho việc thực hiện chính sách hình sự của Nhà nước ta, đặc biệt là để giải
quyết đúng đắn vấn đề trách nhiệm hình sự. Cịn tội phạm học cũng khai thác những
đặc điểm, những yếu tố nhân thân người phạm tội nhưng để trả lời câu hỏi tại sao
con người đó lại phạm tội, đặc điểm nào, yếu tố nào đã dẫn dắt đến sự phạm tội của
người đó, tức là tìm ngun nhân của tội phạm để phịng ngừa. Chính vì mục đích
của tội phạm học bao trùm như vậy, cho nên hệ thống các đặc điểm, các yếu tố
thuộc nhân thân người phạm tội ở lĩnh vực tội phạm học phải bao trùm hơn, rộng
hơn những gì mà khoa học Luật hình sự đã khai thác. Và những đặc điểm, những

7



yếu tố này khơng bắt buộc phải có hình thức pháp lý, tức là phải có sẵn trong Luật
hình sự, nhưng phải có mối liên hệ dẫn dắt tới sự phạm tội của chủ thể hành vi. Cps
thể nhìn nhận nhân thân người phạm tội cướp tài sản như sau:
Một là, ở mức độ chung, nhân thân của một người nào đó là cái phản ánh,
tức là hình ảnh có thể nhận thức được thông qua tổng thể các đặc điểm về mặt tự
nhiên, xã hội và hành vi xã hội của chủ thể đã thực hiện hành vi đó ở một địa bàn và
thời gian nhất định;
Hai là, ở mức độ riêng, nhân thân người phạm tội là hình ảnh có thể nhận
thức được thơng qua tổng thể các đặc điểm về tự nhiên, xã hội và hành vi phạm tội
của chủ thể đã thực hiện hành vi đó trên một địa bàn và thời gian nhất định, tức là
những đặc điểm chứa đựng những thông tin về nguyên nhân và điều kiện của sự
phạm tội;
Ba là, ở mức độ cụ thể của đề tài, nhân thân người phạm tội cướp tài sản
trên địa bàn Quận 3 thành phố Hồ Chí Minh là hình ảnh ( cái phản ánh) có thể nhận
thức được thơng qua tổng thể các đặc điểm về tự nhiên, xã hội và hành vi phạm tội
cướp tài sản của các chủ thể đã thực hiện hành vi cướp tài sản trên địa bàn Quận 3
trong giai đoạn 2015 - 2019, tức là những đặc điểm chứa đựng những thông tin về
nguyên nhân và điều kiện của sự phạm tội cướp tài sản.
1.2. Các đặc điểm nhân thân người phạm tội cướp tài sản
Việc phân loại các đặc điểm của nhân thân người phạm tội là rất cần thiết
cho nghiên cứu tội phạm học và việc này cũng có nhiều cách khác nhau. Ở đây, để
phục vụ cho nghiên cứu thực tế đặc điểm của nhân thân người phạm tội cướp tài sản
được phân thành ba nhóm đặc điểm: Sinh học; Xã hội; Pháp lý hình sự.
1.2.1. Các đặc điểm sinh học
1.2.1.1. Về độ tuổi
Qua nghiên cứu tội cướp tài sản chủ yếu ở hai nhóm tuổi từ đủ 14 tuổi đến
dưới 18 tuổi và nhóm tuổi từ đủ 18 tuổi đến 30 tuổi thực hiện. Đây là cơ sở quan
trọng trong việc xây dựng các giải pháp phòng ngừa THTP cướp tài sản trong xã

hội.
1.2.1.2. Về giới tính
8


Nghiên cứu đặc điểm giới tính người phạm tội cướp tài sản, tội phạm học
tập trung xác định hai vấn đề: nam giới và nữ giới có tỷ lệ phạm tội như thế nào;
đặc trưng của giới tính có ảnh hưởng như thế nào đến cơ chế hành vi phạm tội.
Những nghiên cứu của các nhà tội phạm học cho thấy, tội cướp tài sản chủ yếu do
nam giới thực hiện. Xác định được ảnh hưởng của giới tính trong cơ chế hành vi
phạm tội sẽ có nhiều ý nghĩa trong việc phòng ngừa tội phạm cướp tài sản từ khía
cạnh nhân thân người phạm tội.
1.2.1.3. Về dân tộc
Dân tộc là một hình thái đặc thù của một tập đồn người, xuất hiện trong
quá trình phát triển của tự nhiên và xã hội, được phân biệt bởi 3 đặc trưng cơ bản là
ngơn ngữ, văn hóa và ý thức tự giác của cộng đồng, mang tính bền vững qua hàng
nghìn năm lịch sử. Mỗi dân tộc có sự phân bố ở những địa bàn khác nhau dẫn đến
quá trình hình thành, nảy sinh tội phạm cướp tài sản cũng khác nhau. Do đó, việc
nghiên cứu về đặc điểm dân tộc của tội cướp tài sản có ý nghĩa trong việc đề ra các
biện pháp ngăn chặn và giáo dục
1.2.1.4. Về nơi sinh
Nơi sinh hay là địa điểm sinh chính là địa danh hành chính nơi con người
được sinh ra. Nơi sinh là diễn biến khách quan tại địa điểm người đó sinh ra, có thể
khơng phải nơi thường trú, có thể là bất kỳ địa danh nào. Yếu tố này có ảnh hưởng
khơng nhỏ đến sự hình thành nhân thân người phạm tội cướp tài sản. Vì vậy nghiên
cứu nơi sinh sẽ cho phép chúng ta nhận thức được tác động của nơi cư trú đến
THTP cướp tài sản mà Tội phạm học gọi là địa lý học tội phạm.
1.2.1.6. Về nơi cư trú
Yếu tố nơi cư trú có thể ảnh hưởng đến một số đặc điểm thuộc tâm lý cá
nhân như yếu tố văn hóa, tập quán, thói quen, tính cách đặc trưng của địa bàn cư

trú. Điều này rất có ý nghĩa trong hoạt động dự báo và phòng ngừa tội phạm cướp
tài sản. Nơi cư trú, nơi sinh sống có ảnh hưởng khơng nhỏ đến tình trạng phạm tội
nói chung và tội cướp tài sản nói riêng cho phép chúng ta nhận thức được tỉ lệ phạm
tội theo khu vực cư trú của tội cướp tài sản.
1.2.2. Các đặc điểm xã hội
9


1.2.2.1. Trình độ học vấn
Học vấn là danh từ chỉ mức độ của việc học mà một con người đạt tới. Tội
phạm học nghiên cứu trình độ học vấn của nhân thân người phạm tội cướp tài sản ở
04 cấp bậc học: mù chữ và tiểu học; Trung học cơ sở, Trung học phổ thơng và cao
đẳng, đại học. Trình độ học vấn thấp thường đi kèm với trình độ hiểu biết thấp, nhất
là hiểu biết về pháp luật, dẫn đến vi phạm pháp luật.
1.2.2.2. Nghề nghiệp
Nghề nghiệp được coi là một lĩnh vực hoạt động lao động mà trong đó, nhờ
được đào tạo, con người có được những tri thức, những kĩ năng để làm ra các loại
sản phẩm vật chất hay tinh thần nào đó, đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Người
khơng có nghề nghiệp hoặc có nghề nghiệp khơng ổn định thường bị tác động bởi
cơm áo gạo tiền, vật chất nên rất dễ hình thành và phát sinh các đặc điểm nhân thân
tiêu cực.
1.2.2.3. Hoạt động xã hội (Hội, đoàn, đảng viên)
Nghiên cứu của các nhà tội phạm học cho thấy, việc xác định được hoạt
động xã hội của nhân thân người phạm tội cướp tài sản giúp xác định được vai trò
xã hội của người phạm tội, đó là những chức năng xã hội của cá nhân được quyết
định bởi địa vị của nó trong hệ thống các quan hệ xã hội đang tồn tại; bởi việc
người đó thuộc nhóm xã hội nhất định nào, bởi mối quan hệ lẫn nhau và sự phụ
thuộc lẫn nhau của người đó đối với người khác. Thái độ của người đó đối với
những chức năng đó và kế hoạch đời sống…
1.2.2.4. Tơn giáo, tín ngưỡng

Tơn giáo là niềm tin vào các lực lượng siêu nhiên, vô hình, mang tính
thiêng liêng, được chấp nhận một cách trực giác và tác động qua lại một cách hư ảo,
nhằm lí giải những vấn đề trên trần thế cũng như thế giới bên kia. Niềm tin đó được
biểu hiện rất đa dạng, tùy thuộc vào từng thời kì lịch sử, hồn cảnh địa lí – văn hóa
khác nhau, phụ thuộc vào nội dung từng tôn giáo, được vận hành bằng những nghi
lễ, những hành vi tôn giáo khác nhau của từng cộng đồng xã hội tôn giáo khác nhau.
Nghiên cứu vấn đề tơn giáo, tín ngưỡng sẽ có vai trị hết sức quan trọng trong việc
nghiên cứu nhân thân người phạm tội cướp tài sản.

10


1.2.2.5. Sở thích (nghiện rượu, ma túy, games…)
Sở thích là những mối quan tâm khác ngồi lĩnh vực cơng việc. Chúng thỏa
mãn sự sáng tạo và cho phép con người thử nghiệm những điều mới mẻ. Sở thích
của con người thường rất rộng và có đối tượng khơng giống nhau ở mỗi người nên
nghiên cứu về sở thích người phạm tội cướp tài sản có ý nghĩa quan trọng việc hạn
chế các đặc điểm tiêu cực trong người phạm tội. Từ đó, đề ra những giải pháp
phịng ngừa có hiệu quả.
1.2.2.6. Khuynh hướng giá trị ( lối sống)
Việt Nam ngày nay đang ở trong quá trình vận động và biến đổi mạnh mẽ.
Sự phát triển theo hướng cơng nghiệp hóa hiện đại hóa về thực chất sẽ là một q
trình biến đổi mà trong đó cơ cấu xã hội cũng bị thay đổi tận gốc rễ.
Một số biểu hiện ở người phạm tội được thể hiện như sau:
+ Người phạm tội thường có sự đánh giá khơng đúng, có sự nhầm lẫn giữa
các giá trị trong xã hội như tình cảm gia đình, tình cảm nam nữ, quan hệ hàng xóm,
láng giềng…
+ Triết lý sống của con người đã chuyển dẫn qua xu hướng thực dụng, ích
kỉ, đề cao lối sống hưởng thụ, cổ xúy cho tư tưởng tự do phát triển cá nhân…. Một
bộ phận không nhỏ coi thực dụng là yếu tố chủ đạo, coi đồng tiền là trên hết.

+ Người phạm tội cướp tài sản có xu hướng coi lợi ích của bản thân là trên
hết.
1.2.1.7. Hồn cảnh gia đình
Trong những năm gần đây, do sự biến đổi của nền kinh tế thị trường đã hình
thành nên sự cố kết lỏng lẻo trong lối sống gia đình tạo nên các khiếm khuyết và sự
với các yếu tố khác đã tác động đến việc hình thành các đặc điểm nhân thân xấu ở
người phạm tội và trong những điều kiện, tình huống thuận lợi sẽ dễ dàng phát sinh
hành vi phạm tội. Nghiên cứu về hoàn cảnh gia đình có ý nghĩa rất quan trọng trong
việc xác định các nguyên nhân hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực của
người phạm tội. Mặt khác, môi trường gia đình giữ vai trị đáng kể đối với cơ chế
hình thành hành vi cướp tài sản thông qua đời sống vật chất của gia đình, cơ cấu của
gia đình, phương pháp giáo dục của gia đình.

11


1.2.1.8. Tình trạng hơn nhân
Tình trạng hơn nhân có ý nghĩa đối với việc hình thành đặc điểm nhân thân
người phạm tội cướp tài sản. Những nghiên cứu tội phạm học về nhân thân người
phạm tội cho thấy, những người đã xây dựng gia đình phạm tội cướp tài sản chiếm
tỷ lệ ít hơn so với những người sống đơn thân hoặc chưa xây dựng gia đình.
1.2.3. Các đặc điểm pháp lý hình sự
1.2.3.1. Tiền sự (Vi phạm hành chính chưa được xóa)
Tiền sự là hành vi phạm pháp nhưng chưa đến mức phải chịu trách nhiệm
hình sự đã có trước đó. Người có tiền sự là người đã chịu các biện pháp kỷ luật, xử
phạt hành chính về hành vi vi phạm pháp luật có dấu hiệu tội phạm, nhưng chưa đến
mức phải xử lý hình sự, mọi biện pháp kỉ luật và xử lý hành chính của người này
chưa được xóa đi. Xác định nhân thân người phạm tội cướp tài sản là người có tiền
sự (vi phạm hành chính chưa được xóa) là cơ sở để cho các cơ quan thi hành pháp
luật giải quyết vụ án theo đúng quy định của pháp luật. Việc xác định này bảo đảm

cho bị cáo được giảm nhẹ hình phạt trong trường hợp vi phạm lần đầu, có lời khai
trung thực, có thái độ phối hợp với cơ quan điều tra, vừa bảo đảm tòa án sẽ đưa ra
những bản án công bằng, nghiêm minh cho những trường hợp đã từng phạm tội
nhiều lần.
1.2.3.2. Tái phạm, tái phạm nguy hiểm
Vấn đề tái phạm, tái phạm nguy hiểm được căn cứ tại Điều 53 BLHS năm
2015. Nghiên cứu đặc điểm nhân thân người phạm tội cướp tài sản đối với những
người tái phạm, tái phạm nguy hiểm là cơ sở để xác định được tính chất, mức độ về
hành vi chống đối pháp luật, vi phạm pháp luật của người phạm tội cướp tài sản, từ
đó có những biện pháp giáo dục, cảm hóa, cải tạo cho phù hợp với từng loại đối
tượng.
1.2.3.3. Động cơ phạm tội
Để truy cứu trách nhiệm hình sự của một người cần phải bảo đảm yếu tố
theo quy định. Trong đó khi cấu thành tội phạm cướp tài sản phải quan tâm đến
động cơ phạm tội là nhân tố tâm lý bên trong chủ thể thúc đẩy họ thực hiện hành
động là động cơ của hành động. Cơ sở tạo thành động cơ phạm tội là những nhu cầu

12


về vật chất, tinh thần, các lợi ích sai lệch của cá nhân được chủ thể nhận thức hoặc
những tư tưởng sai lệch của chủ thể, cũng có thể là nhu cầu bình thường nhưng chủ
thể đã lựa chọn cách thỏa mãn chúng trái với các lợi ích và chuẩn mực của xã hội.
1.2.3.4. Mục đích phạm tội
Tội cướp tài sản thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp. Mục đích của người phạm
tội cướp tài sản là nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác. Xác định được mục
đích phạm tội cướp tài sản là cơ sở để đề ra các biện pháp phịng ngừa tình hình tội
cướp tài sản.
1.2.3.5. Phương thức thực hiện tội phạm
Nghiên cứu về phương thức thực hiện tội phạm cướp tài sản ở khía cạnh

nhân thân người phạm tội nhằm xác định được cách thức thực hiện tội phạm diễn ra
trong thực tế, để từ đó đưa ra những thơng báo nhằm phịng ngừa tội phạm này có
hiệu quả.
1.2.3.6. Địa bàn gây án
Nghiên cứu về địa bàn gây án của người phạm tội cướp tài sản là cơ sở để
xác định mức độ và diễn biến của tội phạm được thực hiện ở từng địa điểm cụ thể
như: đoạn đường vắng, ít người qua lại; những khu vực thường xuyên có hoạt động
giao nhận tài sản lớn; thông qua các dịch vụ của mạng internet, mạng xã hội, mạng
viễn thơng… Từ đó, kịp thời tham mưu các giải pháp phòng ngừa, ngăn chặn kịp
thời tội phạm cướp tài sản xảy ra.
1.2.3.7. Chế tài đã áp dụng
Chế tài áp dụng đối với người phạm tội cướp tài sản được căn cứ tại Điều
168 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) có 05 khung hình phạt đối với tội
này được quy định tại các khoản 2,3,4,5,6. Tùy thuộc vào mức độ thực hiện tội
phạm và hậu quả do người phạm tội cướp tài sản gây ra mà áp dụng chế tài đối với
họ cho phù hợp.
1.3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội cướp tài
sản
Việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội cướp tài sản được thể hiện qua
những ý nghĩa như sau:
13


- Về mặt lý luận (tội phạm học), nhân thân người phạm tội cướp tài sản trên
địa bàn Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh có giá trị gì vơ cùng quan trọng. Bởi vì,
một mặt nó khẳng định lý luận tội phạm học về nhân thân người phạm tội, xem lý
luận đó có phù hợp hay khơng, mặt khác, nó có thể bổ sung cho lý luận đã có. Cụ
thể như sau:
+ Tình hình tội cướp tài sản là tổng thể các hành vi phạm tội và người (chủ
thể) đã thực hiện hành vi cướp tài sản trong một đơn vị không gian và thời gian nhất

định được xem xét qua 4 thông số là mức độ, cơ cấu, động thái và tính chất của tình
hình tội phạm [3]. Nhiều đặc điểm tội phạm học về nhân thân người phạm tội đã
được phản ánh thông qua việc nghiên cứu này nhờ việc sử dụng và khai thác (hệ
thống hóa, phân tổ theo các chiêu thức khác nhau), số liệu thống kê thường xuyên
do các cơ quan chức năng cung cấp, bốn thơng số về tình hình tội cướp tài sản phải
được làm rõ ở một chừng mực có thể nhất. Qua đó, một bức tranh tổng thể về người
phạm tội cướp tài sản cùng các đặc điểm nhân thân nhất định của họ được làm rõ;
+ Việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội cướp tài sản giúp tìm ra
nguyên nhân và điều kiện của tội cướp tài sản. Nguyên nhân và điều kiện của tội
cướp tài sản bao gồm những yếu tố thuộc về nhân thân người phạm tội như đặc
điểm tâm, sinh lý, khuynh hướng giá trị… của con người với những yếu tố tác động
thuộc môi trường bên ngoài làm phát sinh tội cướp tài sản. Nghiên cứu các đặc
điểm của nhân thân người phạm tội cướp tài sản, phân tích bản chất cũng như các
đặc điểm hình thành của nó chính là ngun nhân và điều kiện của tình hình tội
cướp tài sản thuộc quá trình tương tác nhập tâm và quá trình tương tác xuất tâm;
+ Thông qua việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội cướp tài sản sẽ tìm
ra được những yếu tố tiêu cực từ phía người phạm tội và mơi trường rồi tác động
vào đó để hạn chế, loại trừ những đặc điểm tiêu cực của nhân thân con người, góp
phần phịng ngừa tình hình tội cướp tài sản bằng các biện pháp thiết thực, các giải
pháp cụ thể đánh giá một cách khái quát nhất các đặc điểm về mặt tự nhiên, xã hội
và hành vi phạm tội. Phân loại từng nhóm đối tượng theo độ tuổi, giới tính, trình độ,
nghề nghiệp… từ đó áp dụng các biện pháp giáo dục và cải tạo cho phù hợp.

14


- Về mặt thực tế, khi nhân thân người phạm tội cướp tài sản trên địa bàn
quận 3 trong giai đoạn 2015-2019 đã được làm rõ, thì đem lại tác dụng thiết thực
sau:
+ Nghiên cứu nhân thân người phạm tội cướp tài sản là cơ sở để các cấp

chính quyền ở Quận 3 đề ra những chính sách phát triển kinh tế, xã hội phù hợp với
địa bàn, quan trọng hơn cả là chính sách pháp luật nói chung và chính sách hình sự
nói riêng;
+ Kết quả nghiên cứu nhân thân của tội cướp tài sản là cơ sở để đề ra các
giải pháp phịng ngừa tình hình tội cướp tài sản từ khía cạnh nhân thân người phạm
tội một cách tồn diện và phù hợp với tình hình cụ thể trên địa bàn.
+ Nghiên cứu nhân thân người phạm tội cướp tài sản, có ý nghĩa quan trọng
trong việc giáo dục, cải tạo người phạm tội trên địa bàn Quận.
1.4. Những yếu tố tác động đến quá trình hình thành nhân thân người
phạm tội cướp tài sản
Những yếu tố tác động đến quá trình hình thành nhân thân người phạm tội
cướp tài sản là:
1.4.1. Những yếu tố tác động đến quá trình tương tác nhập tâm

1.4.1.1. Những yếu tố khách quan
a) Mơi trường gia đình
Gia đình là gì? Gia đình là tế bào của xã hội, là nơi sinh sống của mọi thành viên
dưới một mái nhà. Ở gia đình có tình u thương, chăm sóc, nâng niu, có tiếng cười
của những đứa trẻ hay sự đồng cảm chia sẻ của mọi người. Đối với trẻ thơ, gia đình
khơng chỉ là nơi được sống hạnh phúc mà là nơi ni dưỡng tâm hồn của đứa trẻ, giúp
hồn thiện bản thân về tư duy lẫn nhân cách. Tuy nhiên, không phải ai cũng được sống
trong gia đình hạnh phúc có những gia đình khuyết thiếu, đỗ vỡ, khơng an tồn, lành
mạnh… những yếu tố tiêu cực trong môi trường gia đình sẽ tác động, làm hình thành
nhân cách lệch lạc của cá nhân khi gặp tình huống cụ thể thuận lợi sẽ làm phát sinh
hành vi phạm tội, nhất là đối với lứa tuổi thanh thiếu niên. Những yếu tố này được biểu
hiện cụ thể như sau:

15



- Gia đình khuyết thiếu: là gia đình khơng có cha, khơng có mẹ hoặc khơng
có cả cha lẫn mẹ dẫn đến con cái bị bỏ rơi, thiếu sự dạy dỗ và tình thương của cha
mẹ. Chúng sẽ dễ phạm tội khi bị bạn bè rủ rê, lôi kéo thực hiện hành vi phạm tội
trong đó có tội cướp tài sản;
- Gia đình khơng hạnh phúc, thường xun cãi, chửi, đánh nhau: vì nhiều lý
do khác nhau, một bộ phận gia đình đã khơng cịn thật sự là "tổ ấm" để trao truyền
yêu thương, chăm lo, dạy dỗ, giáo dục và ni dưỡng con trẻ. Ở đó, cấu trúc gia
đình lỏng lẻo, liên kết giữa các thành viên trong gia đình yếu, cha mẹ thiếu gương
mẫu, thường xuyên mâu thuẫn, xung đột, dẫn đến bạo lực gia đình; trong đó, bạo
lực của người chồng đối với người vợ và bạo lực của cha mẹ đối với con cái xảy ra
nghiêm trọng. Ở những nơi con trẻ phải thường xuyên chứng kiến những "hình
ảnh", "sự việc" khơng đẹp đó, ắt chúng hoặc bị khủng hoảng tâm lý "đòn roi", lệch
lạc trong suy nghĩ dẫn đến lệch lạc trong hành động, có xu hướng áp dụng hành vi
bạo lực đối với người khác trong tương lai. Cùng với các mâu thuẫn, xung đột và
bạo lực gia đình là vấn đề li hơn, nhất là gia đình có cha mẹ li hơn khi con cịn nhỏ
tuổi, thì con trẻ dễ bị khủng hoảng tâm sinh lý hoặc thu mình, rồi sẽ dẫn đến có
những hành vi lệch chuẩn trong đó có hành vi cướp tài sản trong tương lai. Vi phạm
pháp luật của những người này đa số quậy phá, ngông nghênh, gây rối trật tự công
cộng và phát triển cao hơn là kết thành băng nhóm chuyên phá phách, sinh sự đánh
nhau, gây thương tích, thâm chí sa vào thực hiện hành vi cướp tài sản;
Thứ ba, gia đình thiếu sự quan tâm chăm sóc, giáo dục con cái: Con trẻ lúc
nào cũng cần có sự quan tâm, theo dõi sát sao của cha mẹ. Vì nếu khơng cảm nhận
được tình u của cha mẹ con cái sẽ cảm thấy thua kém bạn bè, bị bỏ rơi và dần
phát sinh những hệ lụy đáng ngại. Ngày nay, xã hội phát triển một cách nhanh
chóng, cha mẹ đơi lúc mải mê với cuộc chiến "cơm áo gạo tiền" mà quên đi mất
trách nhiệm giáo dục con cái mình. Có gia đình phó mặc con cái mình cho người
giúp việc, "khốn trắng" cho xã hội và nhà trường việc giáo dục con trẻ. Bên cạnh
đó khơng ít cha mẹ khơng dành nhiều thời gian cho con; một số khác thiếu kỹ năng
và phương pháp giáo dục khoa học… đã ảnh hưởng đến tâm sinh lý, sự hình thành
nhân cách, lối sống đúng đắn, thậm chí sự thành cơng của con trẻ trong tương lại;


16


Thứ tư, gia đình q nng chiều con cái: Bên cạnh sự nuông chiều, cha
mẹ bao bọc mọi việc khiến trẻ hình thành tính cách ỷ lại, dựa dẫm, sống ích kỉ, lười
nhác không ý thức về trách nhiệm, quen được hưởng thụ, phục vụ. Sự vi phạm pháp
luật có nguồn gốc từ sự buông lỏng, thiếu phối hợp quản lý của gia đình với nhà
trường. Điều kiện vật chất của gia đình và sự quản lý lỏng lẻo cũng thường khiến họ
nhanh chóng sa đà vào những thú vui vật chất tầm thường (games, bạo lực, đua xe
cảm giác mạnh, ăn nhậu, quậy phá, nghiện hút…) đến những hành vi phạm pháp.
Nhiều người thực hiện hành vi cướp tài sản thậm chí là tài sản của những người
thân trong gia đình hoặc của người khác để thỏa mãn những nhu cầu khơng chính
đáng như đua địi, ăn diện, đánh bạc, hút chích…
b) Mơi trường nhà trường
Mơi trường giáo dục chứa đựng tất cả những điều kiện vật chất và tinh thần
ảnh hưởng đến mọi hoạt động giáo dục, học tập, rèn luyện, vui chơi và phát triển
nhân cách của các em học sinh. Môi trường giáo dục lành mạnh là môi trường mà
người học được bảo vệ, tôn trọng, đối xử công bằng, dân chủ và nhân ái, được tạo
điều kiện phát triển phẩm chất và năng lực. Môi trường nhà trường không những
rèn luyện nhân cách cho con người mà cịn có giá trị duy trì, củng cố những phẩm
chất tốt đẹp hay còn gọi là nơi rèn đức, luyện tài. Tuy nhiên hiện nay dưới tác động
của mặt trái của nền kinh tế thị trường môi trường nhà trường có ảnh hưởng đến
việc hình thành những đặc điểm nhân thân tiêu cực như sau:
- Hiện nay văn hóa ứng xử học đường ở Việt Nam đang bị xuống cấp
nghiêm trọng một phần là do bị xem nhẹ. Nhà trường chỉ tập trung vào việc dạy
kiến thức tự nhiên xã hội mà quên đi giáo dục nhân cách sống cho học sinh. Vấn đề
dạy "nhân" và "nghĩa" bị buông lỏng giảm sút nhất là các mặt đạo đức, lối sống
Theo thống kê của Bộ giáo dục đào tạo, trong giai đoạn 2015 – 2019 cả nước đã xảy
ra 1600 vụ đánh nhau ngồi trường học, trong đó có các vụ án hình sự ngày càng

gia tăng có cả những đối tượng ở lứa tuổi học sinh, sinh viên thực hiện hành vi cướp
tài sản. Tình trạng bạo lực học đường gia tăng là vấn đề hết sức quan ngại trong giai
đoạn hiện nay;

17


- Tình trạng kết bè, kết phái tạo thành băng hội cũng làm ảnh hưởng đến
môi trường giáo dục làm cho cả xã hội quan tâm, lo lắng. Hiện tượng lập băng
nhóm trong lứa tuổi học sinh, sinh viên để đi cướp tài sản, trấn lột, dằn mặt lẫn
nhau, thanh tốn ân ốn cá nhân làm gióng lên hồi chng cảnh tỉnh đối với không
những chỉ ngành giáo dục mà cịn tồn xã hội;
- Hiện nay mối quan hệ giữa thầy – trị khơng cịn đúng chuẩn mực như
trước học sinh khơng có sự tơn trọng đối với thầy cơ, nhiều trường hợp vì bị giáo
viên phạt mà có những cư xử khơng chuẩn mực, thậm chí trả thù. Những hiện tượng
tiêu cực trong giáo dục khơng phải là ít, q trình thương mại hóa trong giáo dục đã
làm biến tướng và thương mại hóa quan hệ thầy trị, làm cho thầy không được là
thầy không được tôn trọng, không uy nghiêm, được học trò coi là tấm gương để noi
theo học tập, trị cũng khơng phải là trị, khơng lễ phép, kính trọng thầy và chăm chỉ
học hành tu dưỡng những điều này sẽ tạo nên tâm lý bất cần, không tôn trọng người
khác, tôn trọng xã hội, coi thường pháp luật dễ dẫn đến hành vi vi phạm pháp luật;
- Hệ thống giáo dục các cấp bậc từ đại học đến phổ thơng cịn thiếu đồng
bộ, chưa có sự cân đối. Ở phổ thông, các học sinh được học các mơn học khoa học
mang tính lý thuyết rất nhiều, nhưng khi lên cấp bậc đại học thì những lý thuyết ở
phổ thông không thể áp dụng được, khiến các học viên phải học lại từ đầu, như thế
phải mất thêm một khoảng thời gian nữa. Tư duy của nền giáo dục còn chậm đổi
mới, chưa theo kịp tốc độ phát triển, đổi mới của đất nước trong bối cảnh nền kinh
tế thị trường, phát triển và hội nhập thế giới. Việc thiếu kĩ năng cuộc sống khiến các
em trở nên lúng túng dễ phạm phải sai lầm không đáng có.
c) Mơi trường nhóm

Đối với con người mơi trường bạn bè có vai trị hết sức quan trọng. Mơi
trường bạn bè giúp con người thể hiện cá tính, thấu hiểu và chấp nhận mình. Tuy
nhiên, mơi trường bạn bè có sự ảnh hưởng hai chiều cả tích cực lẫn tiêu cực, bởi
ơng bà ta đã có câu: "Lựa bạn mà chơi". Đối với người phạm tội cướp tài sản
thường có sự tụ tập bạn bè xấu và nghe theo bạn bè tham gia vào các tệ nạn xã hội
như ma túy, cờ bạc, mại dâm… Hoặc có những trường hợp tham gia vào các băng
nhóm cướp tài sản để có tiền thỏa mãn, tiêu xài cá nhân.

18


×