Tải bản đầy đủ (.docx) (41 trang)

CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ BẢO ĐẢM TIỀN VAY TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (264.39 KB, 41 trang )

CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ BẢO ĐẢM TIỀN VAY TRONG HOẠT ĐỘNG
TÍN DỤNG
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG
1. Khái niệm và vai trò của hoạt động tín dụng
1.1. Khái niệm hoạt động tín dụng
Trên thực tế, thuật ngữ “tín dụng” được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau nhưng
phổ biến nhất là chỉ quan hệ vay mượn, chuyển giao tài sản giữa bên cho vay và bên đi
vay.
Trong đời sống xã hội, tín dụng do nhiều loại chủ thể thực hiện. Tuỳ thuộc vào
chủ thể cung ứng tín dụng mà tín dụng có thể chia thành các loại như: tín dụng nhà
nước, tín dụng quốc tế,, tín dụng hợp tác, tín dụng ngân hàng…
Tín dụng ngân hàng là quan hệ vay mượn giữa ngân hàng với tất cả các cá nhân,
tổ chức và các doanh nghiệp khác trong xã hội. Nó không phải là quan hệ dịch chuyển
vốn trực tiếp từ nơi tạm thời thừa sang nơi tạm thời thiếu mà là quan hệ dịch chuyển
vốn gián tiếp thông qua một tổ chức trung gian, đó là ngân hàng. Tín dụng ngân hàng
cũng mang bản chất chung của quan hệ tín dụng đó là quan hệ vay mượn có hoàn trả cả
vốn và lãi sau một thời gian nhất định theo thỏa thuận, là quan hệ chuyển nhượng tạm
thời quyền sử dụng vốn và là quan hệ bình đẳng cả hai bên đều có lợi.
Hoạt động tín dụng được quy định trong Luật Các Tổ chức tín dụng (TCTD)
1997 từ Điều 49 đến Điều 64. Mục này quy định những vấn đề chung nhất liên quan
đến hoạt động tín dụng như việc thiết lập một quan hệ tín dụng thông qua hợp đồng tín
dụng hoặc hợp đồng thuê tài chính, nêu ra các quyền và nghĩa vụ của các bên trong
quan hệ tín dụng.
Theo định nghĩa tại khoản 8, khoản 10 Điều 20 Luật Các TCTD thì “Hoạt động
tín dụng là việc TCTD sử dụng nguồn vốn tự có, nguồn vốn huy động để cấp tín dụng”.
“Cấp tín dụng là việc tổ chức tín dụng thoả thuận để khách hàng sử dụng một
khoản tiền với nguyên tắc có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê
tài chính, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác”.
Như vậy hoạt động tín dụng là hoạt động mà TCTD sử dụng nguồn vốn tự có
hoặc nguồn vốn huy động để thực hiện việc cấp tín dụng với các hình thức cho vay,
chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình


thức khác theo quy định của pháp luật.
1.2. Vai trò hoạt động tín dụng
Trong hoạt động của các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam hiện nay,
hoạt động tín dụng là một nghiệp vụ truyền thống, nền tảng, chiếm tỉ trọng cao trong cơ
cấu tài sản và cơ cấu thu nhập. Tuy nhiên, đây cũng là hoạt động phức tạp, tiềm ẩn
những rủi ro lớn cho các NHTM. Tín dụng trong điều kiện trong nền kinh tế mở, cạnh
tranh và hội nhập vẫn tiếp tục đóng một vai trò quan trọng trong kinh doanh ngân hàng.
 Tín dụng ngân hàng là công cụ tích tụ và tập trung vốn rất quan trọng, từ đó giúp
cho việc tích tụ và tập trung sản xuất.
Tín dụng ngân hàng tập trung các khoản tín dụng nhỏ lẻ thành các khoản vốn
lớn, tạo điều kiện cho các chủ thể đi vay huy động được vốn lớn để thực hiện đầu tư,
mở rộng sản xuất, rút ngắn thời gian tích lũy vốn. Như vậy, tín dụng đóng vai trò tích
cực thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Thông qua tín dụng ngân hàng, các doanh nghiệp nhận được khối lượng vốn bổ
sung rất lớn. Từ đó các doanh nghiệp có thể tăng quy mô sản xuất, đổi mới thiết bị, áp
dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, tăng năng suất lao động, tăng khả năng cạnh tranh.
Điều này giúp các doanh nghiệp lớn có điều kiện phát triển tốt hơn nhưng cũng có thể
khiến một số doanh nghiệp nhỏ phải lâm vào tình trạng phá sản. Muốn tồn tại, các
doanh nghiệp nhỏ phải liên kết với nhau để tăng khả năng cạnh tranh. Như vậy, tín
dụng đã góp phần thúc đẩy quá trình tập trung sản xuất.
 Tín dụng ngân hàng giúp cho việc điều hòa nguồn vốn góp phần ổn định thị trường tiền
tệ, phát triển cân đối các ngành trong nền kinh tế quốc dân, và chuyển dịch cơ cấu kinh
tế.
Thông qua hoạt động tín dụng mà nguồn vốn dịch chuyển từ nơi thừa đến nơi
thiếu, làm cho xã hội bớt lãng phí ở những nơi thừa vốn, giảm khó khăn ở những nơi
thiếu vốn, làm tăng hiệu quả sử dụng vốn, góp phần làm cho tốc độ luân chuyển hàng
hóa và tiền vốn tăng lên, tạo sự phát triển đồng đều trong các ngành.
Việc điều hòa nguồn vốn, đồng thời thông qua điều chỉnh khung lãi suất phù hợp
giúp cho chính sách tiền tệ của Chính phủ được thực hiện, điều hòa lưu thông tiền tệ
góp phần ổn định tiền tệ và sự phát triển lành mạnh của thị trường tài chính tiền tệ.

Bên cạnh đó, thông qua hoạt động tín dụng, Chính phủ có những chính sách ưu
tiên hỗ trợ phát triển các vùng, miền hay các ngành then chốt, trọng điểm nhờ vào việc
đưa ra các ưu đãi tín dụng… Do vậy đã kích thích, thúc đẩy các doanh nghiệp đầu tư
vào các vùng, ngành trọng điểm trong diện ưu tiên của Chính phủ, góp phần chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, tạo sự phát triển cân đối trong cả nước.
 Tín dụng góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, tăng trưởng kinh tế.
Đặc trưng cơ bản nhất của tín dụng là sự vận động trên cơ sở hoàn trả và có lợi
tức, nhờ đó kích thích việc sử dụng vốn có hiệu quả. Khi sử dụng vốn vay ngân hàng,
doanh nghiệp phải trả nợ gốc- lãi vay đúng hạn và tôn trọng các điều kiện khác đã ghi
trong hợp đồng tín dụng. Điều này đòi hỏi doanh nghiệp phải quan tâm đến việc nâng
cao hiệu quả sử dụng vốn, giảm chi phí sản xuất, tăng vòng quay của vốn tạo điều kiện
nâng cao lợi nhuận.
 Tín dụng tạo điều kiện phát triển các quan hệ kinh tế với nước ngoài, là phương tiện nối
liền kinh tế trong nước với kinh tế nước ngoài.
Trong thời kỳ hội nhập kinh tế ngày nay, tín dụng ngân hàng đã trở thành một
trong những phương tiện nối liền nền kinh tế các nước với nhau. Đối với các nước đang
phát triển nói chung và nước ta nói riêng, tín dụng đóng vai trò rất quan trọng trong việc
mở rộng xuất khẩu hàng hóa, đồng thời nhờ nguồn tín dụng bên ngoài để công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nền kinh tế.
2. Hợp đồng tín dụng
2.1. Khái niệm hợp đồng tín dụng
“Hợp đồng tín dụng là sự thoả thuận bằng văn bản giữa tổ chức tín dụng (bên
cho vay) với tổ chức, cá nhân có đủ những điều kiện do luật định (bên vay), theo đó tổ
chức tín dụng thoả thuận ứng trước một số tiền cho bên vay sử dụng trong một thời hạn
nhất định, với điều kiện có hoàn trả cả gốc lẫn lãi, dựa trên sự tín nhiệm”
1
Về bản chất, hợp đồng tín dụng là hợp đồng vay tài sản, theo đó thiết lập quan
hệ giữa bên vay và bên cho vay mối quan hệ về vay tài sản và thanh toán tài sản nợ.
Điều 471, Bộ luật dân sự 2005 quy định: “Hợp đồng vay tài sản là sự thoả thuận giữa
các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải

hoàn trả bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả
1 Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Ngân hàng, NXB Công an nhân dân, H.2005, tr133.
lãi, nếu có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định”. Tuy nhiên, Trong hợp đồng tín
dụng luôn có sự tồn tại của một TCTD đóng vai trò là một bên trong giao kết. Do vậy,
hợp đồng tín dụng không phải là một hợp đồng vay tài sản đơn thuần hợp đồng tín dụng
được giao kết theo những nguyên tắc riêng so với hợp đồng vay tài sản thông thường.
Luật các TCTD năm 1997 (được sửa đổi, bổ sung năm 2004) và các quy định
trong các văn bản pháp luật ở Việt Nam về tín dụng ngân hàng không đưa ra khái niệm
pháp lý về hợp đồng tín dụng (HĐTD). Điều 51 Luật các TCTD 1997 (được sửa đổi, bổ
sung năm 2004) quy định: “HĐTD phải có nội dung về điều kiện vay, mục đích sử dụng
tiền vay, hình thức vay, số tiền vay, lãi suất, thời hạn vay, hình thức bảo đảm, giá trị tài
sản bảo đảm, phương thức trả nợ và những cam kết khác được các bên thoả thuận”.
So với các loại hợp đồng khác, HĐTD có các dấu hiệu đặc trưng sau:
Thứ nhất, trong HĐTD, TCTD với tư cách là doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ
đóng vai trò là bên cho vay. Khi tham gia quan hệ HĐTD, TCTD được tổ chức theo
hình thức luật định, thực hiện hành vi cho vay mang tính chuyên nghiệp. Đây cũng là
dấu hiệu để phân biệt HĐTD với hợp đồng vay tài sản trong các giao dịch dân sự thông
thường. Đó là, một bên tham gia HĐTD bao giờ cũng là TCTD có đủ các điều kiện do
luật định, với tư cách là bên cho vay còn bên kia có thể là tổ chức, cá nhân thỏa mãn
những điều kiện vay vốn do pháp luật quy định.
Thứ hai, quan hệ HĐTD là loại quan hệ kéo dài về mặt thời gian, bên cho vay
chỉ có thể đòi tiền bên vay sau một thời hạn nhất định theo thỏa thuận. Chính tính kéo
dài về mặt thời gian của quan hệ HĐTD tạo ra sự tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cao trong việc
thu hồi vốn cho vay của TCTD. Nếu thời gian càng dài thì nguy cơ càng lớn. Vì lý do
đó mà tranh chấp phát sinh từ HĐTD thường xảy ra với tỷ lệ lớn hơn so với các loại
hợp đồng dân sự hay kinh doanh thương mại khác. Do vậy, trong HĐTD thường phải đi
kèm các biện pháp bảo đảm để giảm nguy cơ rủi ro cho bên cho vay.
Thứ ba, hoạt động của TCTD là nhằm mục đích thu lợi nhuận nên HĐTD luôn
có điều khoản quy định về lãi suất. Lãi suất này không được cao hơn mức lãi suất trần
do Ngân hàng nhà nước quy định đối với từng loại vay tương ứng. Trong khi đó, hợp

đồng vay tài sản không đòi hỏi phải có lãi suất (các bên thỏa thuận - Điều 471 Bộ Luật
dân sự (BLDS) 2005). Việc hướng tới lợi nhuận khi xác lập quan hệ HĐTD xuất phát từ
lợi ích của TCTD, từ người gửi tiền và từ lợi ích của xã hội.
2.2. Giao kết hợp đồng tín dụng
2.2.1. Chủ thể của hợp đồng tín dụng
Chủ thể của hợp đồng tín dụng bao giờ cũng gốm một bên là các TCTD, có đủ
điều kiện theo quy định của pháp luật với tư cách là bên cho vay và một bên là bên vay,
có thể là cá nhân, tổ chức thỏa mãn điều kiện vay vốn. Như vậy, trong hợp đồng tín
dụng ngân hàng một bên chủ thể phải là ngân hàng (thường đóng vai trò bên cho vay),
còn chủ thể kia là các pháp nhân, thể nhân ( thường đóng vai trò bên đi vay) có đủ các
điều kiện vay vốn.
a. Bên cho vay
Theo Điều 12 Luật các TCTD 1997, sửa đổi bổ sung năm 2004, quy định về các
loại hình TCTD:
“1. TCTD được thành lập theo pháp luật Việt Nam bao gồm TCTD nhà nước,
TCTD cổ phần, TCTD hợp tác, TCTD liên doanh, TCTD 100% vốn nước ngoài.
2. TCTD nước ngoài được mở chi nhành ngân hàng nước ngoài và văn phòng
đại diện tại Việt Nam.
3. TCTD nước ngoài góp vốn, mua cổ phần của TCTD hoạt động tại Việt Nam
theo quy định của Chính phủ.”
Trong hoạt động tín dụng ngân hàng, các loại ngân hàng sau đây có thể là người
cho vay trong các quan hệ tín dụng Ngân hàng:
- Ngân hàng Nhà nước: Là người cho vay trong quan hệ với các tổ chức tín dụng và kho
bạc nhà nước.
- Ngân hàng Thương mại: Là người cho vay trong quan hệ với các pháp nhân kinh tế và
thể nhân kinh doanh.
b. Bên đi vay
Như đã nói ở trên, chủ thể đi vay cần phải đáp ứng đủ các điều kiện vay vốn
theo quy định của pháp luật. Theo khoản 2 Điều 2 Quyết định số 284/2000/QĐ-NHNN
ban hành ngày 25/08/2000 về quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng

thì chủ thể đi vay bao gồm:
- Các pháp nhân: Bao gồm doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, công ty TNHH, công ty
cổ phần, doanh nghiệp có vốn đầu tư nưứoc ngoàivà các tổ chức khác có đủ các điều
kiện quy định tại Điều 94 của Bộ luật Dân sự ;
- Cá nhân;
- Hộ gia đình;
- Tổ hợp tác
- Doanh nghiệp tư nhân
- Công ty hợp danh
Ngoài ra, tại Khoản 2 Điều 2 Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày
31/12/2001 quy định chủ thể đi vay vốn, ngoài quy định giống như Khoản 2 Điều 2
Quyết định 284/2000/QĐ-NHNN1 còn bao gồm cả cá nhân và pháp nhân nước ngoài
Theo Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng nhà nước
ngày 31/12/2001 ban hành quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng (đã được sửa
đổi bởi các quyết định số 127/2005 và quyết định số 783/2005 của Thống đốc Ngân
hàng nhà nước):
“TCTD xem xét và quyết định cho vay khi khách hàng có đủ các điều kiện sau:
1. Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự
theo quy định của pháp luật:
a) Đối với khách hàng vay là tổ chức và cá nhân Việt Nam:
- Tổ chức phải có năng lực pháp luật dân sự;
- Cá nhân và chủ doanh nghiệp tư nhân phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi
dân sự;
- Đại diện của hộ gia đình phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự;
- Đại diện của tổ hợp tác phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự;
- Thành viên hợp danh của công ty hợp danh phải có năng lực pháp luật và năng lực
hành vi dân sự;
b) Đối với khách hàng vay là tổ chức và cá nhân nước ngoài phải có năng lực pháp
luật dân sự và năng lực hành vi dân sự theo quy định pháp luật của nước mà tổ chức
đó có quốc tịch hoặc cá nhân đó là công dân, nếu pháp luật nước ngoài đó được Bộ

Luật Dân sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
2. Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp.
3. Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết.
4. Có dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khả thi và có hiệu quả.
5. Thực hiện các quy định về bảo đảm tiền vay theo quy định của Chính phủ và hướng
dẫn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.”
Như vậy, các chủ thể cho vay và đi vay cần phải đáp ứng những điều kiện do
pháp luật quy định. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo lợi ích chính
đáng của các bên tham gia quan hệ HĐTD.
2.2.2. Nội dung của hợp đồng tín dụng
Nội dung của hợp đồng tín dụng là tổng thể những điều khoản do các bên có đủ
tư cách chủ thể tham gia cam kết với nhau một cách tự nguyện, bình đẳng phù hợp với
pháp luật. Theo quy định tại điều 51 Luật Các TCTD 1997 sửa đổi bổ sung năm 2004:
“Hợp đồng tín dụng phải có nội dung về điều kiện vay, mục đích sử dụng tiền vay, hình
thức vay, số tiền vay, lãi suất, thời hạn vay, hình thức bảo đảm, giá trị tài sản bảo đảm,
phương thức trả nợ và những cam kết khác được các bên thỏa thuận”
Như vậy, nội dung của HĐTD phải bao gồm các điều khoản cụ thể như sau:
- Điều khoản về đối tượng trong hợp đồng: Trong điều khoản này, các bên phải
thoả thuận về số tiền vay, lãi suất cho vay, tổng số tiền phải trả khi HĐTD đáo hạn.
Trong hợp đồng tín dụng luôn có một tỷ lệ phần trăm (%) tiền lãi nhất định. Số tiền lãi
này bao gồm: lãi suất vay trong hạn (đúng kỳ hạn mà hai bên thoả thuận, tỷ lệ % tiền lãi
vay trong hạn thường thấp hơn tỷ lệ % tiền lãi vay quá hạn) và lãi suất vay quá hạn. Tỷ
lệ % tiền lãi được tính theo mức lãi suất tương đương mức lãi suất trần do Ngân hàng
nhà nước quy định đối với từng loại vay tương ứng.
- Điều khoản về điều kiện vay vốn: Khi thoả thuận điều khoản này, các bên cần
ghi rõ trong HĐTD những điều kiện cụ thể mà bên vay phải thoả mãn thì HĐTD mới có
hiệu lực. Chẳng hạn, bên vay phải có năng lực chủ thể; có khả năng tài chính bảo đảm
hoàn trả nợ vay đúng thời hạn; có phương án sử dụng vốn vay khả thi và hiệu quả, các
biện pháp bảo đảm tín dụng được áp dụng…
- Điều khoản về phương thức thanh toán tiền vay: Đây là một điều khoản rất

quan trọng vì nó liên quan trực tiếp đến việc thu hồi vốn và lãi cho vay. Vì thế, các bên
phải thoả thuận rõ số tiền vay sẽ được hoàn trả dần hàng tháng hay là trả toàn bộ một
lần khi hợp đồng vay đáo hạn.
- Điều khoản về thời hạn sử dụng vốn vay: Các bên phải ghi rõ trong HĐTD về
ngày tháng, năm trả tiền, hoặc phải trả tiền sau bao lâu kể từ ngày ký hợp đồng. Nếu có
thể gia hạn hợp đồng thì các bên cũng dự liệu trước về khả năng này trong HĐTD, còn
thời gian gia hạn sẽ tiến hành thoả thuận sau trong quá trình thực hiện HĐTD.
- Điều khoản về mục đích sử dụng tiền vay: Trong điều khoản này, các bên cần
ghi rõ vốn vay sẽ được sử dụng vào mục đích gì (ví dụ, mua vật tư hàng hoá để kinh
doanh hay mua hàng hoá để tiêu dùng, mua nhà để ở…).
- Điều khoản về giải quyết tranh chấp của HĐTD: Hợp đồng tín dụng vốn chứa
đựng nguy cơ rủi ro rất lớn cho quyền lợi của bên cho vay. Đó là do theo cam kết trong
hợp đồng tín dụng, bên cho vay chỉ có thể đòi tiền của bên vay sau một thời hạn nhất
định. Nếu thời hạn cho vay càng dài thì nguy cơ rủi ro càng lớn.Vì thế mà các tranh
chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng cũng thường xảy ra với số lượng và tỷ lệ lớn hơn
so với đa số các loại hợp đồng. Bởi vậy, các điều khoản về giải quyết tranh chấp cần
được hai bên thoả thuận cụ thể và ghi rõ trong hợp đồng.
2.2.3 Thực hiện hợp đồng tín dụng
Giao kết HĐTD là một quá trình mang tính chất nghiệp vụ - pháp lý do các bên
thực hiện theo một trình tự luật định. Việc giao kết hợp đồng bao gồm các giai đoạn chủ
yếu sau:
 Bước 1: Đề nghị giao kết HĐTD
Khi có nhu cầu vay vốn, các tổ chức, cá nhân phải gửi cho TCTD giấy đề nghị
vay vốn (đơn xin vay vốn) và các tài liệu chứng minh có đủ điều kiện vay vốn, báo cáo
tài chính, mục đích vay vốn, phương án kinh doanh khả thi… Theo Điều 7 QĐ
1627/2001/QĐ-NHNN quy định về điều kiện vay vốn:
“Tổ chức tín dụng xem xét và quyết định cho vay khi khách hàng có đủ các điều
kiện sau:
1. Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm
dân sự theo quy định của pháp luật;

2. Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp;
3. Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết;
4. Có dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khả thi và có hiệu
quả; hoặc có dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống khả thi và phù hợp với quy
định của pháp luật;
5. Thực hiện các quy định về bảo đảm tiền vay theo quy định của Chính phủ và
hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam”.
Theo Điều 14 Quyết định số 284/2000/QĐ-NHNN1 và Quyết định
số 1627/2001/QĐ-NHNN khi khách hàng muốn vay vốn của tổ chức tín dụng thì khách
hàng phải lập một bộ hồ sơ vay vốn với đầy đủ các yêu cầu về: Giấy đề nghị vay vốn,
Các tài liệu chứng minh đủ điều kiện vay vốn.
 Bước 2: Thẩm định hồ sơ tín dụng
Thẩm định hồ sơ tín dụng là việc TCTD tiến hành xác minh các điều kiện vay
vốn đối với bên vay. Đây là một quy trình mang tính nghiệp vụ, gồm nhiều khâu được
thực hiện theo trình tự chặt chẽ, quyết định đến chất lượng của tín dụng.
Điều 53.2. Luật các TCTD quy định: “TCTD phải tổ chức việc xét duyệt cho vay
theo nguyên tắc phân định trách nhiệm giữa các khâu thẩm định và quyết định cho
vay”. Nội dung thẩm định bao gồm việc xác định các điều kiện về chủ thể vay vốn,
thẩm định dự án đề nghị vay vốn, mục đích sử dụng vốn vay, phương án sản xuất kinh
doanh và tính khả thi của phương án, các biện pháp đảm bảo hợp đồng (Điều 15.2 QĐ
1627/2001/QĐ-NHNN).
* Thẩm định điều kiện chủ thể vay vốn của chủ thể
Thẩm định điều kiện chủ thể vay vốn hay thẩm định tư cách pháp lý của chủ thể
là việc xem năng lực pháp luật và năng lực hành vi của họ. Mục đích và nội dung của
của việc thẩm định này nhằm khẳng định xem khách hàng có năng lực pháp luật dân sự,
năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự trước pháp luật không. Đây là một
khâu rất quan trọng trong công tác tín dụng vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến việc thu nợ,
nguồn vốn và rủi ro của các ngân hàng
* Thẩm định và phân tích dự án
Thẩm định tín dụng là sử dụng các công cụ và kỹ thuật phân tích

nhằm kiểm tra, đánh giá mức độ tin cậy và rủi ro của một dự án mà khách hàng đã xuất
trình nhằm phục vụ cho việc ra quyết định tín dụng. Dựa vào việc phân tích, thẩm định
tín dụng đưa ra đánh giá về tính chất khả thi thực sự của dự án về mặt kinh tế đứng trên
góc độ của ngân hàng. Khi lập dự án, khách hàng muốn được vay vốn, có thể đã thổi
phồng và dẫn đến việc ước lượng quá lạc quan về hiệu quả kinh tế của dự án. Do vậy,
thẩm định tín dụng cần phải xem xét, đánh giá đúng thực chất của dự án.
Đây là nghiệp vụ rất khó khăn để đi tới quyết định có cho vay vốn
hay không. Đó là vì các ngân hàng khó có thể nắm bắt các thông tin của khách hàng
một cách chính xác, mà đòi hỏi sự trung thực của khách hàng là chính, với những ràng
buộc về mặt pháp lý, do:
- Không phải bất cứ một cán bộ tín dụng nào cũng đầy đủ mọi khả năng và dự báo chính
xác mọi vấn đề phát sinh từ dự án một nhất định. Phần lớn việc thẩm định dựa trên
bảng tường trình của khách hàng về các hình thức sử dụng vốn vay, khả năng thu hồi
vốn, biện pháp giải ngân.
- Trong quá trình thẩm định hồ sơ vay vốn, nếu các điều kiện khác chưa thật đầy đủ
nhưng dự án của khách hàng có khả năng thu hồi vốn, trả nợ gốc và lãi đúng hạn thì vẫn
được coi là khoản cho vay tốt. Ngược lại, các điều kiện khác đầy đủ, nhưng dự án
không khả thi cuối cùng khách hàng không trả được nợ thì vẫn coi là khoản vay xấu.
 Bước 3: Quyết định cho vay
Trên cơ sở kết quả thẩm định, TCTD quyết định cho khách hàng vay hay không.
Trong trường hợp không cho vay, TCTD phải thông báo cho khách hàng bằng văn bản,
trong đó nêu rõ căn cứ không cho vay. (Điều 15.3 QĐ 1627/2001/QĐ-NHNN). Nếu
quyết định cho vay, cán bộ tín dụng cần xem xét và đưa ra quyết định hình thức cho
vay, thời hạn vay vốn, mức cho vay, lãi xuất vay.
* Hình thức cho vay
Trên cơ sở nhu cầu sử dụng vốn của từng khoản vốn vay của khách hàng và
kiểm tra giám sát việc khách hàng sử dụng vốn của tổ chức tín dụng , tổ chức tín dụng
thoả thuận với khách hàng vay vốn về việc lựa chọn phương án cho vay theo một trong
các phương thức cho vay sau đây:
- Cho vay từng lần: Mỗi lần vay vốn khách hàng và tổ chức tín dụng làm thủ

tục vay vốn cần thiết và ký kết hợp đồng tín dụng.
- Cho vay trả góp: Khi vay vốn, tổ chức tín dụng và khách hàng xác định và
thoả thuận số lãi tiền vay phải trả cộng với số nợ gốc được chia ra để trả nợ theo nhiều
ký hạn trong thời hạn cho vay.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng: Tổ chức tín dụng và khách hàng xác định và
thoả thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong thời hạn nhất định hoặc theo chu kỳ sản
xuất kinh doanh.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: Tổ chức tín dụng cam kết bảo đảm
sẵn sàng cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất định. Tổ chức
tín dụng thoả thuận với khách hàng về thời hạn, hiệu lực của hạn mức tín dụng dự
phòng, mức chi trả cho hạn mức tín dụng dự phòng.
- Cho vay theo dự án đầu tư: Tổ chức tín dụng cho khách hàng vay vốn để thực
hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các dự án đầu tư phục
vụ đời sống.
- Cho vay hợp vốn: Một nhóm tổ chức tín dụng cùng cho vay đối với một dự án
vay vốn của khách hàng. Trong đó có một tổ chức tín dụng đứng ra làm đầu mối dàn
xếp, phối hợp với các tổ chức tín dụng khác. Việc cho vay vốn được quy định theo
Quyết định 284, 1627 và Quy chế đồng tài trợ của các tổ chức tín dụng do Thống đốc
ngân hàng Nhà nước ban hành.
- Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng: Tổ chức tín
dụng chấp thuận cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng để thanh
toán tiền mua hàng hoá, dịch vụ, rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động hoặc điểm ứng
tiền mặt là đại lý của tổ chức tín dụng. Khi cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và
sử dụng thẻ tín dụng, tổ chức tín dụng và khách hàng phải tuân theo các quy định của
Chính phủ và của Ngân hàng Nhà nước về phát hành và sử dụng thẻ tín dụng.
* Lãi xuất cho vay
Mức lãi xuất cho vay do tổ chức tín dụng và khách hàng thoả thuận phù hợp
với quy định của Ngân hàng Nhà nước về lãi xuất cho vay tại thời điểm ký kết hợp
đồng tín dụng. Tổ chức tín dụng có nhiệm vụ công bố công khai các mức lãi xuất cho
vay cho khách hàng biết.

Lãi xuất cho vay ưu đãi áp dụng đối với khách hàng được ưu đãi về lãi xuất
theo quy định của Chính phủ và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước.
Trường hợp khoản vay được chuyển sang nợ quá hạn, phải áp dụng lãi xuất nợ
quá hạn theo mức quy định của Thống đốc ngân hàng Nhà nước tại thời điểm ký kết
hợp đồng tín dụng nhưng không quá 150% lãi xuất cho vay.
* Thời hạn vay vốn
Trên cơ sở đánh giá thời hạn cần thiết để thực hiện dự án và thu hồi vốn, tổ
chức tín dụng và khách hàng thoả thuận về thời hạn cho vay theo 3 loại sau:
- Cho vay ngắn hạn: được xác định phù hợp với chu kỳ sản xuất, kinh doanh và khả năng
trả nợ của khách hàng nhưng không vượt quá thời hạn 12 tháng.
- Cho vay trung hạn: Thời hạn cho vay được xác định phù hợp với thời gian thu hồi vốn
của dự án, khả năng trả nợ và tính chất nguồn vốn vay của khách hàng và thời hạn cho
vay từ 12 tháng đến 60 tháng.
- Cho vay dài hạn: Việc xác định thời hạn cho vay cũng giống như cho vay trung hạn
nhưng về mặt thời gian từ 60 tháng trở lên và không được quá thời hạn còn lại theo
quyết định thành lập hoặc giấy phép thành lập đối với pháp nhân, không quá 15 năm
đối với các dự án đầu tư phục vụ đời sống.
* Mức cho vay
Tổ chức tín dụng căn cứ vào nhu cầu vay vốn của khách hàng, quy định của
Chính phủ tại Nghị định số 178 về mức cho vay với giá trị tài sản bảo đảm, khả năng
hoàn trả nợ của khách hàng vay vốn và khả năng nguồn vốn của mình để quyết định
mức cho vay.
Tổng dư nợ cho vay của một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có
của tổ chức tín dụng, trừ trường hợp đối với những khoản vay từ nguồn vốn uỷ thác của
Chính phủ, của các tổ chức, cá nhân hoặc trường hợp vay là các tổ chức tín dụng. Đối
với các đối tượng hạn chế cho vay thì tổng dư nợ cho vay không được vượt quá 5% vốn
tự có của tổ chức tín dụng.
 Bước 4: Đàm phán các điều khoản của HĐTD và ký kết HĐ
Đây là giai đoạn quan trọng nhất của quá trình giao kết HĐTD. Trong giai đoạn
này, các bên trực tiếp gặp nhau để thỏa thuận các điều khoản của HĐTD. Trên cơ sở

xem xét đánh giá kỹ lưỡng hồ sơ vay vốn và thẩm định các yếu tố cần thiết, cán bộ tín
dụng sẽ xét duyệt cho vay và hình thành hợp đồng tín dụng. Hợp đồng tín dụng phải có
đầy đủ nội dung về điều kiện vay, mục đích sử dụng tiền vay, hình thức vay, số tiền vay,
lãi suất, thời hạn vay, hình thức bảo đảm, giá trị tài sản bảo đảm, phương thức trả nợ và
các cam kết khác được các bên thoả thuận. Giai đoạn này kết thúc bằng việc các bên
cùng chính thức ký tên vào bản hợp đồng.
Sau khi HĐTD được ký kết, các bên có nghĩa vụ thực hiện hợp đồng. Đây là quá
trình làm cho cam kết trong HĐTD trở thành hiện thực thông qua hành vi của các bên.
Sau khi đã cho khách hàng vay vốn, TCTD thường xuyên kiểm tra, giám sát quá trình
sử dụng vốn vay và trả nợ của khách hàng.
Trong thực tiễn giao dịch tín dụng ở nước ta, việc ký kết hợp đồng tín dụng giữa
TCTD với khách hàng thường được thực hiện bằng phương thức “gia nhập”, nghĩa là
một bên (thường là TCTD) đưa ra hợp đồng mẫu với các điều khoản chủ yếu, còn bên
kia (khách hàng) chỉ cần xem xét các điều khoản đó để chấp nhận gia nhập hợp đồng,
kể từ khi các bên đã ký đầy đủ vào hợp đồng tín dụng thì hợp đồng tín dụng mới chính
thức được xác lập.
2.3. Vai trò của hợp đồng tín dụng
Trước hết, hợp đồng tín dụng cũng có vai trò như các loại hợp đồng kinh doanh
thương mại khác, là bằng chứng cho việc khách hàng và TCTD thực hiện một giao dịch
cho vay một khoản tiền nhất định. Đó là căn cứ để thực hiện quyền và nghĩa vụ của các
bên và giải quyết tranh chấp phát sinh giữa các bên.
Thứ hai, đối với TCTD, hợp đồng tín dụng là công cụ để quản lý khách hàng vay
sau khi cho vay, nhằm giám sát khách hàng vay, đôn đốc khách hàng vay trả nợ và lãi
đúng kỳ hạn. Hợp đồng tín dụng thường được soạn sẵn thành mẫu dựa trên những quy
định pháp luật và dựa vào đặc điểm riêng của TCTD, khách hàng vay phải đồng ý với
những điều khoản có trong hợp đồng tín dụng thì mới được vay vốn. Chính vì thế hợp
đồng tín dụng còn thể hiện một vai trò khuyến khích khách hàng ký kết các hợp đồng
tín dụng nếu TCTD đưa ra những điều khoản hợp lý và dễ hiểu đối với khách hàng.
Đối với khách hàng vay, hợp đồng tín dụng thể hiện rằng họ đã đến và vay vốn
tại TCTD, những cam kết của họ sẽ được nêu trong hợp đồng về việc thực hiện quyền,

nghĩa vụ của họ và giải quyết tranh chấp về hợp đồng tín dụng.
II. CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM TIỀN VAY
1. Hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động bảo đảm tiền vay
1.1. Sự phát triển của pháp luật về bảo đảm tiền vay
1.1.1. Giai đoạn trước năm 2005
Trước khi Bộ luật dân sự năm 2005 có hiệu lực, pháp luật Việt Nam phân chia
hợp đồng dân sự và hợp đồng kinh tế thành hai chế định hoàn toàn độc lập. Theo đó,
pháp luật về giao dịch bảo đảm cũng có sự phân chia tương ứng. Hệ quả là các giao
dịch bảo đảm trong lĩnh vực dân sự chịu sự điều chỉnh của Bộ luật dân sự năm 1995 và
các văn bản hướng dẫn thi hành. Còn các giao dịch bảo đảm trong lĩnh vực kinh tế thì
chịu sự điều chỉnh trước hết của Pháp lệnh hợp đồng kinh tế 1989 và các văn bản
hướng dẫn thi hành.
Bảng so sánh các giao dịch bảo đảm trong Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm
1989 và Bộ luật dân sự năm 1995 dưới đây cho thấy sự khác biệt trước hết về số lượng
các giao dịch bảo đảm trong lĩnh vực dân sự và kinh tế, cụ thể như sau:
Bảng 1.1. So sánh gữa các giao dịch bảo đảm trong Pháp lệnh hợp đồng kinh tế
1989 và Bộ luật dân sự 1995
LOẠI BIỆN PHÁP
BẢO ĐẢM
BỘ LUẬT DÂN SỰ PHÁP LỆNH HỢP ĐỒNG
KINH TẾ
Có/Khôn
g
Số điều Có/Không Số điều
Thế chấp Có 16 Có 1
Cầm cố Có 16 Có 1
Bảo lãnh Có 9 Có 1
Ký cược Có 1 Không
Đặt cọc Có 2 Không
Ký quỹ Có 1 Không

Tín chấp Có 1 Không
Phạt vi phạm Có 3 Có 1
Ngoài ra, việc áp dụng các quy định về giao dịch bảo đảm không thống nhất, gây
khó khăn cho các tổ chức, cá nhân trong xã hội do có sự khhác biệt trong các quy định của
pháp luật.Ví dụ, theo quy định của Pháp lệnh hợp đồng kinh tế, bên cầm cố bắt buộc phải
giao tài sản cầm cố cho bên nhận cầm cố. Trong khi đó, Bộ luật dân sự quy định bên cầm
cố vẫn có quyền được giữ tài sản cầm cố hoặc theo quy định của Pháp lệnh hợp đồng kinh
tế, thì hợp đồng cầm cố bắt buộc phải có chứng nhận của công chứng nhà nước những theo
quy định của Bộ luật dân sự thì lại không bắt buộc.v.v... Ngoài ra, pháp luật Việt Nam có sự
phân biệt giữa cho vay có bảo đảm trong lĩnh vực ngân hàng với cho vay có bảo đảm trong
đời sống dân sự. Theo đó, chủ nợ có bảo đảm là ngân hàng được hưởng nhiều quyền lợi
hơn so với các chủ nợ có bảo đảm khác như: quyền xử lý tài sản bảo đảm, quyền yêu cầu
cơ quan nhà nước có thẩm quyền hỗ trợ.v.v... Điều này là không phù hợp, vi phạm nguyên
tắc đối xử bình đẳng giữa các chủ thể bình đẳng về địa vị pháp lý.
1.1.2. Giai đoạn sau năm 2005
Bộ luật dân sự năm 2005 ra đời đã bãi bỏ hiệu lực của Pháp lệnh Hợp đồng kinh
tế. Do đó, kể từ ngày 01/01/2006, về mặt pháp lý, các giao dịch dân sự nói chung và
giao dịch bảo đảm nói riêng được xác lập giữa các doanh nghiệp với nhau để phục vụ
hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp hay được xác lập giữa cá nhân với
nhau để phục vụ nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng đều được điều chỉnh dựa trên những
nguyên tắc của chế định nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân sự trong Bộ luật dân sự năm
2005. Theo đó, các quy định của Bộ luật dân sự được áp dụng chung cho các quan hệ
dân sự và là cơ sở pháp lý được cụ thể hoá trong các văn bản quy phạm pháp luật thuộc
lĩnh vực dân sự, hôn nhân, gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động. Pháp luật
chuyên ngành phải đảm bảo tính thống nhất với các quy định của Bộ luật dân sự. Với
việc thống nhất pháp luật về nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân sự, trong đó có các giao
dịch bảo đảm và bãi bỏ Pháp lệnh về hợp đồng kinh tế dẫn đến trong trường hợp các
văn bản pháp luật chuyên ngành, ví dụ về đất đai, thương mại không có quy định thì áp
dụng các quy định tương ứng trong Bộ luật dân sự 2005. Cụ thể hoá quy định của Bộ
luật dân sự năm 2005, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày

29/12/2006 về giao dịch bảo đảm, đồng thời bãi bỏ Nghị định số 178/1999/NĐ-CP ngày
29 tháng 12 năm 1999 của Chính phủ về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng và
Nghị định số 85/2002/NĐ-CP ngày 25 tháng 10 năm 2002 của Chính phủ về sửa đổi, bổ
sung Nghị định số 178/1999/NĐ-CP.
Do vậy, một trong những kết quả quan trọng mà Việt Nam đạt được trong tiến
trình cải cách khuôn khổ pháp luật là điều chỉnh và áp dụng thống nhất các quy định
của pháp luật về giao dịch bảo đảm, không có sự phân biệt bên nhận bảo đảm là tổ chức
tín dụng hay tổ chức, cá nhân khác (loại bỏ những trách nhiệm hay đặc quyền chỉ áp
dụng riêng đối với tổ chức tín dụng). Ví dụ quy định về điều kiện, thủ tục nhận bảo
đảm bằng tài sản; xác định giá trị tài sản bảo đảm tiền vay và hỗ trợ trong việc thu giữ
tài sản bảo đảm.
1.2. Hệ thống văn bản hiện hành
- Bộ luật Dân sự 2005.
- Luật các tổ chức tín dụng 1997, đã sửa đổi bổ xung năm 2004
- Luật Ngân hàng Nhà nước 1997, đã sửa đổi, bổ sung 2003.
- Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN của Thống đốc Ngân hàng nhà nước ngày 31 tháng
12 năm 2001 ban hành quy chế cho vay của TCTD đối với khách hàng (đã được sửa đổi
bởi các quyết định số 127/2005 và quyết định số 783/2005 của Thống đốc Ngân hàng
nhà nước).
- Nghị định số 08/2000/NĐ-CP ngày 10/3/2000 quy định về công chứng chứng thực.
- Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 về giao dịch bảo đảm.
2. Khái niệm và vai trò của bảo đảm tiền vay
2.1. Khái niệm bảo đảm tiền vay
Bảo đảm tiền vay là việc TCTD thoả thuận trên cơ sở hợp đồng với bên bảo đảm
về việc áp dụng các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ vay của khách hàng
vay. Còn bảo đảm tiền vay bằng tài sản là biện pháp bảo đảm tiền vay, theo đó nghĩa vụ
trả nợ của khách hàng vay được cam kết bảo đảm thực hiện bằng tài sản cầm cố, thế
chấp, đặt cọc, ký cược, ký quỹ. Trong trường hợp khách hàng vi phạm nghĩa vụ trả nợ
thì tài sản bảo đảm tiền vay sẽ được xử lý để thu hồi nợ cho TCTD.
Bảo đảm tiền vay còn được hiểu là sự thoả thuận của các bên nhằm đưa ra các

biện pháp tác động mang tính chất dự phòng, bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ trả
nợ vay. Đồng thời, ngăn ngừa và khắc phục những hậu quả xấu do việc bên vay không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ gây ra đối với tổ chức tín dụng
cho vay. Giao dịch bảo đảm tiền vay được thiết lập trên cơ sở hợp đồng, các bên chủ
thể có quyền tự nguyện cam kết, thoả thuận về quyền và nghĩa vụ của mình.
Bảo đảm tiền vay cũng là những quy định của pháp luật về việc thực hiện các
biện pháp bảo đảm được pháp luật quy định tại khoản 1 Điều 318 Bộ luật Dân sự 2005.
Theo đó, cho phép các chủ thể trong giao dịch bảo đảm tiền vay áp dụng các biện pháp
bảo đảm nhất định để bảo đảm cho nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng tín dụng được thực
hiện. Đồng thời, xác định và đảm bảo các quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên trong
biện pháp đó.
Trong quan hệ bảo đảm tiền vay, bên nhận bảo đảm là bên có quyền trong quan
hệ dân sự mà việc thực hiện quyền đó được bảo đảm bằng một hoặc nhiều giao dịch

×