Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

Thủ tục xét hỏi tại phiên toà hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (724.47 KB, 73 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

PHẠM ĐÌNH THANH

THỦ TỤC XÉT HỎI TẠI PHIÊN TỊA HÌNH SỰ
CHUN NGÀNH: LUẬT HÌNH SỰ
MÃ SỐ: 60 38 40

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN:
TS NGUYỄN VĂN TUÂN

HÀ NỘI 2011


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa
học của riêng tơi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn
đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận
khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
cơng trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Phạm Đình Thanh




DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS

: Bộ luật hình sự

BLTTHS

: Bộ luật tố tụng hình sự.

HĐXX

: Hội đồng xét xử

TTHS

: Tố tụng hình sự

VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao


MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
PHẦN MỞ ĐẦU……………………………………………….…………..……1
PHẦN NỘI DUNG………………………………..……………………………..6
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ XÉT HỎI TẠI PHIÊN TỊA HÌNH SỰ…..6
1.1. Khái niệm và ý nghĩa của xét hỏi tại phiên tịa hình sự…………………….6
1.1.1. Khái niệm của việc xét hỏi tại phiên tịa hình sự………………………….6

1.1.2. Ý nghĩa của xét hỏi tại phiên tịa hình sự………………………………...10
1.2. Mối quan hệ giữa thủ tục xét hỏi với các thủ tục khác của phiên tịa hình
sự………………………………………………………………………………..11
1.3. Xét hỏi tại phiên tịa hình sự theo mơ hình tố tụng thẩm vấn và mơ hình tố
tụng tranh tụng.....................................................................................................14
CHƢƠNG 2
QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2003 VỀ XÉT
HỎI TẠI PHIÊN TỒ HÌNH SỰ……………………………………………19
2.1. Một số nguyên tắc cơ bản của việc xét hỏi tại phiên tịa hình sự………….19
2.2. Những quy định về xét hỏi tại phiên tịa hình sự theo Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003………………………………………………………………………..24
CHƢƠNG 3
THỰC TIỄN THI HÀNH CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH
SỰ NĂM 2003 VỀ THỦ TỤC XÉT HỎI TẠI PHIÊN TỊA HÌNH SỰ VÀ MỘT
SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG XÉT HỎI TẠI PHIÊN
TỊA HÌNH SỰ…………………………………………………………………....43
3.1. Thực tiễn thi hành các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về thủ
tục xét hỏi tại phiên tòa hình sự…………………………………………….......43


3.2. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động xét hỏi tại phiên tồ hình
sự………………………………………………………………………………..53
PHẦN KẾT LUẬN ………………………..……………..…………...…….…63
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Xét xử vụ án hình sự là giai đoạn quan trọng nhất của hoạt động TTHS bởi đó là
nơi phản ánh một cách đầy đủ, sâu sắc nhất bản chất của một nền công lý và biểu hiện
tập trung của quyền tư pháp. Tại phiên tòa, mọi tài liệu và chứng cứ của vụ án do Cơ
quan điều tra, Viện kiểm sát truy tố thu thập được xem xét, đánh giá công khai, khách
quan và toàn diện với sự tham gia đầy đủ của các chủ thể (những người tiến hành tố
tụng và những người tham gia tố tụng). Đặc biệt tại phiên tòa, họ được nghe trực tiếp
lời khai của nhau, được chất vấn và tranh luận để tìm ra sự thật khách quan của vụ án.
Trên cơ sở đó, Tịa án ra bản án khẳng định bị cáo có phạm tội hay khơng; nếu có tội
thì cần áp dụng hình phạt gì với bị cáo cũng như giải quyết những vấn đề khác liên
quan đến quyền và nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng.
Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm
vụ trọng tâm cơng tác Tư pháp trong thời gian tới có xác định: “Khi xét xử, các tòa án
phải bảo đảm cho mọi cơng dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự khách
quan…phán quyết của tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên
tòa….” Đã hơn chín năm thực hiện Nghị quyết nêu trên, đã và đang thu được những
chuyển biến tích cực trong hoạt động lập pháp về hình sự và hoạt động xét xử của Tòa
án và các cơ quan tố tụng khác. Ban hành BLTTHS năm 2003 thay thế BLTTHS năm
1998 được đánh giá là kết quả tích cực nhất của cơng việc này: các phiên tịa thể hiện
tính dân chủ và khách quan hơn…
Tuy nhiên, trong thực tiễn xét xử các vụ án hình sự cịn bộc lộ những hạn chế
nhất định, khi mà BLTTHS chưa quy định rành mạch nhiệm vụ các chủ thể tiến hành
tố tụng tại phiên tòa phù hợp với các chức năng tố tụng của nó. Chính vì vậy, có chủ
thể tiến hành tố tụng đã q thụ động khi thực hiện cơng việc của mình, có chủ thể lại
thực hiện nhiệm vụ của chủ thể khác, làm cho tính dân chủ và khách quan bị hạn chế,
chưa thể hiển rõ tính tranh tụng tại phiên tòa. Nhiệm vụ cải cách tư pháp đang được


2

Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm trong tình hình hiện nay. Vì vậy, ngày 02 tháng

6 năm 2005 Bộ chính trị đã ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW về Chiến lượt cải cách
tư pháp đến năm 2020, trong đó xác định mục tiêu của “hoạt động tư pháp mà trọng
tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao”. Nghị quyết cũng
đưa ra phương hướng trong thời gian tới là: “Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử,
xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người
tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính cơng khai, dân chủ và nghiêm minh; nâng
cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt
động tư pháp”. Thủ tục xét hỏi tại phiên tòa là khâu trung tâm, quan trọng nhất trong
giai đoạn xét xử. Hoàn thiện thủ tục này là một trong những nội dung của việc nâng
cao chất lượng phiên tịa hình sự mang tính dân chủ, khách quan và cơng bằng.
Đó cũng chính là lý do thúc đẩy người viết lựa chọn đề tài “Thủ tục xét hỏi tại
phiên tịa hình sự” làm luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay ở nước ta, chưa có một đề tài hay cơng trình khoa học nào nghiên
cứu một cách cụ thể, có hệ thống về thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự. Có một số bài
viết trên các tạp chí, kỷ yếu và luận văn Thạc sĩ luật học của một số tác giả đã có đưa
ra một số nhận xét về thủ tục này ở các mức độ khác nhau. Nhưng các tác giả của các
cơng trình, bài viết đó chỉ đưa ra hoặc chỉ ra một vài hạn chế từ việc thực hiện thủ tục
xét hỏi tại phiên tịa hình sự theo quy định của BLTTHS hiện hành và có những ý kiến
mang tính gợi mở nhưng chưa làm rõ được bản chất của thủ tục xét hỏi tại phiên tịa
hình sự theo tinh thần cải cách tư pháp của nhà nước ta.
Có thể xem luận văn này là chuyên khảo đầu tiên nghiên cứu một cách hệ thống
về thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu đề tài là làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của thủ tục xét
hỏi tại phiên tịa hình sự ở nước ta; từ đó đề xuất một số kiến nghị mang tính giải pháp


3


nhằm khắc phục những hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn thủ tục xét hỏi tại phiên tịa
hình sự và nâng cao hiệu quả của nó trong hoạt động xét xử vụ án hình sự.
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, những nhiệm vụ nghiên cứu được đặt ra
cho luận văn là:
- Làm rõ khái niệm xét hỏi tại phiên tịa hình sự; khẳng định ý nghĩa, u cầu
của việc xét hỏi tại phiên tịa trong q trình xác định sự thật khách quan của vụ án.
- Nghiên cứu các cơ sở khoa học của việc quy định thủ tục xét hỏi tại phiên tịa
hình sự cũng như những quy định của pháp luật hiện hành về thủ tục này. Từ đó đưa ra
một số ý kiến đóng góp về xây dựng pháp luật, những yêu cầu về nhận thức của những
người tham gia tiến hành tố tụng nhằm đảm bảo có những phiên tịa thật sự dân chủ,
cơng bằng, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng
đó.
4. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề chung về xét hỏi tại phiên tịa hình sự; pháp luật
TTHS của Việt Nam và một số nước về thủ tục xét hỏi; thực tiễn thi hành các quy định
của pháp luật TTHS về thủ tục xét hỏi ở Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu toàn diện các vấn đề lý luận và
thực tiễn của thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thẩm và phúc thẩm. Cụ thể tập
chung vào các vấn đề như sau:
- Những vấn đề chung về xét hỏi tại phiên tịa hình sự.
- Những quy định của BLTTHS năm 2003 ở Việt Nam và một số nước trên thế
giới như Trung Quốc, Liên bang Nga, Thái Lan…. về thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình
sự nhằm làm rõ và tham khảo.
- Nghiên cứu thủ tục xét hỏi của hai hệ thống pháp luật lớn trên thế giới là hệ
thống luật Châu Âu lục địa và hệ thống luật án lệ để xác định mơ hình tố tụng của Việt
Nam.


4


- Thực tiễn các hoạt động TTHS của những người tiến hành tố tụng và những
người tham gia tố tụng trong q trình xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thẩm và phúc
thẩm.
Trong các giải pháp nâng cao hiệu qủa xét hỏi, luận văn tập trung nghiên cứu
giải pháp hoàn thiện pháp luật TTHS về thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện nghiên cứu có kết quả đề tài này, luận văn đã vận dụng các phương
pháp sau đây:
- Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Với phương pháp này,
luận văn được xem xét trong sự vận động và phát triển, các quan điểm của Đảng về
Nhà nước và pháp luật, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề cải cách tư pháp, về quyền
con người và quyền công dân trong xã hội; đồng thời tác giả luận văn cũng đã có sự
tham khảo, kế thừa một cách chọn lọc các cơng trình nghiên cứu của các nhà khoa học,
nhà luật học cũng như các bài viết của các thầy cô giáo và các bạn sinh viên nhằm đưa
ra những nhận định chính xác và logic nhất.
- Các phương pháp khác như: phân tích, tổng hợp, so sánh, diễn giải, suy luận
logic, kết hợp giữa lý luận với thực tiễn được áp dụng nhằm làm sáng tỏ những vấn đề
cần nghiên cứu.
6. Những đóng góp mới của Luận văn về khoa học và thực tiễn
Luận văn là cơng trình nghiên cứu khoa học, có tính hệ thống và tương đối toàn
diện về thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thẩm và phúc thẩm.
Trong nội dung của luận văn có những điểm mới như sau:
- Luận văn đã làm rõ khái niệm và ý nghĩa của việc xét hỏi tại phiên tịa hình sự;
mối quan hệ giữa thủ tục xét hỏi với các thủ tục khác trong phiên tịa hình sự (thủ tục
bắt đầu phiên tòa, thủ tục tranh luận và thủ tục nghị án và tuyên án). So sánh thủ tục
xét hỏi tại phiên tịa hình sự ở hai hệ thống pháp luật đặc trưng là hệ thống luật Châu


5


Âu lục địa và hệ thống luật án lệ. Làm rõ một số nguyên tắc liên quan đến việc xét hỏi
tại phiên tịa hình sự.
- Phân tích có hệ thống các quy định của pháp luật hiện hành liên quan đến thủ
tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự sơ thẩm và phúc thẩm và thực tiễn áp dụng pháp luật
vào thủ tục xét hỏi tại phiên tòa trong những năm gần đây; xác định những bất cập và
hạn chế trong các quy định của pháp luật về thủ tục xét hỏi cần phải được hoàn thiện,
những vướng mắc trong việc thi hành pháp luật cần phải được khắc phục và xác định
rõ ngun nhân của tình trạng đó.
- Luận văn đã đưa ra một số giải pháp sửa đổi, bổ sung một số điều của
BLTTHS năm 2003 nhằm hoàn thiện những quy định về thủ tục xét hỏi tại phiên tịa
hình sự trong luật TTHS Việt Nam và một số giải pháp khác nhằm đảm bảo việc nâng
cao hiệu quả xét hỏi tại phiên tịa hình sự. Những giải pháp mà luận văn đưa ra hoàn
toàn dựa vào cơ sở khoa học nhằm góp phần giải quyết những bất cập, hạn chế hiện
nay và nâng cao hiệu quả xét hỏi tại phiên tịa hình sự.
7. Cơ cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được cơ
cấu gồm có ba chương:
Chƣơng 1: Những vấn đề chung về xét hỏi tại phiên tịa hình sự.
Chƣơng 2: Quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về xét hỏi tại phiên tịa
hình sự.
Chƣơng 3: Thực tiễn thi hành các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về
thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự và một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động
xét hỏi tại phiên tịa hình sự.


6

Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ XÉT HỎI TẠI PHIÊN TỊA HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm và ý nghĩa của xét hỏi tại phiên tịa hình sự

1.1.1. Khái niệm của việc xét hỏi tại phiên tịa hình sự
Xét hỏi được giải thích trong Từ điển Tiếng Việt là một động từ chỉ việc “(nhà
chức trách) hỏi kỹ trực tiếp để phát hiện hành vi phạm pháp hoặc tìm kiếm sự thật về
một vụ án” [41, tr.937]. Như vậy về mặt ngôn ngữ, xét hỏi luôn được hiểu là một động
từ chỉ hành động của một người (nhà chức trách) làm rõ một sự việc bằng cách đặt câu
hỏi trực tiếp cho người khác.
Khái niệm xét hỏi trong tố tụng hình sự có thể hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau:
hoạt động xét hỏi, một thủ tục trong quá trình xét xử (thủ tục xét hỏi), một loại hình tố
tụng (tố tụng xét hỏi).
- Theo nghĩa thứ nhất: Xét hỏi là hoạt động của một chủ thể. Cần phải có sự
phân biệt thuật ngữ xét hỏi với thuật ngữ thẩm vấn. Theo giải thích của Từ điển Tiếng
Việt thì thẩm vấn là động từ có nghĩa “xét hỏi trong vụ án” [41, tr.750]. Như vậy khi
nói đến thẩm vấn bao giờ cũng là hoạt động gắn liền với hoạt động tố tụng và về bản
chất của hoạt động nó chính là xét hỏi. Tuy nhiên hiện nay, có quan điểm cho rằng khái
niệm xét hỏi “thiên về phạm trù nghề nghiệp điều tra của cơ quan điều tra. Cho nên
thuật ngữ xét hỏi dành cho các giai đoạn điều tra, truy tố có lẽ thích hợp hơn so với giai
đoạn tố tụng ở phiên tòa.” [19, tr.19]. Những người theo quan điểm này cũng cho rằng:
hoạt động xét hỏi tại tòa phải được hiểu là thẩm vấn vì trước tiên “nó mang tính truyền
thống. Các cơ quan bảo vệ pháp pháp luật cũng như mọi người dân quen dùng thuật
ngữ thẩm vấn” [19, tr.19]. Hiểu theo quan điểm này, xét hỏi được hiểu với nghĩa là một
động từ chỉ hoạt động khơng có tính cơng khai và thường phải giữ bí mật; cịn thẩm
vấn là hoạt động mang tính tập thể, cơng khai và trực tiếp.


7

Chúng tôi cho rằng, nếu hiểu xét hỏi như vậy vơ hình chung đã gán cho khái
niệm xét hỏi những đặc điểm khơng phải vốn có của nó, đồng thời làm hẹp phạm vi
của khái niệm. Mặt khác thẩm vấn là từ Hán, khơng nên sử dụng vì chúng ta có thể
thay bằng từ thuần Việt cũng thể hiện được đầy đủ nội dung, đặc điểm của nó.

Theo nghĩa thứ nhất xét hỏi trong tố tụng hình sự có những đặc điểm như sau:
Một là chủ thể tiến hành xét hỏi: Là những người tiến hành tố tụng theo quy
định của pháp luật có quyền xét hỏi một đối tượng nhất định (Điều tra viên hỏi cung bị
can, HĐXX hỏi bị cáo).
Hai là mục đích của việc xét hỏi nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án.
Ba là hoạt động xét hỏi có thể tiến hành ở những giai đoạn khác nhau của vụ án
theo quy định của pháp luật.
- Theo nghĩa thứ hai: Xét hỏi là một loại hình tố tụng (tố tụng xét hỏi). Theo
nghĩa này nó có những đặc điểm khác biệt với loại hình tố tụng tranh tụng (một loại
hình được áp dụng chủ yếu ở các nước theo truyền thống án lệ). “Tố tụng xét hỏi với
đặc trưng là vai trị tích cực, chủ động của thẩm phán trong việc xác định sự thật và bảo
vệ pháp chế” [23, tr.19] khác hẳn với “tố tụng tranh tụng với đặc trưng là các bên chủ
động và tự quyết định đưa ra yêu cầu, chứng cứ và lý lẽ để bảo vệ những quyền và lợi
ích của mình. Tịa án chỉ có vai trị thụ động, chỉ là trọng tài giữa các bên” [23, tr.19].
Loại hình tố tụng nào được nhiều người cho là phù hợp trong giai đoạn hiện nay đang
là vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm trong quá trình cải cách tư pháp.
- Theo nghĩa thứ ba: Xét hỏi được hiểu là một thủ tục trong quá trình xét xử.
Xét hỏi có thời điểm bắt đầu sau khi đại diện Viện kiểm sát đọc bản cáo trạng (thực
hiện quyền công tố). Thủ tục này nhằm xem xét các tình tiết của vụ án một cách đầy đủ,
cơng khai, chính xác bằng cách hỏi trực tiếp bị cáo và những người tham gia tố tụng,
kiểm tra vật chứng và các tài liệu khác của vụ án một cách công khai tại phiên tịa.
Việc xét hỏi tại phiên tịa khơng phải là buộc bị cáo xác nhận những lời họ đã khai tại
cơ quan điều tra mà phải hiểu đó chính là hoạt động điều tra của Tịa án thơng qua hoạt


8

động xét hỏi. Các chứng cứ mà được Tòa án dùng để kết luận về vụ án phải là những
chứng cứ đã được đưa ra xem xét thông qua thủ tục xét hỏi. Xét hỏi chính là bước tạo
tiền đề cho quá trình tranh luận đạt hiệu quả và nhanh chóng tiến tới việc xác định sự

thật của vụ án.
Chính vì xét hỏi có thể được hiểu theo nhiều nghĩa như vậy, nên trong quá trình
nghiên cứu xây dựng pháp luật cũng như áp dụng pháp luật cần phải có sự phân biệt rõ
ràng khi sử dụng thuật ngữ xét hỏi ở từng trường hợp cụ thể, tránh việc hiểu khái niệm
một cách khơng đầy đủ và khơng chính xác làm giảm hiệu quả các quy định của pháp
luật.
Trong luận văn này, chúng tôi tiếp cận khái niệm xét hỏi trong tố tụng hình sự
dưới gốc độ là một thủ tục trong quá trình xét xử ( hiểu theo nghĩa thứ ba). Bởi vì thủ
tục này phải được tiến hành thơng qua chính những hoạt động xét hỏi cơng khai do các
chủ thể theo quy định của pháp luật thực hiện. Theo Từ điển Tiếng Việt: “Thủ tục là
những việc cụ thể phải làm theo một trật tự quy định để tiến hành một cơng việc có tính
chất hình thức” [41, tr.781]
Hiểu theo nghĩa thứ ba, xét hỏi là một thủ tục trong q trình xét xử có những
đặc điểm như sau:
- Chủ thể tiến hành xét hỏi tại phiên tòa gồm HĐXX,

iểm sát viên, người bào

chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự, người giám định. Tuy nhiên, do chức năng
và tư cách tham gia tố tụng tại phiên tòa của các chủ thể này khác nhau nên phạm vi
nội dung xét hỏi cũng khác nhau (Điều 207 BLTTHS).
- Nội dung của thủ tục bao gồm:
+ Kiểm sát viên đại diện cho Viện kiểm sát công bố nội dung cáo trạng và trình bày ý
kiến bổ sung, nếu có (Điều 206 BLTTHS).
+ Phạm vi nội dung xét hỏi và thứ tự xét hỏi (khoản 1 Điều 207 BLTTHS)
+ Trình tự tiến hành xét hỏi: Xem xét và kiểm tra trực tiếp các chứng cứ của vụ án
trong điều kiện cơng khai, bằng lời nói và liên tục (khoản 2 Điều 207 BLTTHS).


9


+ Công bố lời khai tại cơ quan điều tra. Theo khoản 2 Điều 208 BLTTHS, chỉ được
công bố lời khai của người được xét hỏi tại Cơ quan điều tra trong các trường hợp sau:
* Lời khai tại phiên tịa của người được xét hỏi có mâu thuẫn với lời khai của
chính họ tại Cơ quan điều tra;
* Người được xét hỏi không trả lời các câu hỏi được đưa ra tại phiên tòa;
* Người được xét hỏi vắng mặt tại phiên tòa hoặc đã chết.
+ Xem xét vật chứng và xem xét tại chỗ (Điều 212, Điều 213 BLTTHS).
- Thời điểm thực hiện thủ tục là sau khi kết thúc phần thủ tục bắt đầu phiên tòa.
Mọi vấn đề thuộc về xác định lời khai, các tài liệu và chứng cứ khác có phải là chứng
cứ của vụ án hay khơng, xác định tính hợp pháp và có căn cứ của các chứng cứ đều
được thực hiện trong thủ tục này. Các thủ tục sau đó đều phải dựa vào kết quả của thủ
tục xét hỏi để thực hiện.
- Mục đích của thủ tục xét hỏi là tái hiện, củng cố và khẳng định những sự kiện,
tình tiết của vụ án một cách đầy đủ và toàn diện nhất. Trên cơ sở đó hình thành những
thơng tin chính xác giúp cho việc tranh luận, nghị án và tuyên án được chính xác hơn.
Mặc dù việc xét hỏi là dựa vào kết quả của giai đoạn điều tra nhưng các kết quả của
giai đoạn điều tra phải được thẩm tra cơng khai lại trong thủ tục này thì mới có thể
được thừa nhận chính thức có là chứng cứ của vụ án hay không. Tuy nhiên, so với các
thủ tục tranh luận, nghị án và tuyên án thì các thủ tục sau đó lại hồn tồn dựa vào kết
quả của thủ tục xét hỏi, nên khi tranh luận, nghị án có vấn đề nào đó cần xem xét mà
chưa được làm rõ tại thủ tục xét hỏi thì HĐXX phải quay trở lại phần xét hỏi. Trong
phiên tịa hình sự, thủ tục xét hỏi là trung tâm của toàn bộ phiên tịa, việc giải quyết vụ
án có tốt hay khơng là do thủ tục này quyết định.
Tóm lại: Xét hỏi tại phiên tịa hình sự là một thủ tục xét hỏi do HĐXX, Kiểm sát
viên và những người khác theo quy định của pháp luật thực hiện tại phiên tịa hình sự
bằng cách hỏi trực tiếp bị cáo và những người tham gia tố tụng khác và bằng một số


10


hoạt động cần thiết khác nhằm thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ một cách cơng
khai nhằm góp phần vào việc xác định sự thật của vụ án.
1.1.2. Ý nghĩa của xét hỏi tại phiên tịa hình sự
- Ý nghĩa chính trị và xã hội: Điều 10 Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền đã
khẳng định “Mọi người đều được hưởng quyền bình đẳng, được xem xét cơng bằng và
cơng khai bởi một Tịa án độc lập và không thiên vị trong việc quyết định các quyền và
nghĩa vụ của họ”. Điều này một lần nữa được nhắc lại trong Điều 6, Công ước Châu
Âu về quyền con người: “Mọi người đều có quyền được xét xử cơng bằng và công khai
trong thời gian hợp lý bởi một Tịa án độc lập khơng thiên vị được thành lập theo pháp
luật”. Vì vậy, bình đẳng, cơng bằng là yếu tố quan trọng nhất và là hạt nhân của hoạt
động xét xử. Các quốc gia trên thế giới dù là chế độ xã hội nào đều đề cập trong pháp
luật của mình sự bình đẳng, cơng bằng và được thể hiện một cách rõ nét nhất tại phiên
tòa xét xử hình sự - nơi tiến hành các thủ tục tố tụng một cách cơng khai để xác định
một người có phạm tội hay khơng. Qua đó nhằm đảm bảo đường lối chủ trương của
Đảng; đáp ứng yêu cầu của Nhà nước pháp quyền.
Vấn đề quyền con người, quyền công dân là một nội dung cơ bản trong Hiến
pháp 1992, thể hiện một cách nhìn mới khi xác định địa vị pháp lý của công dân. Lần
đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam quyền con người đã được chính thức ghi nhận
tại Điều 50 của Hiến pháp 1992: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các
quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tơn trọng, thể
hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và pháp luật”. Việc quy
định trình tự, thủ tục xét xử tại phiên tịa hình sự một cách cơng khai để xác định sự
thật của vụ án hình sự thơng qua xét hỏi chính là bảo vệ các quyền cơ bản của con
người đã nói ở trên cũng nhằm mục đích đảm bảo cơng bằng xã hội, lịng tin vào tòa án
(độc lập) và ổn định trật tự xã hội.
- Ý nghĩa pháp lý: Trong quá trình xét xử tại phiên tòa, xét hỏi là giai đoạn trung
tâm của hoạt động xét xử và cũng là giai đoạn quan trọng nhất để xác định sự thật của



11

vụ án. Đây là cuộc điều tra công khai được thực hiện qua việc xét hỏi bị cáo và những
người tham gia tố tụng, xem xét vật chứng, các tài liệu nhằm kiểm tra các chứng cứ và
làm sáng tỏ mọi tình tiết của vụ án. Trên cơ sở đó HĐXX xác định có tội phạm xảy ra
hay khơng, có đúng bị cáo là người thực hiện hành vi phạm tội hay khơng; nếu bị cáo
phạm tội thì phạm tội gì, động cơ, mục đích, ngun nhân và điều kiện phạm tội;
những thiệt hại xảy ra để từ đó có các quyết định đúng đắn về vụ án. Kết quả của xét
hỏi là căn cứ quan trọng cho việc ra bản án, quyết định.
1.2. Mối quan hệ giữa thủ tục xét hỏi với các thủ tục khác của phiên tịa
hình sự.
- Mối quan hệ giữa thủ tục xét hỏi với các thủ tục khác của phiên tịa hình sự
sơ thẩm.
+ Mối quan hệ giữa thủ tục xét hỏi với thủ tục bắt đầu phiên tòa:
Thủ tục bắt đầu phiên tòa hình sự sơ thẩm được quy định từ Điều 201 đến Điều
205 của BLTTHS. Đây chủ yếu là hoạt động của Thẩm phán - Chủ tọa phiên tòa sau
khi nghe thư ký báo cáo danh sách những người được triệu tập đã có mặt. Chủ tọa
phiên tịa kiểm tra căn cước của những người đó và giải thích cho họ biết quyền và
nghĩa vụ của họ tại phiên tòa, giải quyết yêu cầu thay đổi những người tiến hành tố
tụng, giải quyết những yêu cầu về xem xét vật chứng và hỗn phiên tịa khi có người
vắng mặt và các vấn đề khác theo quy định của pháp luât.
Phiên tòa chỉ là một phần trong giai đoạn xét xử nhưng nó bao gồm các bước
khác nhau theo một trình tự hợp lý do luật định. Mỗi giai đoạn là một mắt xích khơng
thể tách rời và thủ tục trước bao giờ cũng là tiền đề của thủ tục sau. Nếu qua việc thực
hiện các thủ tục bắt đầu phiên tòa, HĐXX thấy thiếu người tham gia tố tụng mà Tòa án
đã triệu tập và sự vắng mặt của người này có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định sự
thật của vụ án; vắng mặt người bào chữa trong trường hợp bắt buộc có người bào chữa
thì khơng thể chuyển sang phần xét hỏi được mà phải hỗn phiên tịa. BLTTHS hiện
hành quy định: khi Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng yêu cầu triệu tập



12

thêm người làm chứng hoặc yêu cầu đưa thêm vật chứng và tài liệu thì HĐXX phải
xem xét quyết định. Khi HĐXX mà chủ yếu là chủ tọa phiên tòa thực hiện tốt các thủ
tục của phần bắt đầu phiên tịa thì phần xét hỏi sẽ diễn ra bình thường. Những người
tham gia xét hỏi sẽ có sự chuẩn bị tốt cho quá trình xét hỏi của mình.
Thủ tục xét hỏi mặc dù diễn ra sau thủ tục bắt đầu phiên tịa, nhưng thủ tục này
có thể bổ sung một số tình tiết mà thủ tục trước đó cịn bỏ sót hay những tình tiết mới
phát sinh trong qúa trình xét hỏi. Chẳng hạn như, nếu có việc xuất trình tài liệu mới, có
sự xuất hiện của người làm chứng, người bị hại, người liên quan của vụ án mà vắng
mặt khi kiểm tra ở phần thủ tục bắt đầu phiên tịa thì HĐXX phải kiểm tra xem đó có
phải là chứng cứ của vụ án hay là người làm chứng, người bị hại, người liên quan của
vụ án hay khơng. Nếu đúng, thì chủ tọa phiên tịa phải quay lại phần thủ tục bắt đầu
phiên tịa để giải thích quyền và nghĩa vụ cho họ theo đúng các quy định của pháp luật.
+ Mối quan hệ giữa thủ tục xét hỏi với thủ tục tranh luận:
Thủ tục tranh luận tại phiên tịa hình sự sơ thẩm được quy định từ Điều 217 đến
Điều 221 của BLTTHS. Tranh luận là một thủ tục kế tiếp của thủ tục xét hỏi, là một
phần của phiên tịa Hình sự sơ thẩm và cũng là một phần của tiến trình tranh tụng.
Tranh luận cịn là q trình các bên buộc tội, bào chữa, bị cáo và những người tham gia
tố tụng đối đáp với nhau trên cơ sở của phần xét hỏi, phân tích, đánh giá các chứng cứ
của vụ án nhằm làm rõ sự thật khách quan về mọi tình tiết buộc tội, tăng nặng, giảm
nhẹ của vụ án, giúp cho HĐXX ra một bản án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Xét hỏi và tranh luận là hai phần riêng biệt của phiên tịa, có nội dung khác nhau
và nhiệm vụ khác nhau. Đã có quan điểm cho rằng, cần sáp nhập thủ tục xét hỏi, tranh
luận và bị cáo nói lời sau cùng làm một. Nghĩa là vừa xét hỏi vừa tranh luận ngay
những câu hỏi và câu trả lời trước đó [32] và [21]. Quan điểm này theo chúng tơi là
khơng khoa học vì: nếu nhập chung như vậy là đã “xóa nhịa ranh giới giữa các thủ tục
khác nhau của phiên tịa sơ thẩm, khơng thấy được nội dung độc lập của các thủ tục
đó” [20]. Các thủ tục phiên tịa sơ thẩm đều có mục đích chung là làm rõ vụ án, xét xử



13

đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; nhưng mỗi thủ tục đó có những đặc thù riêng,
đặc thù về: chủ thể, hoạt động và mục đích.v.v. Trong thực tế, việc xét hỏi, tranh luận,
nói lời sau cùng khơng phải ln theo trình tự thuận. Có thể trở lại việc xét hỏi (Điều
219, Điều 220), nếu nhập hai thủ tục trên là một thì khơng thể xác định được mọi tình
tiết của vụ án đã được làm rõ hay chưa do các bên vừa hỏi lại vừa tranh luận không
theo một trật tự nhất định dẫn đến HĐXX cũng như những người tham dự phiên tịa
khơng thể nắm bắt được diễn biến của phiên tòa.
Nội dung của thủ tục xét hỏi là làm rõ mọi vấn đề về các tình tiết buộc tội và gỡ
tộ; còn nội dung phần tranh luận là sự đánh giá pháp lý về các tình tiết đó và đưa ra
những lý lẽ, lập luận phản bác lý lẽ, lập luận của bên kia và chứng minh cho quan điểm
của mình là có cơ sở. Chính vì thế, việc xét hỏi có đầy đủ, tồn diện và dân chủ thì sẽ
là cơ sở tốt cho phần tranh luận. Nếu việc xét hỏi sơ sài, qua loa hay khơng dân chủ,
khơng khách quan thì việc tranh luận chỉ là hình thức. Ngược lại thơng qua tranh luận,
kết quả xét hỏi được kiểm tra, đánh giá tính xác thực, hợp pháp của các chứng cứ, các
sự kiện của vụ án. Khi thấy cịn có những chứng cứ chưa được xem xét, cịn có những
tình tiết chưa được làm rõ thì theo yêu cầu của các bên hoặc tự mình, HĐXX có thể
quyết định trở lại việc xét hỏi.
+ Mối quan hệ giữa thủ tục xét hỏi với thủ tục nghị án và tuyên án:
Thủ tục nghị án và tuyên án được quy định từ Điều 222 đến Điều 229 của
BLTTHS. Nghị án và tuyên án là hoạt động của Tòa án. Chủ thể đã quan sát, lắng nghe
các bên xét hỏi và tranh luận bình đẳng với nhau trong các thủ tục trước đó. Theo quy
định tại khoản 3 Điều 222 BLTTHS thì “khi nghị án chỉ được căn cứ vào các chứng cứ
tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tịa…”. Vì vậy mà kết quả của thủ tục xét hỏi không
chỉ là tiền đề cho thủ tục tranh luận tại phiên tòa mà còn là tiền đề, nền tảng cho việc
nghị án và tuyên án của HĐXX. Chỉ những vấn đề nào đã được xem xét tại phiên tịa
mà cụ thể ở phần xét hỏi thì HĐXX mới đưa ra nghị án và bản án được tuyên trên cơ

sở mọi vấn đề đã được xét hỏi, tranh luận và nghị án. Trong phần nghị án, mọi vấn đề


14

đã nêu ở phần xét hỏi sẽ được HĐXX xem xét, đánh giá, so sánh, đối chiếu với các
chứng cứ có trong hồ sơ ở gốc độ người trọng tài, từ đó đưa ra phán quyết. Qua việc
nghị án nếu thấy có tình tiết của vụ án chưa được xét hỏi hoặc xét hỏi chưa đầy đủ thì
HĐXX quyết định trở lại việc xét hỏi và tranh luận.
- Mối quan hệ giữa thủ tục xét hỏi với các thủ tục khác của phiên tịa hình sự
phúc thẩm.
Điều 247 của BLTTHS hiện hành qui định thủ tục phiên tịa hình sự phúc thẩm
cũng tiến hành như phiên tịa hình sự sơ thẩm, khơng có sự khác biệt nhiều. Vậy nên
mối quan hệ giữa thủ tục xét hỏi với các thủ tục khác của phiên tịa hình sự phúc thẩm
đều giống như mối quan hệ giữa thủ tục xét hỏi với các thủ tục khác của phiên tịa hình
sự sơ thẩm như được trình bày ở mục 1.2 của luân văn.
1.3. Xét hỏi tại phiên tịa hình sự theo mơ hình tố tụng thẩm vấn và mơ hình
tố tụng tranh tụng.
Lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới đã biết đến “xã hội thị tộc chưa có giai
cấp, chưa có Nhà nước và pháp luật, thì những cái sau này gọi là tội phạm được giải
quyết bằng trả thù nợ máu hoặc theo quy tắc mắt bằng mắt, răng bằng răng chứ khơng
có một trình tự tố tụng theo đúng nghĩa của nó” [36, tr.10]. Sau này cùng với sự phát
triển của xã hội có giai cấp xuất hiện hình thức tố tụng kiểu tố cáo “thực hiện ở thời đại
cổ La Mã, Huy Lạp và tồn tại mãi cho đến sơ kỳ thời phong kiến Châu Âu” [36, tr.10].
Đặc điểm cơ bản của tố tụng kiểu tố cáo là: “Một trình tự tố tụng khởi đầu khi có người
tố cáo tội phạm, buộc tội và tiến hành việc tranh cãi sôi nổi giữa hai bên buộc tội và gỡ
tội, trong đó mọi người đều tham gia nhằm bảo vệ lợi ích của bị cáo. Tố tụng chủ yếu
tiến hành công khai trực diện, bằng miệng và khơng có tính chun nghiệp pháp lý.
Toàn dân tham gia xét xử.” [36, tr.10].
Bước sang thời kỳ phong kiến một kiểu tố tụng khác hình thành và tồn tại suốt

thời trung cổ ở Châu Âu, đó là kiểu tố tụng xét hỏi. Đặc điểm của tố tụng xét hỏi là
“tiến hành bằng viết, bí mật, khơng trực diện; bị cáo chịu vai trị thụ động, khơng có


15

quyền bào chữa. Tòa án với thẩm phán chuyên nghiệp, tự thụ lý vụ án và điều tra bí
mật: phiên tịa chỉ là hình thức.” [36, tr.12]. Tố tụng xét hỏi thời kỳ này coi lời nhận tội
của bị cáo là chứng cứ quan trọng nhất nên việc tra tấn cũng là thủ tục chủ yếu để lấy
cho được lời nhận tội.
Đến năm 1789 cách mạng tư sản bùng nổ ở Pháp, do yêu cầu phát triển của xã
hội, hình thức tố tụng xét hỏi trong chế độ phong kiến dần dần biến đổi cho phù hợp
với chế độ tư bản chủ nghĩa như quy định nguyên tắc xét xử công khai, xác lập quyền
bào chữa của bị cáo, lập đồn Bồi thẩm tại Tịa đại hình..v.v… iểu tố tụng mới này
dần được thực hiện trong các nước Châu Âu và trên toàn thế giới trừ các nước theo hệ
thống pháp luật Anh – Mỹ. Trên thế giới hiện nay, tồn tại hai hệ thống pháp luật lớn đó
là: hệ thống pháp luật dân sự hay còn gọi là hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa và luật
án lệ hay còn gọi là hệ thống pháp luật Anh – Mỹ và giữa hai hệ thống luật này các vấn
đề thuộc về luật nội dung (luật Hình sự) khơng khác nhau nhiều mấy thì “sự khác biệt
thật sự giữa các truyền thống pháp luật lại thuộc về lĩnh vực tố tụng hình sự” [42,
tr.117] và điểm khác biệt chính là q trình giải quyết vụ án tại Tịa án. Nói chung thì
hệ thống luật án lệ thường áp dụng mơ hình tố tụng tranh tụng, cịn hệ thống luật Châu
Âu lục địa thường áp dụng mơ hình tố tụng thẩm vấn. Tuy nhiên “Cả hai hệ thống đều
có mục đích cơ bản là tìm ra sự thật và mỗi hệ thống đều hoạt động theo nguyên tắc: kẻ
có tội phải bị trừng phạt, người vô tội phải được tự do. Điều khác biệt ở chúng là sự giả
định của từng hệ thống về cách tốt nhất để tìm ra sự thật.” [42, tr.120].
Nếu hệ thống luật Châu Âu lục địa với mơ hình tố tụng thẩm vấn, việc tìm ra sự
thật là một quá trình bao gồm điều tra, truy tố, xét xử thì mơ hình tố tụng tranh tụng
của hệ thống luật án lệ việc tìm ra sự thật của vụ án hình sự chỉ thực sự bắt đầu và coi
như chính thức là ở giai đoạn xét xử hay là ở tại phiên tịa hình sự. Trong tố tụng thẩm

vấn “khi các vị thẩm phán xuất hiện bao giờ cũng có trong tay tồn bộ tài liệu về quá
trình điều tra, họ biết rất rõ là nhân chứng đã nói gì với cảnh sát, họ đã nghiên cứu hồ
sơ” [43, tr.11]. Còn trong tố tụng tranh tụng “các vị thẩm phán khơng biết một cái gì


16

hết. Họ chỉ biết có mỗi tên thơi. Khơng có hồ sơ cho các vị thẩm phán. Hồ sơ nằm
trong tay luật sư công tố ủy viên và nằm trong tay của luật sư bào chữa chứ không nằm
trong tay thẩm phán” [43, tr.11]. Chính vì vậy phiên tịa trong tố tụng thẩm vấn không
phải là sự cạnh tranh giữa các bên đối địch nhau mà là sự tiếp tục điều tra. Bắt đầu quá
trình thẩm vấn bao giờ cũng là sự trình bày của bên buộc tội. “Người bị hại bị loại ra
khỏi vai trò của người buộc tội tư và thay vào đó là một cơng chức nhà nước” [42,
tr.120]. Thẩm phán sẽ là người tích cực thẩm tra bị cáo, người bị hại và các nhân
chứng để tìm ra sự thật của vụ án, khơng giữ trung gian như một trọng tài. Thực chất
việc mở phiên tòa xét xử được xem như việc điều tra công khai. Theo mơ hình tố tụng
này, luật sư muốn hỏi nhân chứng điều gì phải yêu cầu hay nhờ thẩm phán hỏi về điều
đó.

hác hẳn với các nước theo hệ thống luật án lệ, các luật sư có thể hỏi thẳng nhân

chứng. Việc tranh luận sẽ được tiến hành sau khi tất cả các chứng cứ đã được thẩm
phán kiểm tra đồng thời những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng khác khơng
có u cầu hỏi nữa. Bên buộc tội và bên bào chữa sẽ tiến hành tranh luận với nhau về
các tình tiết nhằm làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án. Tố tụng thẩm vấn dành
một vị trí quan trọng cho các chứng cứ viết. Đây là một điểm khác biệt rất lớn so với tố
tụng tranh tụng.
Luật sư bào chữa trong hệ thống luật này cũng giữ vai trò hết sức quan trọng họ
phải “tranh luận với thẩm phán” [43, tr.14]. Trong khi đó “nhiệm vụ của hai vị luật sư
trong q trình xét xử ở những nước theo hệ thống luật án lệ là làm thế nào thuyết phục

hội đồng bồi thẩm chứ không phải thuyết phục thẩm phán” [43, tr.120]. Luật sư của
những nước theo hệ thống luật án lệ sẽ ngồi bên cạnh thân chủ của mình trong suốt thời
gian diễn ra phiên tịa “đại diện cho anh ta nói tất cả mà anh ta khơng phải nói gì cả.
Nếu luật sư giữ quyền cơng tố hỏi thì người bị buộc tội lại hỏi lại luật sư của mình,
người luật sư sẽ trả lời thay, anh ta không bao giờ trả lời.” [43, tr.44]. Theo hệ thống
luật Châu Âu lục địa, luật sư của người bị buộc tội ngồi ở trong góc, cịn bị cáo đứng
giữa “bị cáo buộc phải trả lời trước phiên tịa. Nếu bị cáo khơng trả lời thẩm phán, các


17

thẩm phán cho rằng tình thế cịn xấu hơn” [43, tr.44]. Nhận xét về hoạt động của luật
sư tại phiên tịa có ý kiến cho rằng “luật sư trong hệ thống luật Châu Âu lục địa làm
việc rất ít, chỉ khi gần kết thúc phiên tòa các thẩm phán chuẩn bị bước vào phịng kín
thì ơng luật sư đọc một bài diễn văn rất hay rất mỹ miều rằng cần phải thông cảm cho
bị cáo, anh ta nghèo khổ, gia đình anh ta khó khăn và làm rất nhiều động tác đẹp” [43,
tr.44]. Đồng thời họ cho rằng hệ thống tố tụng này, phần tranh luận của các bên không
được đề cao và vị thế luật sư tại phiên tòa thấp hơn so với vị thế đồng nghiệp của họ tại
phiên tòa của các nước theo hệ thống luật án lệ. Theo chúng tơi, ý kiến đánh giá này có
phần hơi phiến diện. Việc tranh luận về các tình tiết của vụ án cũng rất được chú ý
trong tố tụng thẩm vấn này và vai trò của luật sư cũng quan trọng và rất được tôn trọng.
Tuy nhiên không thể phủ nhận một thực tế đã tồn tại từ rất lâu trong hệ thống luật Châu
Âu lục địa đó là thẩm phán trong q trình xét xử đóng vai trị chủ yếu trong việc kiểm
tra, xem xét và đánh giá chứng cứ, luật sư dẫu sao cũng có vai trị thủ động hơn.
Tại phiên tòa của những nước theo hệ thống luật án lệ có những điểm khác biệt
rất cơ bản, được diễn ra trên cơ sở cho rằng “sự thật sẽ được mở ra qua sự tranh luận tự
do và cởi mở giữa những người có các dữ kiện chính xác” [42, tr.123]. Chính vì vậy
ngơn ngữ được sử dụng trong q trình tố tụng trở nên rất chính xác. Việc xét hỏi và
tranh luận được thực hiện bằng cách kiểm tra chéo, bên bào chữa cũng như bên buộc
tội đều có thể hỏi về tính trung thực trong lời khai của các nhân chứng, tìm sự thiên vị

và chỉ ra được cái mà nhân chứng biết thật chứ không phải cái mà họ nghĩ rằng họ biết.
“Trong suốt quá trình tố tụng tranh tụng, bên buộc tội và bên bị buộc tội liên tục trao
đổi với nhau những lập luận, chứng cứ. Các bên ra trước tòa với tư cách như hai đối
thủ” [17, tr.3]. Trong hệ thống tố tụng này quyền lực được chia sẽ giữa công tố viên,
luật sư, thẩm phán và bồi thẩm đồn. Cơng tố viên đại diện cho nhà nước cố gắng
chứng minh tội của bị cáo. Luật sư bào chữa tranh luận về sự vơ tội của thân chủ.
Thẩm phán đóng vai trị trọng tài trong q trình xét xử, họ thực hiện nhiệm vụ điều
hành trật tự phiên tòa. Tại tòa, chỉ có các luật sư hỏi nhau và hỏi nhân chứng, thậm chí


18

có quyền ngắt lời bên kia để phản bác, thẩm phán khơng hỏi một câu nào cả “vì hồn
tồn được thực hiện bằng lời nên mọi chứng cứ viết, chẳng hạn như biên bản của cảnh
sát tư pháp, đều không được cơng nhận là chứng cứ” [17, tr.3].
Với cách nhìn khái qt như trên, có thể thấy q trình xác định sự thật khách
quan vụ án hình sự tại phiên tịa thơng qua việc xét hỏi ở hai hệ thống luật có những
đặc trưng khác hẳn nhau. Mỗi hình thức có những ưu điểm và nhược điểm nhất định.
Q trình xét hỏi theo tố tụng thẩm vấn “thường bị trích là không tôn trọng đầy
đủ các quyền của các bên đương sự bởi vì họ khơng có nghĩa vụ chứng minh chứng cứ.
Vì chứng cứ là do thẩm phán điều tra tập hợp nên người ta cho rằng tố tụng thẩm vấn
đi ngược lại nguyên tắc vô tư, khách quan và rằng đơi khi thẩm phán đã có sẵn trong
đầu quyết định xét xử trước khi diễn ra giai đoạn xét xử. Xét dưới gốc độ đó, việc tranh
luận tại phiên tịa trở nên vơ nghĩa” [17, tr.4].
Trong tố tụng tranh tụng, thẩm phán khơng có vai trị quan trọng nên loại hình
tố tụng được áp dụng ở đây bị chỉ trích làm nảy sinh sự bất bình đẳng giữa các bên
trong vụ án hình sự. Bên nào có nhiều tiền để th luật sư thì bên đó có nhiều khả năng
giành thắng lợi. Nhược điểm tiếp theo của nó là rất phức tạp: mọi vấn đề có lẽ phải
được xác định thơng qua cả một q trình điều tra nhưng ở đây lại chỉ được trình bày
trong phiên tịa xét xử và như vậy khi phiên tòa xét xử diễn ra chưa có gì được khẳng

định chắc chắn.
Trước đây, Pháp luật Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc của pháp luật Pháp và
sau này chịu ảnh hưởng của pháp luật các nước Xã hội Chủ nghĩa. Vì vậy, Việt Nam
thuộc các nước theo hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa và áp dụng mơ hình tố tụng
thẩm vấn.


19

Chƣơng 2
QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2003
VỀ XÉT HỎI TẠI PHIÊN TỒ HÌNH SỰ
2.1. Một số nguyên tắc cơ bản của việc xét hỏi tại phiên tịa hình sự
Ngun tắc của luật TTHS được hiểu là “những phương châm định hướng, chi
phối toàn bộ hay một số hoạt động TTHS và được các văn bản pháp luật TTHS nghi
nhận” [30, tr.5]. Thủ tục xét hỏi tại phiên tịa hình sự cũng phải chịu chi phối của
những nguyên tắc cơ bản để đạt được mục đích của tố tụng thẩm vấn là giúp Tòa án
đưa ra các phán quyết chính xác nhất, đồng thời có sức thuyết phục với tất cả những
người quan tâm theo dõi việc giải quyết vụ án từ đó phát huy ý nghĩa giáo dục, ý thức
pháp luật và phòng ngừa tội phạm.
- Ngun tắc suy đốn vơ tội (Điều 9 BLTTHS)
Ngun tắc suy đốn vơ tội là một trong những ngun tắc cơ bản trong TTHS
của thế giới hiện nay, nguyên tắc này được nghi nhận cụ thể tại Điều 11 Tuyên ngôn
chung về quyền con người được Liên hợp quốc thông qua ngày 10 tháng 12 năm 1948
với nội dung như sau: “Mỗi bị cáo dù đã bị buộc tội có quyền được coi là vơ tội cho
đến khi được chứng minh là phạm tội theo luật pháp tại một phiên tịa xét xử cơng khai
với mọi đảm bảo biện hộ cần thiết….” [8, tr.64-65]. Ở nước ta, Điều 72 Hiến pháp
1992 và Điều 9 BLTTHS cũng qui định: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình
phạt khi chưa có bản án kết tội của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật”.
Với việc quy định như vậy, nội dung của nguyên tắc này được hiểu gồm có hai

nội dung. Nội dung thứ nhất là “một người chỉ bị coi là có tội, là kẻ phạm tội và phải
chịu một loại chế tài nghiêm khắc nhất là hình phạt khi đối với họ đã có bản án kết tội
của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật” [30, tr.68]. Nội dung thứ hai của nguyên tắc xác
định “trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử mọi nghi ngờ phải được giải thích


20

theo hướng có lợi cho bị can, bị cáo” [30, tr.68]. Một câu hỏi được đặt ra là nguyên tắc
này được vận dụng như thế nào trong quá trình xét hỏi.
Mặc dù tại phiên tòa, bị cáo là người đã bị Tịa án đưa ra xét xử, nhưng vẫn
“khơng bị coi là có tội”, vẫn chưa phải là người bị kết án. Bị cáo có quyền bào chữa và
các quyền khác bảo đảm cho bị cáo được xét xử công bằng, nguyên tắc này không cho
phép sử dụng các biện pháp độc đốn, bất cơng đối với bị cáo. Mọi nghi ngờ phải được
giải thích theo hướng có lợi cho bị cáo. Nếu HĐXX coi bị cáo là người có tội thì tại
phiên tịa xét xử, Tịa án sẽ khơng khách quan trong việc đánh giá các chứng cứ, đánh
giá ý kiến tranh luận do bên buộc tội và bên bào chữa đưa ra dẫn đến một phiên tịa
khơng cơng bằng cho bị cáo, dẫn đến tình trạng “án tại hồ sơ” và thậm chí dẫn đến việc
xét xử oan sai. Tất cả các chứng cứ dù do bên buộc tội cung cấp hay do bên bào chữa
đưa ra đều phải được thẩm tra một cách công khai, không được định kiến trước bị cáo
là người có tội để xem nhẹ chứng cứ do họ cung cấp. Nếu thừa nhận họ là người có tội
thì “hoạt động của Tịa án thậm chí khơng cịn có ý nghĩa là hoạt động xét xử nữa mà
chỉ là hình thức khẳng định lại kết luận của Điều tra viên, Kiểm sát viên về tội trạng
của bị can bằng bản án kết tội mình mà thôi” [10, tr.42].
Tuy nhiên áp dụng nguyên tắc này trong việc xét hỏi tại phiên tịa cịn phải tính
đến niềm tin nội tâm của người Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân.

hi đưa vụ án ra xét

xử, trong niềm tin nội tâm của người Thẩm phán (được xây dựng, hình thành và củng

cố trên cơ sở những hiểu biết về pháp luật và kết quả nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ
đã được thu thập và kiểm tra) họ không thể khơng nghĩ rằng bị cáo là người có tội
“trong quá trình nghiên cứu các chứng cứ của vụ án đã thu thập được, Điều tra viên,
Kiểm sát viên, Thẩm phán khơng thể khơng có niềm tin nội tâm về sự có tội hay khơng
có tội của bị can, bị cáo” [30, tr.71]. Chính vì vậy, pháp luật TTHS chỉ điều chỉnh hành
vi của Thẩm phán, Hội thẩm trong quá trình xét hỏi, khơng có quyền đối xử với bị cáo
như người có tội, họ tiến hành các thủ tục theo đúng quy định của pháp luật nhưng khi
đưa ra các kết luận về vụ án phải dựa vào niềm tin nội tâm của chính mình trên cơ sở


×