Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền của phụ nữ trong một số lĩnh vực ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (777.79 KB, 93 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

MAI THỊ DIỆU THÚY

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN CỦA PHỤ NỮ
TRONG MỘT SỐ LĨNH VỰC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số: 60 38 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Hồi

HÀ NỘI - 2007


LỜI CẢM ƠN
Với tấm lịng biết ơn sâu sắc, tơi xin trân trọng cảm ơn TS. Nguyễn Thị
Hồi đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tơi trong suốt q trình thực hiện bản luận
văn này.
Tơi xin bày tỏ tấm lịng biết ơn đến các thầy cô giáo giảng dạy tại trường
Đại học Luật Hà Nội đã truyền thụ cho tôi những kiến thức q báu suốt khóa
học tơi đã theo học.
Cuối cùng, tôi cũng xin chân thành cảm ơn các cơ quan hữu quan, bạn bè,
đồng nghiệp và người thân đã động viên, khuyến khích và giúp đỡ tơi trong suốt
q trình học tập và hồn thành bản luận vă này.



Mai Thị Diệu Thúy


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan luận văn này hồn tồn là kết quả nghiên cứu của riêng
tơi dưới sự hướng dẫn của TS. Nguyễn Thị Hồi.
Trong quá trình thực hiện và hoàn thành bản luận văn này, tác giả có
tham khảo một số bài viết, chuyên đề, các tài liệu của các tác giả khác, các
nguồn trích dẫn, tham khảo đã được chỉ ra trong danh mục tài liệu tham khảo.
Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan trên


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU

1

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ CỦA VIỆC BẢO VỆ

5

QUYỀN PHỤ NỮ Ở VIỆT NAM
1.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về vấn đề bảo vệ quyền phụ nữ

5

1.2. Pháp luật về bảo vệ quyền của phụ nữ ở Việt Nam

8


1.2.1. Khái niệm pháp luật về bảo vệ quyền của phụ nữ

8

1.2.2. Quy định của pháp luật quốc tế về vấn đề bảo vệ quyền của phụ nữ

9

1.2.3. Quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề bảo vệ quyền phụ nữ trong

15

một số lĩnh vực
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT BẢO VỆ

37

QUYỀN CỦA PHỤ NỮ TRONG MỘT SỐ LĨNH VỰC Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY
2.1. Trong lĩnh vực chính trị

37

2.2. Trong lĩnh vực dân sự

43

2.3. Trong lĩnh vực hơn nhân và gia đình


45

2.4. Trong lĩnh vực lao động

52

2.5. Trong lĩnh vực hình sự

57

CHƯƠNG III: HỒN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ

61

THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN CỦA PHỤ NỮ TRONG
MỘT SỐ LĨNH VỰC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Những giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật nhằm bảo vệ quyền

62

của phụ nữ trong một số lĩnh vực
3.2. Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp về bảo vệ quyền

67

của phụ nữ
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

74



1

PHN M U
1.Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Do những đặc trưng về thể chất và giới tính nên dù chiếm hơn một phần hai
nhân loại, phụ nữ vẫn thuộc nhóm người dễ bị tổn thương nhất trong xà hội và
cần được quan tâm, bảo vệ một cách đặc biệt. Tuy nhiên, trong một thời gian dài
của lịch sử, ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, không phải lúc nào người phụ nữ
cũng được hưởng một cuộc sống tươi đẹp, xứng đáng với những hy sinh, vất vả
mà họ phải gánh chịu, họ thường bị phân biệt đối xử, bị ngược đÃi mà không
nhận được sự quan tâm, bảo vệ thích đáng của xà hội. Những tàn dư của xà hội
cũ như tư tưởng đề cao chế độ gia tộc phụ quyền, trọng nam khinh nữ đà để lại
những dấu ấn nặng nề trong xà hội và gây ra nhiều thiệt thòi, bất công cho đời
sống của người phụ nữ. Vì vậy, vấn đềỡ bảo vệ quyền của phụ nữ, tạo điều kiện
cho họ phát triển tốt nhất khả năng của mình trong mọi lĩnh vực của đời sống xÃ
hội, luôn là vấn đề mang tính toàn cầu, thu hút sự quan tâm của cả cộng đồng
quốc tế hiện nay.
Việt Nam đánh giá cao những cống hiến của người phụ nữ đối với những
thắng lợi chung của dân tộc và sự nghiệp xây dựng đất nước và nhận thức sâu sắc
rằng: họ hoàn toàn xứng đáng được hưởng quyền bình đẳng với nam giới trong
mọi lĩnh vực. Vì thế, Nhà nước Việt Nam luôn coi việc bảo vệ quyền lợi hợp
pháp của phụ nữ là trách nhiệm của Nhà nước, của toàn xà hội, của mỗi gia đình
và của từng công dân.
Trong hơn năm mươi năm qua, từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, việc
ghi nhận và bảo đảm thực hiện quyền bình đẳng nam nữ, bảo vệ lợi ích của phụ
nữ là vấn đề luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm, thể hiện trong các chính
sách pháp luật mang tính nhất quán. Nhà nước cộng hoà xà hội chủ nghĩa Việt
Nam đà gia nhập Công ước quốc tế về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với

phụ nữ (CEDAW) vào ngày 29/07/1980, vµ nã cã hiƯu lùc chÝnh thøc ë ViƯt Nam
vào ngày 09/03/1982. Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước còn thông qua nhiều chủ
trương, chính sách để tiến hành nội luật hoá các quy định của Công ước một
cách mạnh mẽ và thu được nhiều thành tựu nhất định.
Cho đến nay, pháp luật bảo vệ quyền của phụ nữ chiếm một vị trí đáng kể
trong hệ thống pháp luật Việt Nam, có phạm vi điều chỉnh rộng, liên quan ®Õn
nhiỊu lÜnh vùc quan hƯ x· héi vµ nhiỊu ngµnh luật khác nhau: luật Hiến pháp,
luật Hôn nhân và gia ®×nh, lt Lao ®éng, lt H×nh sù, lt Tè tơng hình sự...và
đà đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Đặc biệt với sự ra đời các văn bản
pháp luật mới như: Bộ luật Hình sự năm 1999, Bộ luật Lao động năm 2002, Luật


2

Hôn nhân và gia đình năm 2000, Bộ luật Dân sự năm 2005, các quy định của
pháp luật có nhiều thay đổi theo hướng mở rộng, tăng thêm quyền cho phụ nữ, đÃ
thúc đẩy nhanh tiến trình bình đẳng giới, góp phần giải phóng người phụ nữ ra
khỏi những định kiến lạc hậu.
Tuy nhiên, do ảnh hưởng của phong tục, tập quán lạc hậu và những tàn dư
của ý thức pháp luật cũợ vẫn còn phổ biến trong xà hội Việt Nam nên việc thực
hiện, bảo vệ quyền của phụ nữ còn gặp nhiều khó khăn. Thêm vào đó, trong ®iỊu
kiƯn nỊn kinh tÕ chun ®ỉi tõ c¬ chÕ kÕ hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị
trường, mặt trái của nền kinh tế thị trường đà có nhiều tác động tiêu cực đến đời
sống xà hội. Phụ nữ và đặc biệt là những em gái mới lớn rất dễ trở thành nạn
nhân gánh chịu hậu quả do mặt trái của nền kinh tế thị trường gây ra. Trong khi
đó, hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật bảo vệ quyền của phụ nữ
nói riêng đang trong quá trình hoàn thiện, đà làm cho việc thực thi các quy định
pháp luật gặp phải nhiều vướng mắc, thiếu sự hướng dẫn, giải thích và một số
quy định vẫn chưa có khả năng đi vào cuộc sống.
Chính vì vậy, việc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền của phụ nữ và nâng

cao hiệu quả thực hiện pháp luật trong lĩnh vực này để giảm bớt và đi đến xoá bỏ
sự bất bình đẳng giới ở nước ta hiện nay là một việc làm cần thiết có ý nghĩa cả
về mặt lý luận lẫn thực tiễn, phù hợp với xu thế chung của toàn cầu và đường lối,
chủ trương của Đảng và Nhà nước ta trong thời kì mới.
Với mong muốn góp phần nhỏ bé của mình vào công cuộc trên, tôi mạnh
dạn nhận đề tài Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền của phụ nữ trong một số
lĩnh vực ở Việt Nam hiện nay làm đề tài Luận văn Thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến thời điểm hiện nay, vấn đề nghiên cứu pháp luật về bảo vệ quyền
của phụ nữ đà được các nhà nghiên cứu, các chuyên gia đề cập đến ở góc độ
chuyên sâu trong từng lĩnh vực cụ thể của từng ngành luật như: đề tài của tác giả
Bùi Thị Mừng - nghiên cứu vấn đề Bảo vệ quyền phụ nữ theo Luật hôn nhân và
gia đình Việt Nam năm 2000, hay tác giả Dương thị Ngọc Lan với vấn đề
Hoàn thiện pháp luật về lao động nữ ở Việt Nam hiện nay và các bài viết trên
tạp chí Luật học, số đặc san Phụ nữ tháng 3 năm 2005 và Pháp luật Việt Nam
với việc thực hiện Công ước về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ
nữ số tháng 3 năm 2006. Tuy nhiên, hầu như các tác giả chưa tiếp cận vấn đề
này dưới góc độ lý luận chung về pháp luật. Tôi không có tham vọng đề xuất
những quan điểm mới về pháp luật bảo vệ quyền phụ nữ, mà chØ hy väng ®ãng


3

góp những đánh giá của mình về thực trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện pháp
luật về bảo vệ quyền của phụ nữ ở Việt Nam hiện nay.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài.
Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề sau:
- Khái quát hệ thống pháp luật thực định về bảo vệ quyền của phụ nữ ở nước
ta trong giai đoạn hiện nay.
- Phân tích, đánh giá những quy định của pháp luật đối với vấn đề bảo vệ

quyền của phụ nữ trong một số lĩnh vực pháp luật cụ thể.
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn bảo vệ quyền của phụ
nữ ở Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất các kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp
luật về bảo vệ quyền của phụ nữ.
4. Mục đích của việc nghiên cứu đề tài.
Việc nghiên cứu đêỡ tài nhằm các mục đích sau:
- Làm sáng tỏ nội dung một số quy định hiện hành về bảo vệ quyền của phụ
nữ ở Việt Nam.
- Chỉ ra những mâu thuẫn, những điểm bất hợp lý và những lỗ hổng trong
các quy định của pháp luật về bảo vệ quyền của phụ nữ ở Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất một số kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng
cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bảo vệ qun cđa phơ n÷ trong mét sè lÜnh
vùc ë ViƯt Nam hiện nay.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài.
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận là: phép biện chứng
duy vật, chủ nghĩa Mác-Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về pháp luật, hệ thống
quan điểm, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước ta về con
người và sự phát triển con người.
Trên cơ sở phương pháp luận đà nêu, các phương pháp nghiên cứu cụ thể
được sử dụng trong luận văn gồm: phương pháp phân tích - đối chiếu, phương
pháp so sánh, phương pháp hệ thống, phương pháp tổng hợp, phương pháp xà hội
học.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn.

6.1 Về lý luận:
- Làm sáng tỏ những điểm hạn chế, bất cập trong quy định của pháp luật
hiện hành về bảo vệ quyền của phụ nữ trong một số lÜnh vùc.



4

- Đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của một số chế định
pháp luật về bảo vƯ qun cđa phơ n÷ trong mét sè lÜnh vùc.

6.2 Về thực tiễn:
- Phân tích những nguyên nhân cản trở việc thực hiện các chế định pháp luật
về bảo vệ quyền của phụ nữ trong một số lĩnh vực trên thực tế.
- Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác thực hiện pháp
luật về bảo vệ quyền của phụ nữ ở Việt Nam hiện nay.
7. Cơ cấu của luận văn:
Căn cứ vào mục đích, phạm vi nghiên cứu của luận văn, luận văn được
trình bày thành 3 phần chính trong 3 chương sau:
Chương 1: Cơ sở lí luận và pháp lý của việc bảo vệ quyền của phụ nữ ở Việt
Nam.
Chương 2: Thực trạng thực hiện pháp luật bảo vệ quyền của phụ nữ trong
một số lĩnh vực ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về
bảo vệ quyền của phụ nữ trong một số lÜnh vùc ë ViÖt Nam hiÖn nay.


5

CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ CÙA VIỆC BẢO VỆ QUYỀN PHỤ NỮ Ở
VIỆT NAM
1.1. Quan ®iĨm cđa Đảng và Nhà nước Việt Nam về vấn đề bảo vệ quyền
của phụ nữ.
Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước. Trong
hàng ngàn năm lịch sử ấy, người phụ nữ Việt Nam luôn gắn liền với quá trình

đấu tranh cho sự trường tồn của dân tộc. Chính vì thế, truyền thống tôn träng
ng­êi phơ n÷ - nh÷ng ng­êi cã cèng hiÕn to lớn cho gia đình và xà hội, là một
nét đặc trưng của Việt Nam, được minh chứng qua lịch sử, văn hoá và lối sống
của dân tộc. Truyền thống đó được biểu hiện ở những nghi lễ thờ cúng không có
sự phân biệt thần nam và thần nữ. Chẳng hạn tục thờ thần lúa, thờ bà Liễu Hạnh.
Truyền thống đó còn được biểu hiện ở khí phách anh hùng chống giặc ngoại xâm
của bà Trưng, bà Triệu, của Bùi Thị Xuân, hay bà Nguyễn Thị Định và biết bao
tấm gương hi sinh anh dũng khác. Bên cạnh đó, phải kể đến vai trò quản lý quốc
gia của ỷ Lan phu nhân, sự thức thời và dũng cảm của Thái hậu Dương Vân Nga,
sự đảm lược của Linh từ Quốc mẫu và biết bao người phụ nữ trong công cuộc đổi
mới ®Êt n­íc hiƯn nay. ThÕ nh­ng, d­íi chÕ ®é phong kiến người phụ nữ bị trói
buộc trong môi trường xà hội chịu nhiều ảnh hưởng của triết lý Nho giáo tam
tòng tứ đức, an phận thủ thường, họ phải chịu sự thiệt thòi, bất công.
Chính vì vậy, giải phóng phụ nữ, tạo mọi điều kiện để người phụ nữ phát
huy tài năng, sức lực của mình vào sự phát triển của đất nước đà được Đảng và
Nhà nước ta đặt lên hàng đầu và gắn nó với sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải
phóng giai cấp. Điều này được thể hiện rõ trong Luận cương chính trị năm 1930
của Tổng Bí thư Trần Phú: giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng
phụ nữ, ba nhiệm vụ đó được tiến hành cùng lúc và hỗ trợ cho nhau trong cuộc
đấu tranh chung. Chính quan điểm đó là nền tảng vững chắc giải phóng năng lực
cho phụ nữ, qua đó giúp phụ nữ ngày càng củng cố được vị thế của mình trong
gia đình và ngoài xà hội.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đêỡ giải phóng phụ nữ và thực hiện
quyền bình đẳng nam nữ. Đảng và Nhà nước ta đà ban hành nhiều nghị quyết, chỉ
thị nhằm phát huy vai trò của người phụ nữ như:
+ Chỉ thị 44/TW ngày 7/6/1984 của Ban bí thư Trung ương Đảng về Một số
vấn đề cấp bách trong công tác cán bộ nữ. Chỉ thị đưa ra những yêu cầu đòi hỏi
các cấp, các ngành phải thay đổi quan điểm nhận thức đối với cán bộ nữ để có



6

phương hướng tăng cường cán bộ nữ, tích cực đào tạo, bồi dưỡng, tạo điều kiện
cho cán bộ nữ hoàn thành nhiệm vụ.
+ Nghị quyết 176/HĐBT ngày 25/12/1984 của Hội đồng Bộ trưởng đề ra
những chủ trương lớn về việc phát huy vai trò và năng lực của phụ nữ trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xà hội chủ nghĩa.
Công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lÃnh đạo từ
Đại hội VI tháng 12 năm 1986 cho đến nay đà đem lại nguồn sinh khí mới cho
đất nước. Cùng với sự phát triển toàn diện của đất nước, Đảng và Nhà nước vẫn
thường xuyên quan tâm đến công tác phụ nữ. Cụ thĨ:
+ NghÞ qut 04 cđa Bé chÝnh trÞ - Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng
sản Việt Nam ngày 12/07/1993 đà khẳng định phải giải phóng và phát triển toàn
diện phụ nữ là một trong những mục tiêu của cách mạng Việt Nam, có ảnh hưởng
trực tiếp và lâu dài ®Õn sù ph¸t triĨn cđa ®Êt n­íc. Båi d­ìng lùc lượng phụ nữ
phát huy sức mạnh và chăm lo sự phát triển mọi mặt của phụ nữ là nhiệm vụ
thường xuyên và rất quan trọng của Đảng trong các thời kì cách mạng. Nghị
quyết cũng chỉ rõ, một trong những công tác lớn quan trọng của Đảng ta hiện nay
là giải quyết việc làm chăm lo đời sống, bảo hộ lao động, bảo hiểm xà hội, bảo
vệ sức khoẻ và quyền lợi của phụ nữ; Nhà nước phải xây dựng và sửa đổi hoàn
chỉnh pháp luật, các chính sách xà hội có liên quan đến phụ nữ và lao động nữ.
Khi xây dựng pháp luật, chính sách cần đặc biệt quan tâm đến tính chất đặc thù
của lao động nữ, phụ nữ phải thực hiện cả hai chức năng: lao động xà hội và lao
động sinh đẻ, nuôi dạy con cái.
+ Để thực hiện Nghị quyết của Bộ chính trị, Ban Bí thư trung ương Đảng đÃ
ban hành một số chỉ thị như: Chỉ thị 28CT/TW ngày 29/09/1993 nhằm phổ biến
Nghị quyết, xây dựng kế hoạnh và chương trình thực hiện Nghị quyết và Chỉ thị
37/CT/TW ngày 16/05/1994 về Một số vấn đề công tác cán bộ trong tình hình
mới đà yêu cầu các cấp, các ngành tiếp tục nâng cao nhận thức quan điểm của
Đảng về công tác cán bộ nữ, có qui hoạch tạo nguồn đào tạo, bồi dưỡng cán bộ

nữ, nâng cao tỷ lệ cán bộ nữ làm việc và khuyến khích tài năng nữ phát triển.
Xuất phát từ quan điểm đó, vấn đề quyền lợi của người phụ nữ đà được thể
chế hoá trong các bản Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp
năm 1980 và Hiến pháp năm 1992 và Nghị quyết sửa đổi bổ sung một số điều
của Hiến pháp năm 1992 vào năm 2001, tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho mọi
hoạt động của phụ nữ trên mọi lĩnh vực. Trên cơ sở đó, quyền lợi của người phụ
nữ cũng được đảm bảo thông qua những quy định trong từng lĩnh vực pháp luật
như: Luật Hôn nhân và gia đình, Luật Hình sự, Luật Lao động, Luật Dân sự...


7

Ngoài ra, còn có hệ thống những chính sách xà hội bảo đảm cho phụ nữ có những
điều kiện, môi trường hoạt động tốt hơn khi tham gia vào các quan hệ xà hội
nhằm khắc phục sự bất bình đẳng, sự thiếu công bằng và sự phát triển mất cân
đối giữa phụ nữ thuộc các nhóm xà hội, nghề nghiệp, dân tộc và các vùng khác
nhau.
Mặc dù việc thực hiện bình đẳng nam nữ đà có những tiến bộ lớn trong hơn
50 năm qua, song trong bối cảnh chuyển sang nền kinh tế thị trường hiện nay,
việc tạo ra các cơ hội và điều kiện để hoà nhập giới về nhiều mặt nhất là về việc
làm, thu nhập, giáo dục và đào tạo, tham gia vào các quan hệ xà hội cũng gặp
phải không ít thách thức mới cần phải giải quyết nhằm thức đẩy nhanh tiến trình
bình đẳng giới. Chính vì vậy, trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX,
một lần nữa Đảng ta lại khẳng định quan điểm của mình về việc chăm lo và bảo
vệ quyền phụ nữ: Đối với phụ nữ, thực hiện tốt pháp luật và chính sách bình
đẳng giới, bồi dưỡng, đào tạo nghề nghiệp, nâng cao học vấn; có cơ chế chính
sách để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào các cơ quan lÃnh đạo và quản lý ở
các cấp, các ngành; chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ bà mẹ và trẻ em; tạo điều kiện
để người phụ nữ thực hiện tốt thiên chức người mẹ; xây dựng gia đình no ấm,
bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc {1, tr. 36}. Điều này sẽ góp phần quan trọng vào

việc hạn chế mặt trái của nền kinh tế thị trường víi nhiỊu vÊn ®Ị x· héi nhøc nhèi
trong mét sè lĩnh vực hiện nay: quản lý của nhà nước còn yếu, việc thi hành pháp
luật và kỷ cương chưa nghiêm, tệ nạn mại dâm, ma tuý, buôn bán phụ nữ còn
nhiều...
+ Bên cạnh đó, để thực hiện các cam kết về bình đẳng giới, ngày 21/01/2002
Thủ tướng Chính phủ đà ký quyết định phê duyệt Chiến lược quốc gia vì sự tiến
bộ của phụ nữ Việt Nam đến 2010 với mục tiêu: lồng ghép những giải pháp
nhằm tăng cường bình đẳng giới trong các chính sách, chương trình, dự án, kết
hợp hài hoà các mục tiêu bình đẳng giới với các mục tiêu phát triển kinh tế - xÃ
hội của ngành.
Đồng thời, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam đà tham mưu cho Bộ chính trị
xây dựng nghị quyết về tăng cường sự lÃnh đạo của Đảng trong công tác vận
động phụ nữ và cán bộ nữ thời kỳ công nghiệp hoá và hiện đại hoá nhằm xây
dựng đội ngũ cán bộ nữ làm nòng cốt để thúc đẩy phòng trào phụ nữ phát triển,
tạo điều kiện cho phụ nữ khẳng định, phát huy khả năng của mình trong mọi lĩnh
vực, đảm bảo tăng về số lượng, nâng cao chất lượng, đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.


8

Ngày nay, nước ta đang trong thời kỳ đổi mới, việc quán triệt và vận
dụng
sáng tạo chủ trương, đường lối chiến lược mà Đảng và Nhà nước ta thực sự là một
yêu cầu cấp thiết để đoàn kết thống nhất phụ nữ cả nước với tinh thần năng động
sáng tạo và ý chí vượt lên, góp phần thiết thực và có hiệu quả vào việc thực hiện
mục tiêu bình đẳng, phát triển và hoà bình cho phụ nữ trong thế kỷ XXI.
1.2. Pháp luật về bảo vệ quyền của phụ nữ ở Việt Nam

1.2.1. Khái niệm pháp luật về bảo vệ quyền của phụ nữ

Bảo vệ quyền con người luôn là mục tiêu chính của nhiều nhà nước trên thế
giới trong đó có Nhà nước ta. Luật quốc tế hiện đại cũng xác định bảo vệ quyền
con người là một nội dung chủ yếu của đối tượng điều chỉnh. Bởi vì quyền con
người không phải là nhân tố đầu tiên có trước nhà nước mà phải bằng pháp luật
thông qua việc được Nhà nước ghi nhận và thiết định mới thành hiện thực. Chính
vì lẽ đó, quyền con người một mặt mang tính chất tự nhiên là quyền mà con
người vốn có, không phải ai ban tặng cho họ nhưng mặt khác khi các quyền tự
nhiên ấy được pháp luật thừa nhận thì nó lại trở thành quyền công dân.
Nhìn chung, phụ nữ được coi là nhóm xà hội đặc biệt, do đặc trưng về thể
chất và gánh nặng đa vai trò về giới của họ. Phụ nữ là lực lượng chiếm hơn nửa
thế giới nên có vị trí quan träng trong sù ®iỊu chØnh cđa Lt qc tÕ vỊ quyền
con người. Chính vì vậy, có nhiều Công ước quốc tế được ban hành với mục tiêu
bảo vệ quyền con người của phụ nữ, đảm bảo cho họ được đối xử bình đẳng với
nam giới.
Việt Nam luôn xác định con người là trung tâm của xà hội, vừa là chủ thể
vừa là khách thể của pháp luật. Vì thế, hệ thống pháp luật nước ta ngay từ khi
mới hình thành ®· chó träng ®Õn viƯc ghi nhËn qun con ng­êi nói chung và
quyền con người của phụ nữ nói riêng. Với xu hướng một mặt ghi nhận và đảm
bảo các quyền bình đẳng của phụ nữ, mặt khác, pháp luật cũng quy định cho phụ
nữ những quyền mang tính chất ưu tiên. Từ đó, tạo nên một hệ thống qui phạm
bảo vệ quyền phụ nữ trong pháp luật Việt Nam.
Hiện nay, trong khoa häc ph¸p lÝ ViƯt Nam nãi chung và khoa học Lý luận
chung về nhà nước và pháp luật nói riêng chưa đưa ra một khái niệm thống nhất
về pháp luật bảo vệ quyền phụ nữ. Tuy nhiên, xét một cách khái quát nhất có thể
đưa ra một khái niệm chung của pháp luật về bảo vệ quyền phụ nữ như sau:

Pháp luật bảo vệ quyền của phụ nữ bao gồm tổng thể các qui phạm pháp
luật do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh các quan hệ xà hội
liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ trong các lĩnh vực kh¸c nhau



9

cđa ®êi sèng x· héi, cã tÝnh ®Õn sù ­u tiên dành cho nữ giới và được Nhà nước
đảm bảo thực hiện.
Pháp luật về bảo vệ quyền của phụ nữ không chỉ ghi nhận các quyền con
người của phụ nữ mà còn quy định các biện pháp đảm bảo cho các quyền đó
được thực hiện và các biện pháp bảo vệ các quyền đó. Bởi trên thực tế, do ảnh
hưởng của các yếu tố tôn giáo, định kiến xà hội và sinh lý nên quyền của phụ nữ
thường hay bị xâm phạm và người phụ nữ thường phải chịu sự phân biệt đối xử
trong mọi lĩnh vực. Vì thế, việc ghi nhận và bảo vệ các quyền con người của phụ
nữ bằng cách sử dụng công cụ pháp luật là hết sức cần thiết, pháp luật là yếu tố
đóng vai trò quyết định khả năng thực hiện các quyền đó trên thực tế bởi tính
được đảm bảo bằng nhà nước.

1.2.2. Qui định của pháp luật quốc tế về bảo vệ quyền của phụ nữ.
Có thể nói, để xây dựng một xà hội hoà bình, ổn định, dân chủ thì yếu tố
bình đẳng được coi là nền tảng, là thước đo giá trị phẩm giá và quyền con người
trong xà hội. Tuy nhiên, từ xưa đến nay, trong xà hội luôn tồn tại ba hình thức bất
bình đẳng chủ yếu mà Mác và ăng ghen từng xác định, đó là bất bình đẳng về
chủng tộc, giai cấp và giới.
Phụ nữ chiếm hơn một nửa nhân loại nhưng chưa được đối xử một cách
xứng đáng. Chính vì vậy, thực hiện bình đẳng giới chính là vấn đề cốt lõi trong
việc bảo vệ quyền con người cho phụ nữ. Để giải quyết vấn đề này, từ đầu thế kỉ
XX đến nay, có rất nhiều các văn bản qui phạm pháp luật được ban hành có ý
nghĩa bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ trong xà hội đà tác động mạnh mẽ và
hiệu quả đến sự bình đẳng giữa nam và nữ trên thực tế.
Vào đầu thế kỉ XX, tổ chức lao động quốc tế (ILO) đà ban hành một số công
ước có ý nghĩa bảo vệ người phụ nữ. Tuy nhiên, những công ước này chỉ giới hạn
trên lĩnh vực lao động, việc làm và trợ cấp xà hội chứ chưa đề cập đến khái niệm

cụ thể là quyền của phụ nữ. Vấn đề quyền bình đẳng của phụ nữ chỉ nhận được
mối quan tâm đặc biệt và có những chuyển biến mạnh mẽ kể từ khi Liên Hợp
Quốc được thành lập. Trong lời nói đầu của Hiến chương Liên Hợp Quốc đà xác
định mục tiêu của tổ chức này là: ...khẳng định lòng tin tưởng ở những quyền cơ
bản của con người ở phẩm giá và giá trị của con người, ở quyền bình đẳng giữa
nam và nữ...{9,tr. 5}
Để thực hiện mục tiêu này, Liên Hợp Quốc đà tiến hành thành lập Uỷ ban về
địa vị phụ nữ trực thuộc Hội đồng kinh tế - xà hội của Liên Hợp Quốc vào năm
1946 với chức năng nghiên cứu và đưa ra khuyến nghị, soạn thảo văn kiện quốc
tế


10

nhằm thúc đẩy sự tiến bộ của phụ nữ.
Năm 1949, Liên hợp quốc đà ban hành Công ước về trấn áp việc buôn người
và bóc lột mại dâm người khác. Công ước này có nội dung nhằm hạn chế và xoá
bỏ một trong những hình thức xâm hại phụ nữ tồi tệ nhất, đó là buôn bán và bóc
lột tình dục phụ nữ.
Năm 1952, Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua Công ước về các quyền
chính trị của phụ nữ. Công ước này qui định, phụ nữ bình đẳng với nam giới trên
mọi lĩnh vực, có quyền bầu cử và ứng cử, quyền được nhận vào làm việc trong
các cơ quan nhà nước.
Năm 1957, Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua công ước thứ ba, đó là
Công ước về quốc tịch của phụ nữ khi kết hôn. Công ước này qui định, phụ nữ
không thể bị thay đổi quốc tịch một cách đương nhiên do kết hôn hay do huỷ bỏ
hôn nhân hoặc do người chồng thay đổi quốc tịch.
Năm 1962, Điều ước quốc tế thứ tư nhằm bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ
được ban hành, đó là Công ước về đăng ký kết hôn, tuổi tối thiểu khi kết hôn và
kết hôn tự nguyện. Công ước này khẳng định người phụ nữ có quyền lựa chọn

người phối ngẫu, phụ nữ được bảo vệ chống lại các tệ nạn tảo hôn và cưỡng ép
kết hôn.
Năm 1967, Đại hội đồng Liên hợp quốc đà thông qua Tuyên ngôn về xoá bỏ
tất cả các hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ. Nội dung văn kiện tuyên bố phụ
nữ có quyền bình đẳng với nam giới trước pháp luật, bao gồm cả quyền sở hữu về
tài sản. Tuyên ngôn cũng khẳng định nghĩa vụ của các bậc cha mẹ trong việc bảo
đảm sự bình đẳng cho con cái, cấm tảo hôn, đính hôn với trẻ em.
Tuy nhiên, trong thùc tiƠn, ë nhiỊu qc gia trªn thÕ giíi bất chấp sự tồn tại
của các văn kiện trên, tình trạng phân biệt đối xử với phụ nữ vẫn khá phổ biến và
được bảo vệ bởi những định kiến mang tính chất rập khuôn trong các tập tục,
trong văn hoá tín ngưỡng. Điều đó đà gây trở ngại lớn cho phụ nữ trong khi tham
gia vào đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá của đất nước cũng như trong các quan
hệ gia đình. Để khắc phục những tình trạng trên, cộng đồng quốc tế nhận thấy
cần thiết phải có công ước quốc tế chuyên biệt về chống phân biệt đối xử với phụ
nữ, nhằm trả lại những giá trị ®Ých thùc cho nh÷ng cèng hiÕn cđa phơ n÷ ®èi với
gia đình và xà hội. Đồng thời, góp phần phát triển và hoàn thiện khung pháp luật
quốc tế để từ đó có cơ sở cho việc bảo đảm và hiện thực hoá quyền bình đẳng của
phụ nữ ở từng quốc gia.
Với những lý do đó, Công ước về xoá bỏ tất cả những hình thức phân biệt
đối


11

xử với phụ nữ (CEDAW) được soạn thảo vào năm 1972 vµ cã hiƯu lùc tõ ngµy
03/09/1981. HiƯn nay, cã 169 quốc gia trên thế giới tham gia Công ước. Việt
Nam phê chuẩn công ước này vào ngày 17/02/1982.
Có thể nói, CEDAW là một Công ước đa phương phổ cập trong hệ thống các
Công ước quốc tế về quyền con người của Liên hợp quốc, đề cập đến quyền con
người của một nhóm xà hội nhất định, đó là phụ nữ. Nội dung gồm lời mở đầu, 6

phần và 30 điều, là sự tiếp nối và hoàn chỉnh nhất các Công ước về quyền con
người trước đó. CEDAW không tập trung đề cập đến các quyền cụ thể của phụ
nữ mà hướng vào cách thức, biện pháp nhằm loại trừ sự phân biệt đối xử với phụ
nữ.
Phương thức tiếp cận của CEDAW:
Theo nhiều nhà nghiên cứu thì trong lịch sử lập pháp có ba mô hình bình
đẳng nam - nữ:
Mô hình bình đẳng hình thức: theo mô hình này, tất cả các quy tắc luật pháp
đều theo một tiêu chuẩn chung, duy nhất dành cho cả nam và nữ, không tính đến
sự khác biệt về giới tính. Mô hình này dẫn đến sự bất bình đẳng trên thực tế với
phụ nữ bởi lẽ, với đặc trưng yếu thế và gánh nặng đa vai trò về giới, phụ nữ sẽ
chịu thiệt thòi rất lớn so với nam giới trên mọi lĩnh vực, nhưng không được pháp
luật bảo vệ.
Mô hình bình đẳng bảo vệ: cho rằng cần tính đến sự khác biệt giới tính giữa
nam và nữ, nhưng lại cho rằng sự khác biệt đó là không thể tránh khỏi của phụ
nữ, vì vậy giải pháp cho vấn đề là hạn chế việc phụ nữ tham gia vào một số lĩnh
vực liên quan đến những điểm yếu của họ.
CEDAW không lựa chọn 2 mô hình nêu trên để tiếp cận vấn đề mà sử dụng
mô hình bình đẳng bản chất. Mô hình này quan tâm đến sự khác biệt về giới và
giới tính giữa nam và nữ, đồng thời chú trọng ®Õn sù t¸c ®éng cđa phong tơc tËp
qu¸n coi ®ã là nguyên nhân sâu xa dẫn đến tình trạng người phụ nữ chưa được
đối xử một cách bình đẳng thực sự. Từ đó, Điều 4 của Công ước đòi hỏi sự bình
đẳng phải được nhìn nhận ở cấp độ cao hơn khi thiết lập mục tiêu riêng và việc
tiếp cận giải quyết vấn đề bất bình đẳng giới theo hướng khắc phục tức là
không chỉ đưa ra những qui phạm pháp lý chung, áp dụng cho cả nam và nữ mà
còn xây dựng những qui phạm pháp lý riêng, có tính chất ưu tiên, chỉ áp dụng
cho phụ nữ nhằm đạt được mục tiêu bình đẳng về cơ hội và kết quả thụ hưởng
quyền con người của phụ nữ so với nam giới.
Ngoài ra, một vấn đề tất yếu của quá trình hiện thực hoá địa vị bình đẳng
của phụ nữ trong các hoạt động thực tế, là đổi mới tư duy nhận thức về bình đẳng



12

nam nữ trong xà hội, đà được Công ước đề cập đến tại Điều 5 và Điều 6, và coi
đó là biện pháp liên quan đến sự thay đổi mẫu hình văn hoá - xà hội, biện pháp
giáo dục trong gia đình và ngoài xà hội. Đây được coi là mô hình tiếp cận tiến
bộ, triệt để nhất và thực chất nhất trong việc bảo đảm quyền bình đẳng nam nữ
trên thế giới bởi nó hạn chế được tính cao bằng, bình quân của mô hình bình
đẳng hình thức, coi phụ nữ và nam giới là những chủ thể bình đẳng trong các
quan hệ pháp luật. Đồng thời, mô hình này cũng khắc phục được sự phân biệt về
giới tính của phụ nữ dẫn đến sự hạn chế quyền của người phụ nữ trong một số
lĩnh vực liên quan đến điểm yếu của họ trong mô hình bảo vệ.
+ Nội dung chính của CEDAW:
So với các công ước quốc tế về nhân quyền, khái niệm phân biệt đối xử với
phụ nữ được qui định tại Điều 1 của CEDAW được định nghĩa một cách chi tiết
hơn. Theo CEDAW, bất kì sự đối xử khác biệt, sự loại trừ hay hạn chế nào, được
dựa trên cơ sở giới tính, mang mục đích hay mang tính chất cản trở hoặc gây
thiệt hại, dẫn đến việc phụ nữ không được công nhận sự hưởng thụ hoặc thực
hiện các quyền con người và các quyền tự do cơ bản của mình trong bất kì lĩnh
vực nào của cuộc sống sẽ bị coi là phân biệt đối xử với phụ nữ. Nội hàm khái
niệm phân biệt đối xử như trên không đồng nghĩa với việc cho rằng, tất cả mọi sự
đối xử khác biệt đều là biểu hiện của phân biệt đối xử với phụ nữ. Các điều khoản
thuộc Phần I của CEDAW đà đưa ra một cách tiếp cận vấn đề mới mà không đề
cập vấn đề bất bình đẳng một cách chung chung, CEDAW chỉ ra những lĩnh vực
cụ thể có sự phân biệt đối xử nặng nề đối với phụ nữ như: hôn nhân gia đình,
quan hệ dân sự, lao động việc làm, đời sống chính trị, giáo dục đào tạo...Bằng
cách nhìn riêng đối với đối tượng là những người bị tổn thương trong xà hội,
Công ước đà tiến đến thiết lập hệ thống những mục tiêu thiết thực cho sự bình
đẳng về quyền của phụ nữ: bình đẳng về cơ hội và bình đẳng về kết quả trong

việc hưởng các quyền ở các lĩnh vực xà hội.
Bình đẳng trong đời sống chính trị và công cộng:
Điều 7 của Công ước qui định ràng buộc chính phủ các nước thành viên vào
nghĩa vụ phải hành động để tạo lập sự bình đẳng cho phụ nữ trong đời sống chính
trị và công cộng trên cả hai cấp độ, quốc gia và quốc tế. CEDAW ghi nhận những
quyền chính trị quan trọng của phụ nữ như: quyền tham gia vào quản lý nhà
nước, quản lý xà hội, quyền bầu cử, ứng cử, quyền bỏ phiếu kín, đặc biệt là
quyền được đại diện một cách xứng đáng cho quốc gia mà mình là công dân
trong các cuộc tiếp xúc quốc tế với tư cách là thành viên của các phái đoàn tại
các hội nghị hoặc tổ chức quốc tế, kể cả các hoạt động cđa c¸c tỉ chøc phi chÝnh


13

phủ. Trong hai cấp độ, đêớ đảm bảo quyền bình đẳng trong lĩnh vực chính trị, sự
đại diện bình đẳng của phụ nữ tại các diễn đàn và tổ chức quốc tế là không dễ
dàng, nên Điều 8 của Công ước yêu cầu các quốc gia thành viên phải sử dụng
những biện pháp đặc biệt tạm thời nhằm đảm bảo quyền bình đẳng của phụ nữ
trong các thiết chế mà quốc gia đó là thành viên.
Bình đẳng trong lĩnh vực quốc tịch của phụ nữ và con của họ:
Tại §iỊu 9 cđa CEDAW ®Ị cËp ®Õn mét vÊn ®Ị vốn luôn tồn tại sự phân biệt
đối xử với phụ nữ, đó là việc thiết lập tư cách công dân của phụ nữ thông qua mối
quan hệ về quốc tịch. Tư cách công dân có ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện
quyền chính trị - dân sự của mỗi cá nhân. Vì thế, CEDAW yêu cầu các quốc gia
thành viên phải đảm bảo cho phụ nữ các quyền giống như nam giới trong việc
nhận, thay đổi hay giữ quốc tịch cá nhân và tham gia vào việc quyết định quốc
tịch của con do họ sinh ra. Chính các qui định này thể hiện sự tác động mạnh mẽ
nhằm mục đích thay đổi vị trí bất bình đẳng mà người phụ nữ đà phải cam chịu
trong một thời gian dài. Điều này cũng chấm dứt trên thực tế sự lệ thuộc của phụ
nữ vào nam giới trong khi thiết lập quan hệ hôn nhân gia đình và có ý nghĩa để

giải phóng phụ nữ khỏi những áp lực không mong muốn trong các hoạt động
thực tiễn từ phía nam giới.
Đảm bảo sự bình đẳng cho phụ nữ trong đời sống kinh tế - xà hội - văn

hoá
Theo qui định tại Điều 10 của Công ước, phụ nữ có quyền được giáo dục và
đào tạo như nam giới (bao gồm bình đẳng trong hưởng cơ hội, điều kiện, chương
trình, các cấp đào tạo, ngành nghề và các chế độ trợ cấp học tập), đây là cơ sở
quan trọng để pháp luật và xà hội trao cho họ các quyền thực sự trên tất cả các
lĩnh vực.
Trong lĩnh vực, lao động, việc làm và y tế, Điều 11 và 12 của Công ước cũng
có sự tiếp cận tương tự như trong lĩnh vực giáo dục, với mục tiêu giải phóng phụ
nữ và bảo vệ phụ nữ thoát khỏi các hình thức xâm hại tại nơi làm việc, nhất là
nạn xâm hại tình dục và bạo hành với phụ nữ.
Đối với lĩnh vực y tế thì Công ước đà có một sự liên hệ đặc biệt với hoạt
động kế hoạch hoá gia đình ở các quốc gia thành viên, theo đó cả phụ nữ và nam
giới đều được tự nguyện lựa chọn việc kế hoạch hoá gia đình của họ.
Nghĩa vụ của các quốc gia thành viên được xác định tại Điều 13 và 14 của
Công ước là cung cấp thông tin có ích, giáo dục phương pháp thích hợp và được
chấp nhận trên các phương tiện y tế về kế hoạch hoá gia đình cho công dân nước
đó nói chung và công dân nữ nói riêng. Như vậy, bất kì một điều luật nào tạo ra


14

sự hạn chế với phụ nữ nhất là phụ nữ nông thôn trong việc tiếp xúc với vấn đề kế
hoạch hoá gia đình hoặc các điều kiện thuận lợi về mặt y tế sẽ bị coi là vi phạm
Công ước.
Đảm bảo sự bình đẳng cho phụ nữ trong các vấn đề về dân sự, pháp lí.
Tại Điều 15 và 16 của Công ước đà chính thức xác nhận địa vị bình đẳng

của phụ nữ với nam giới trước pháp luật. Những qui định của pháp luật quốc gia
có sự hạn chế phụ nữ tham gia các quan hệ về sở hữu tài sản, giao dịch dân sự,
hay hạn chế quyền tự do đi lại, cư trú của phụ nữ đều phải bị bÃi bỏ. Mặt khác,
các quốc gia thành viên còn phải có nghĩa vụ tạo cơ chế và biện pháp thích hợp
để đảm bảo quyền bình đẳng và tự do cho phụ nữ trong các quan hệ kết hôn, ly
hôn, tái hôn và các quan hệ gia đình khác.
Bên cạnh việc ghi nhận quyền bình đẳng chung của phụ nữ về dân sự, pháp
lý, Công ước dành sự quan tâm đáng kể đối với đối tượng là phụ nữ sống ở các
vùng nông thôn. Điều 14 của Công ước xác nhận, phụ nữ nông thôn thuộc nhóm
phụ nữ có những vấn đề cần được sự quan tâm đặc biệt, bởi họ là người phải chịu
đựng nhiều nhất gánh nặng của sự bất bình đẳng về nhiều lĩnh vực, nhất là trong
việc hưởng thành quả lao động của bản thân hay lợi ích từ sự phát triển. Nên
Công ước yêu cầu các quốc gia thành viên phải xây dựng các kế hoạch hành
động đảm bảo cho phụ nữ nông thôn có điều kiện tham gia vào các chương trình
phát triển, giáo dục đào tạo cũng như được hưởng thụ lợi ích từ sự phát triển nông
thôn. Ngoài ra, CEDAW còn qui định cụ thể về cơ chế thực hiện Công ước thông
qua Uỷ ban xoá bỏ sự phân biệt đối xử với phụ nữ và cơ chế báo cáo quốc gia. Từ
Điều 17 đến Điều 22 của Công ước đề cập đến việc thành lập cũng như cơ cấu tổ
chức và hoạt động của Uỷ ban xoá bỏ sự phân biệt đối xử với phụ nữ nhằm mục
đích giám sát việc thi hành CEDAW của các nước thành viên thông qua các báo
cáo định kỳ của các quốc gia thành viên.
Nói tóm lại, qua tìm hiểu nội dung của Công ước CEDAW, chúng ta có thể
thấy rằng CEDAW là văn bản pháp lí quốc tế đóng vai trò quan trọng tạo đà cho
sự phát triển và hoàn thiện các chn mùc qc tÕ vỊ qun con ng­êi vµ tù do
cơ bản của phụ nữ, đặc biệt là quyền bình đẳng nam nữ. CEDAW đà và đang trở
thành là một khuôn khổ pháp lí quốc tế thống nhất hành động giữa các quốc gia
trong việc thừa nhận, bảo đảm thực hiện và liên tục phát triển quyền bình đẳng
của phụ nữ trong thế giới hiện đại.



15

1.2.3 Qui định của pháp luật Việt Nam về việc bảo vệ quyền của phụ nữ
trong một số lĩnh vực
a. Trong lĩnh vực chính trị.
Quyền chính trị của phụ nữ là một trong những quyền quan trọng, nhạy cảm
được đề cập khá toàn diện, sâu sắc trong CEDAW. Quyền chính trị của phụ nữ
được hiểu là những quyền của phụ nữ trong đời sống chính trị và công cộng của
đất n­íc. Chóng bao gåm c¸c qun: qun bá phiÕu, qun ứng cử, quyền tham
gia xây dựng và thực hiện chính sách, tham gia các chức vụ của nhà nước và thực
hiện chức năng công cộng ở các cấp, tham gia các tổ chức và hiệp hội phi chính
phủ liên quan đến đời sống công cộng và chính trị của đất nước. Vì vậy để thực
hiện được các quyền chính trị của phụ nữ, cần tiến hành các biện pháp thích hợp
nhằm xoá bỏ sự phân biệt đối xử với phụ nữ và đặc biệt phải đảm bảo quyền của
phụ nữ trên cơ sở sự bình đẳng với nam giới.
Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng 8 năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân
chủ cộng hoà dưới sự lÃnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt
Nam đà tiến hành xây dựng hệ thống pháp luật mới, trong đó quyền chính trị của
phụ nữ được quan tâm và được ghi nhận thành một nguyên tắc Hiến định ngay từ
Hiến pháp đầu tiên (Hiến pháp năm 1946) và tiếp tục được kế thừa và phát triển
trong các bản Hiến pháp và các văn bản pháp luật về sau.
Ngay trong lời nói đầu Hiến pháp năm 1946 đà xác định 3 nguyên tắc cơ
bản của Hiến pháp, trong đó có nguyên tắc đoàn kết toàn dân không phân biệt
giống nòi, gái trai, giai cấp, tôn giáo{10, tr7}.
Trên cơ sở đó, Điều 1 Hiến pháp năm 1946 khẳng định Nước Việt Nam là
một nước dân chủ cộng hoà. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân
dân Việt Nam không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn
giáo. Đây là bước ngoặt lớn trong sự phát triển của tư tưởng dân chủ, rút ngắn
được khoảng cách phân biệt đối xử giữa nam và nữ. Lần đầu tiên trong lịch sử
Việt Nam, quyền bình đẳng trước pháp luật của mọi công dân được Hiến pháp đạo luật có giá trị pháp lý cao nhất ghi nhận cụ thể tại Điều 6 Tất cả công dân

Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện: chính trị, kinh tế, văn hoá và
Điều 7 Tất cả công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật, đều được tham
gia chính quyền và công cuộc kiến quốc tuỳ theo tài năng và đức hạnh của
mình. Đây cũng là lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, pháp luật đà thừa nhận
đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện (Điều 9). Qui định này đÃ
tạo tiền đề và cơ sở cho những thay đổi lớn về địa vị của người phụ nữ trong pháp
luật và trong thực tế ở Việt Nam giai đoạn sau này.


16

Bên cạnh đó, để bảo vệ quyền bầu cử, ứng cử của công dân nữ, Điều 18
Hiến pháp năm 1946 quy định: Tất cả công dân Việt Nam, từ 18 tuổi trở lên,
không phân biệt gái trai, đều có quyền bầu cử, trừ những người mất trí và những
người mất công quyền. Người ứng cử phải là người có quyền bầu cử, phải ít ra là
21 tuổi, và phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ . Tại Điều 20 của Hiến pháp
năm 1946 quy định: Nhân dân có quyền bÃi miễn các đại biểu mình đà bầu ra.
Ngoài ra, theo qui định tại Điều 21 của Hiến pháp năm 1946 Nhân dân có quyền
phúc quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia .
Có thể nói, Hiến pháp 1946 chứa đựng những nội dung thực sự tiến bộ dù nó
được ra đời trong bối cảnh Việt Nam vừa thoát khỏi chế độ thực dân phong kiến,
trong xà hội vẫn còn tồn tại những tàn dư của xà hội cũ, những định kiến khắt
khe với người phụ nữ. Nếu đem so sánh với hiến pháp cđa mét sè qc gia trªn
thÕ giíi cịng nh­ víi pháp luật quốc tế, chúng ta càng nhận thức sâu sắc hơn giá
trị và ý nghĩa của Hiến pháp năm 1946 khi qui định về quyền bình đẳng của phụ
nữ.
Kế thừa những nội dung tiến bộ của Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm
1959 đà có những điều luật qui định trực tiếp và cụ thể hơn quyền bình đẳng nam
nữ và quyền chính trị của phụ nữ. Tại Điều 22 và Điều 23 Hiến pháp năm 1959
tiếp tục khẳng định mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, Công dân

nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, không phân biệt dân tộc, nòi giống, nam nữ,
thành phần xà hội, tôn giáo tín ngưỡng, tình trạng tài sản, trình độ văn hoá, nghề
nghiệp, thời hạn cư trú, từ mười tám tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và hai mươi
mốt tuổi trở lên có quyền ứng cử, trừ những người mất trí và những người bị toà
án hoặc pháp luật tước quyền bầu cử và ứng cử.
Đồng thời, Hiến pháp năm 1959 cũng bổ sung thêm những nội dung mang
tính cụ thể nhằm bảo đảm tốt hơn quyền bình đẳng của phụ nữ trên các lĩnh vực
của đời sống xà hội. Cụ thể: tại Điều 24 Hiến pháp năm 1959 qui định: Phụ nữ
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà có quyền bình đẳng với nam giới về các mặt
sinh hoạt chính trị, kinh tế, văn hoá, xà hội và gia đình. Cùng làm việc như nhau,
phụ nữ được hưởng lương ngang bằng với nam giới. Nhà nước bảo đảm cho phụ
nữ công nhân và phụ nữ viên chức được nghỉ trước và sau khi đẻ mà vẫn hưởng
nguyên lương. Nhà nước bảo hộ quyền lợi của người mẹ và của trẻ em, bảo đảm
phát triển các nhà đỡ đẻ, nhà giữ trẻ và vườn trẻ. Nhà nước bảo hộ hôn nhân và
gia đình
Điều 25 Hiến pháp năm 1959 quy định : Công dân nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà không phân biệt nam nữ đều có các quyền tự do ngôn luận, báo chí, hội


17

họp, lập hội và biểu tình. Nhà nước đảm bảo các điều kiện vật chất cần thiết để
công dân được hưởng các quyền đó.
Những qui định của Hiến pháp năm 1959 đà góp phần tạo điều kiện để chị
em phụ nữ trong giai đoạn này có cơ hội tham gia vào các hoạt động lao động,
sáng tạo, để vượt ra khỏi những trói buộc của gia đình phong kiến, phá bá quan
niƯm trun thèng cho r»ng ng­êi phơ n÷ chØ lao động trong ngành nông nghiệp
như bao đời nay và khẳng định được chỗ đứng vững chắc của phụ nữ trong hoạt
động chính trị, kinh tế, văn hoá và xà hội.
Hiến pháp năm 1980 được Quốc Hội khoá VI kỳ họp thứ bảy thông qua

ngày 18/12/1980 tiếp tục kế thừa và phát triển những qui định của Hiến pháp
năm 1946 và Hiến pháp năm 1959 (tại các Điều 55, 57, 63) và thể hiện sự bảo
đảm quyền bình đẳng của phụ nữ ở mức độ cao hơn hẳn so với các Hiến pháp
trước đó. Bên cạnh những qui định mang tính nguyên tắc xác định quyền của phụ
nữ với tư cách như một công dân: mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật
(Đ55 Hiến pháp năm 1980) hay qui định: về quyền bầu cử và ứng cử tại Điều 57
của Hiến pháp, nội dung của Hiến pháp năm 1980 còn chứa đựng những qui định
riêng về quyền và lợi ích của phụ nữ. Chẳng hạn qui định tại Điều 63 của Hiến
pháp năm 1980 phụ nữ và nam giới có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị,
kinh tế, văn hoá, xà hội và gia đình. Nhà nước và xà hội chăm lo nâng cao trình
độ chính trị, văn hoá, khoa học, kỹ thuật và nghề nghiệp của phụ nữ, không
ngừng phát huy vai trò của phụ nữ trong xà hội. Nhà nước có chính sách lao động
phù hợp với điều kiện của phụ nữ. Phụ nữ và nam giới việc làm như nhau thì tiền
lương ngang nhau. Phụ nữ có quyền nghỉ trước và sau khi sinh đẻ mà vẫn hưởng
nguyên lương nếu là công nhân, viên chức, hoặc hưởng phụ cấp sinh đẻ nếu là xÃ
viên hợp tác xÃ.
Với việc qui định trách nhiệm của Nhà nước và xà hội trong hoạt động chăm
lo nâng cao trình độ chính trị, văn hoá...của phụ nữ, nội dung của Hiến pháp
1980 đà đi vào chiều sâu của vấn đề bình đẳng giới, giải phóng phụ nữ, góp phần
phát huy vai trò của người phụ nữ trong xà hội cũng như trách nhiệm của Nhà
nước trong việc xây dựng chính sách lao động phù hợp với điều kiện của phụ nữ.
Từ năm 1986, Việt Nam bước vào thời kỳ đổi mới toàn diện. Nhiều chính
sách kinh tế - xà hội của Nhà nước được thi hành nhằm phát triển nền kinh tế thị
trường theo định hướng xà hội chủ nghĩa, kiên quyết xoá bỏ chế độ tập trung
quan liêu bao cấp, cho phép các thành phần kinh tế phát triển, mở rộng các quan
hệ quốc tế. Hiến pháp năm 1992 đà ra đời trong hoàn cảnh đó. So với các Hiến
pháp trước, quyền bình đẳng trong Hiến pháp năm 1992 cã néi dung toµn diƯn


18


hơn, đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng chung của xà hội. Các qui định trong các bản
Hiến pháp trước tiếp tục được kế thừa tại các Điều 52, Điều 53, Điều 54 của Hiến
pháp năm 1992. Ngoài ra, các nội dung thể hiện chiều sâu của vấn đề quyền bình
đẳng nam và nữ, cũng như vấn đề giải phóng phụ nữ trong Hiến pháp năm 1980
về cơ bản vẫn được Hiến pháp năm 1992 ghi nhận nhưng ở mức độ toàn diện
hơn.
Chẳng hạn, Điều 63 Hiến pháp năm 1992 qui định: Công dân nữ và nam
ngang quyền nhau về mọi mặt chính trị, văn hoá, xà hội và gia đình. Nghiêm cấm
mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ. Lao động
nữ và nam làm việc như nhau thì tiền lương ngang nhau. Lao động nữ có quyền
hưởng chế độ thai sản. Phụ nữ là viên chức nhà nước và người làm công ăn lương
có quyền nghỉ trước và sau khi sinh đẻ mà vẫn hưởng lương, phụ cấp theo qui
định của pháp luật. Nhà nước và xà hội tạo điều kiện để phụ nữ nâng cao trình độ
mọi mặt, không ngừng phát huy vai trò của mình trong xà hội, chăm lo phát triển
các nhà hộ sinh, khoa nhi, nhà trẻ và các cơ sở phúc lợi xà hội khác để giảm gánh
nặng gia đình, tạo điều kiện cho phụ nữ sản xuất, công tác, học tập, chữa bệnh,
nghỉ ngơi và làm tròn bổn phận người mẹ. Nội dung Điều 63 Hiến pháp năm
1992 đà bổ sung thêm một vấn đề mà Hiến pháp năm 1980 chưa quy định:
nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ
nữ. Có thể coi đây là việc chúng ta đà nội luật hoá các qui định của Luật quốc
tế về quyền phụ nữ mà chúng ta đà tham gia. Chính qui định bổ sung này đà quán
triệt toàn bộ nội dung cơ bản của Công ước CEDAW. Thêm vào đó, tại Điều 64
của Hiến pháp năm 1992 qui định: Nhà nước bảo hộ chế độ hôn nhân và gia
đình. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng
bình đẳng.
Nghị quyết sửa đổi bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992 ngày
25/12/2001 vẫn giữ nguyên những qui định tiến bộ về quyền bình đẳng nam nữ
được nêu rõ trong Hiến pháp năm 1992. Nhìn chung, vấn đề bình đẳng giới được
ghi nhận trong Hiến pháp năm 1992 đà có sự cụ thể hoá cho phù hợp với quá

trình đổi mới của đất nước, phù hợp với sự phát triển của nền văn minh nhân loại
cũng như những chuẩn mực pháp lí quốc tế.
Sự phát triển xuyên suốt và liên tục của các nguyên tắc và qui định về quyền
bình đẳng của phụ nữ trong các Hiến pháp Việt Nam từ năm 1946 đến nay không
chỉ thể hiện thông qua sự phát triển của các qui định cụ thể mà còn thể hiện ngay
trong sự thay đổi về cách diễn đạt. Điều 9 Hiến pháp năm 1946 qui định: đàn bà
ngang quyền với đàn ông trên mọi phương diện hay tại Điều 24 Hiến pháp năm


19

1959 qui định: Phụ nữ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà có quyền bình đẳng với
nam giới về các mặt sinh hoạt chính trị, kinh tế, văn hoá, xà hội và gia đình.
Còn tại Điều 63 Hiến pháp năm 1980 lại qui định: Công dân nữ và nam ngang
quyền nhau về mọi mặt chính trị, văn hoá, xà hội và gia đình. Xét trên phương
diện ngôn ngữ, sự thay thế từ với bằng từ và trong các qui định kĨ trªn mang
mét ý nghÜa lín lao, nã thĨ hiƯn sự thay đổi về mặt nhận thức, giữa quan điểm
xem đàn ông là chủ thể có vị trí cao hơn trong xà hội sang quan điểm coi phụ nữ
và đàn ông là những chủ thể hoàn toàn bình đẳng, đều là công dân của xà hội.
Ngoài ra, để cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp, quyền chính trị của phụ
nữ còn được ghi nhận trong các văn bản pháp luật hiện hành như: quyền bầu cử,
ứng cử vào các cơ quan quyền lực nhà nước được quy định trong Luật bầu cử đại
biểu Quốc hội năm 1997 được sửa đổi bổ sung năm 2001 và Luật bầu cử đại biểu
Hội đồng nhân dân năm 2003, quyền tham gia quản lý nhà nước, quản lý xà hội
được quy định trong Lt tỉ chøc ChÝnh phđ, Lt tỉ chøc toµ ¸n nh©n d©n, Lt
tỉ chøc ViƯn kiĨm s¸t nh©n d©n, Pháp lệnh cán bộ công chức, Pháp lệnh luật
sư...và các Nghị định của Chính phủ về việc ban hành quy chế dân chủ ở địa
phương và trong hoạt động của cơ quan ..., quyền khiếu nại, tố cáo được quy định
trong Luật khiếu nại tố cáo, Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự...
Nói tóm lại, với những qui định về quyền bình đẳng về chính trị của phụ nữ

được quy định trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật hiện hành không chỉ tạo
ra khung pháp lí hoàn thiện cho hệ thống pháp luật Việt Nam mà nó còn có ý
nghĩa là một cam kết của ViƯt Nam víi céng ®ång qc tÕ vỊ viƯc thùc hiện các
công ước quốc tế về quyền con người nói chung và công ước CEDAW nói riêng.

b. Trong lĩnh vực dân sự.
Trên cơ sở những nguyên tắc Hiến định về quyền bình đẳng nam nữ được
nêu rõ trong Hiến pháp, Điều 1 của Bộ luật Dân sự năm 1995 khẳng định: Bộ
luật Dân sự có nhiệm vụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức,
lợi ích của Nhà nước, lợi ích của cộng đồng, bảo đảm sự bình đẳng và an toàn
pháp lý trong quan hệ dân sự. Nội dung này còn được thể hiện trong các nguyên
tắc cơ bản của Bộ luật Dân sự mà rõ nét nhất là tại Điều 8 Bộ luật Dân sự năm
1995 đó là: Trong quan hệ dân sự, các bên bình đẳng, không được lấy lý do
khác biệt về dân tộc, giới tính, thành phần xà hội, hoàn cảnh kinh tế, tín ngưỡng,
tôn giáo, trình độ văn hoá, nghề nghiệp để đối xử không bình đẳng với nhau.
Không phân biệt giới tính trong việc công nhận và bảo vệ quyền nhân thân.
Phụ nữ cũng như nam giới mọi người đều có quyền được bảo đảm an toàn về
tính mạng, sức khoẻ, thân thể cùng những giá trị nhân thân của họ (Điều 32). Đó


20

là những quyền có từ khi con người được sinh ra và gắn liền với mỗi cá nhân
không phụ thuộc vào hoàn cảnh gia đình và nghề nghiệp, tuổi tác của họ. Điều 28
Bộ luật Dân sự năm 2005 qui định: Họ tên của mỗi người được xác định theo
họ, tên khai sinh của người đó. Đồng thời, cá nhân có quyền yêu cầu cơ quan
nhà nước có thẩm quyền công nhận việc thay đổi họ tên theo quy định của pháp
luật (Điều 29), cá nhân còn được hưởng các quyền khác như: quyền được bảo vệ
danh dự, nhân phẩm, uy tín (Điều 33), quyền đối với bí mật đời tư (Điều 34),
quyền đối với quốc tịch (Điều 41), quyền được bảo đảm an toàn về chỗ ở (Điều

42).
Ngoài ra, theo quy định của Điều 44 Bộ luật Dân sự năm 2005: Cá nhân có
quyền tự do đi lại, tự do cư trú theo quy định của pháp luật. Việc đi lại, lựa chọn
nơi cư trú do cá nhân quyết định phù hợp với nhu cầu, khả năng, hoàn cảnh của
mình. Người phụ nữ có quyền tự do đi lại, lựa chọn nơi cư trú cho mình, mà
không một ai có quyền ngăn cản. Đây là một trong những điều kiện để phụ nữ
có thể thực hiện được các quyền như: quyền lao động (Điều 45), quyền tự do
kinh doanh (Điều 46), quyền tự do sáng tạo, quyền tự do cư trú và được Nhà nước
bảo hộ các sản phẩm trí tuệ theo qui định tại Điều 47 Bộ luật Dân sự năm 2005.
Việc kết hôn cũng không làm hạn chế quyền của người phụ nữ. Điều 20 Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2000 qui định: Nơi cư trú của vợ, chồng do vợ, chồng
lựa chọn, không bị ràng buộc bởi phong tục, tập quán, địa giới hành chính. Cũng
theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005, phụ nữ nếu có năng lực hành vi dân
sự phù hợp với loại giao dịch dân sự mà luật dân sự cho phép thì có toàn quyền
tham gia và thực hiện loại giao dịch đó. Khi tham gia các giao dịch dân sự, phụ
nữ cũng có toàn quyền như nam giới trong việc thực hiện quyền định đoạt của
mình như: tự lựa chọn loại giao dịch để tham gia, chọn chủ thể tham gia, đối
tượng tham gia, biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, phương thức thanh
toán, phương thức kiện dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Không phân biệt giới tính trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ phát
sinh từ quan hệ pháp luật dân sự.
Pháp luật thừa nhận và bảo đaứm cho người có quyền dân sự có thể yêu cầu
người khác thực hiện những hành vi nhất định để thoả mÃn lợi ích hoặcỷ nhu cầu
của mình, bất kể họ là nam hay nữ trong quan hệ pháp luật dân sự. Chủ thể trong
quan hệ phải thực hiện nghĩa vụ của mình đối với người có quyền một cách đầy
đủ, đúng cam kết hoặc đúng quy định của pháp luật. Trong trường hợp bên có
nghĩa vụ dân sự không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không ®Çy ®đ nghÜa


21


vụ thì dù là nam giới hay nữ giới cũng đều phải chịu trách nhiệm dân sự đối với
bên có quyền.
Phụ nữ bình đẳng với nam giới trong việc xác lập và thực hiện quyền sở

hữu về tài sản.
Người có tài sản được xác lập dựa trên những căn cứ do pháp luật quy định
sẽ được luật dân sự thừa nhận là chủ sở hữu tài sản. Những căn cứ này được quy
định cụ thể tại Điều 170 Bộ luật Dân sự năm 2005 như xác lập quyền sở hữu
thông qua lao động sản xuất, kinh doanh mà có, do tham gia giao dịch dân sự, do
được thừa kế...Theo quy định này thì bất kì người nào dù là nam giới hay phụ nữ
đều được công nhận là chủ sở hữu hợp pháp đối với tài sản khi tài sản đó được
xác lập dựa trên những căn cứ hợp pháp.
Một người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, không phân biệt
nam nữ đều có quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản thuộc sở hữu của
mình theo ý chí của mình mà khoa học luật dân sự gọi là quyền chủ quan của chủ
sở hữu. Điều này được thể hiện cụ thể và rõ nét tại các Điều 164, 167, 184, 193,
197 Bộ luật Dân sự năm 2005.
Ngoài ra, sự bình đẳng giới trong việc thực hiện quyền sở hữu còn được biểu
hiện ở hành vi xác lập, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung của vợ
chồng. Tại Điều 36 Bộ luật Dân sự năm 2005 khẳng định: Vợ chồng bình đẳng
với nhau, có quyền và nghĩa vụ ngang nhau về mọi mặt trong gia đình và trong
giao lưu dân sự, cùng nhau xây dựng gia đình ấm no, bền vững, hoà thuận, hạnh
phúc, và các chủ sở hữu chung hợp nhất có quyền và nghĩa vụ ngang nhau đối
với tài sản thuộc sở hữu chung (Điều 217 Bộ luật Dân sự năm 2005), Tài sản
chung của vợ chồng do vợ chồng cùng nhau tạo lập, phát triển bằng công sức của
mỗi người; vợ, chồng có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định
đoạt tài sản chung. Vợ chồng cùng bàn bạc, thoả thuận hoặc uỷ quyền cho nhau
chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung (Điều 219). Chính những quy định
này đà khẳng định việc kết hôn hoàn toàn không ảnh hưởng đến việc hưởng thụ

và sử dụng các quyền dân sự của người phụ nữ. Mọi phụ nữ có năng lực hành vi
đều có thểớ tham gia vào các giao dịch dân sự phù hợp với các quy định của pháp
luật để phục vụ lợi ích của mình.
Pháp luật còn cho phép các chủ sở hữu dù là nam hay nữ đều có quyền sử
dụng bất động sản liền kề thuộc quyền sở hữu của người khác để đảm bảo các
nhu cầu cần thiết của mình như: quyền được mở lối đi, quyền được mắc đường
dây tải điện, quyền được cấp thoát nước...Đây là một quyền quan träng vµ cã ý


×