Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong bộ luật hình sự năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.77 MB, 104 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
----------------------

VŨ HỒNG SƠN

CÁC TÌNH TIẾT GIẢM NHẸ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
(Định hƣớng ứng dụng)

HÀ NỘI - 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
----------------------

VŨ HỒNG SƠN

CÁC TÌNH TIẾT GIẢM NHẸ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015
Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự
Mã số



: 24UD04019

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
(Định hƣớng ứng dụng)

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Hoàng Văn Hùng

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ cơng
trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng,
được trích dẫn đúng theo quy định.
Tơi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn
này.
Tác giả luận văn

Vũ Hoàng Sơn


LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian học tập, nghiên cứu lý luận và tìm hiểu cơng tác thực
tiễn, được sự quan tâm, chỉ bảo nhiệt tình của các thầy cơ đang công tác tại
trường Đại học luật Hà Nội, em đã hoàn thành Luận văn thạc sĩ luật học. Qua
đây, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến:
Ban giám hiệu cùng các thầy cô giáo Trường đại học luật Hà Nội đã tận

tình giảng dạy, truyền đạt nhiều kiến thức, kinh nghiệm quý báu trong suốt
thời gian em học tập tại trường.
Đặc biệt em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc đến TS. Hoàng
Văn Hùng người đã tận tình hướng dẫn, động viên, giúp đỡ em trong việc
hoàn thành bài luận văn này.
Cuối cùng, xin cảm ơn bạn bè và gia đình đã động viên, giúp đỡ em
trong suốt quá trình học tập.
Tác giả luận văn

Vũ Hoàng Sơn


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLHS

:

Bộ luật hình sự

BLTTHS

:

Bộ luật tố tụng hình sự

TNHS

:

Trách nhiệm hình sự


TAND

:

Tịa án nhân dân

VKSND

:

Viện kiểm sát nhân dân


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
CHƢƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TÌNH TIẾT GIẢM NHẸ
TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ .....................................................................................6
1.1. Khái quát lịch sử lập pháp về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong
pháp luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay .................................................... 6
1.2. Khái niệm về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự ................................ 9
1.2.1. Trách nhiệm hình sự ..................................................................................9
1.2.2. Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự ...................................................12
1.3. Đặc điểm của các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.............................. 14
1.4. Phân biệt tình tiết định tội, tình tiết định khung, tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự với các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự ............................. 17
1.4.1. Phân biệt với tình tiết định tội, định khung .............................................17
1.4.2. Phân biệt với tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự ............................19
1.5. Phân loại các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự ..................................... 20
1.6. Ý nghĩa các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự ........................................ 21

1.6.1. Ý nghĩa xã hội ..........................................................................................21
1.6.2. Ý nghĩa pháp lý ........................................................................................22
KẾT LUẬN CHƢƠNG I ........................................................................................25
CHƢƠNG II: QUY ĐỊNH VỀ CÁC TÌNH TIẾT GIẢM NHẸ TRÁCH
NHIỆM HÌNH SỰ TRONG BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015 ..........................27
2.1. Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51
Bộ luật hình sự năm 2015 .............................................................................................. 27
2.1.1. Những tình tiết liên quan đến đặc tính khách quan và chủ quan của hành
vi phạm tội..........................................................................................................27
2.1.2. Các tình tiết liên quan đến nhân thân người phạm tội ............................36
2.1.3 Những tình tiết phản ánh điều kiện, hồn cảnh thực hiện tội phạm.........51
2.2 Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51
Bộ luật hình sự năm 2015 .............................................................................................. 62


KẾT LUẬN CHƢƠNG II.......................................................................................65
CHƢƠNG III: HỒN THIỆN PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VÀ GIẢI PHÁP
NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG QUY ĐỊNH VỀ CÁC TÌNH TIẾT GIẢM
NHẸ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ..........................................................................66
3.1. Một số vấn đề đặt ra trƣớc yêu cầu hoàn thiện pháp luật hình sự về các
tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự ...................................................................... 66
3.2. Hồn thiện quy định của pháp luật hình sự hiện hành về các tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự ................................................................................................ 69
3.2.1. Cần phân hóa triệt để về giá trị giảm nhẹ TNHS của một số tình tiết được
luật định .............................................................................................................69
3.2.2. Giải thích nội dung và điều kiện áp dụng của một số tình tiết giảm nhẹ
TNHS được luật định cịn chưa có sự thống nhất trong nhận thức. ..................71
3.3. Giải pháp khác nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng quy định về các tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự ...................................................................................... 79
3.3.1. Nâng cao trình độ nhận thức và trách nhiệm nghề nghiệp của người tiến

hành tố tụng .......................................................................................................79
3.3.2. Tăng cường chế độ kiểm tra, giám sát việc thực thi pháp luật ...............80
KẾT LUẬN CHƢƠNG III .....................................................................................82
KẾT LUẬN ..............................................................................................................83


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhân đạo xã hội chủ nghĩa là một trong những nguyên tắc quan trọng được ghi
nhận trong chính sách hình sự của nhà nước ta. Nguyên tắc này thể hiện ở việc áp
dụng hình phạt đối với người phạm tội chủ yếu nhằm mục đích cải tạo, giáo dục họ
trở thành người có ích cho xã hội. Do vậy, BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm
2017 (sau đây gọi tắt là BLHS năm 2015) tiếp tục kế thừa tinh thần của BLHS năm
1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009 (sau đây gọi tắt là BLHS năm 1999) khi có nhiều
quy định tạo điều kiện cho người phạm tội tự cải tạo, có cơ hội sớm hịa nhập vào
cộng đồng như: quy định về miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, án treo và
một số hình phạt khơng tước quyền tự do của cơng dân như hình phạt cảnh cáo…
Trong số đó, việc quy định về các tình tiết giảm nhẹ TNHS chính là một trong
những biểu hiện cụ thể, rõ nét nhất của việc thể chế hóa chính sách nhân đạo của
nhà nước trong việc xử lý tội phạm. Theo quy định tại khoản 1 Điều 50 BLHS năm
2015 thì “Khi quyết định hình phạt, Tịa án căn cứ vào quy định của Bộ luật này,
cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân
thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự”.
Điều này thể hiện việc cân nhắc các tình tiết giảm nhẹ TNHS là một trong những
nội dung rất quan trọng khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội. Việc quyết
định hình phạt quá nặng hoặc quá nhẹ trong xử lý tội phạm đều làm cho mục đích
của hình phạt khơng đạt được đồng thời đem lại những hệ quả tiêu cực đối với việc
cải tạo, giáo dục người phạm tội nói riêng và đối với xã hội nói chung. Do vậy,

nhận thức đúng và áp dụng thống nhất các tình tiết giảm nhẹ TNHS ln là địi hỏi
khách quan của quá trình xét xử đối với người thực hiện hành vi phạm tội trong
từng vụ án cụ thể. Thực hiện tốt điều này giúp đề cao sự công bằng và tính nhân đạo
của luật hình sự Việt Nam qua đó giáo dục người dân ý thức tôn trọng, tuân thủ
pháp luật, củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước nói chung cũng
như pháp luật nói riêng. Tất cả những điều đó đều góp phần quan trọng trong việc
phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm ở Việt Nam hiện nay.
Trong giai đoạn hiện nay, khi chúng ta đang đẩy mạnh công cuộc cải cách tư
pháp theo tinh thần của Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị
về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 mà một trong những nhiệm vụ trọng
tâm hướng đến là: “Giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình phạt
cải tạo khơng giam giữ đối với một số loại tội phạm. Hạn chế áp dụng hình phạt tử


2

hình theo hướng chỉ áp dụng đối với một số ít loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Giảm bớt khung hình phạt tối đa quá cao trong một số loại tội phạm…”. Chính vì
vậy, việc nghiên cứu các quy định về các tình tiết giảm nhẹ TNHS cần phải được
chú trọng, xem xem xét kĩ lưỡng nhằm giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng nhận thức rõ và áp dụng đúng các tình tiết này trong việc
giải quyết các vụ án trên thực tế; phát hiện, chỉ rõ những vướng mắc, bất cập trong
thực tiễn áp dụng những tình tiết này qua đó đề ra những kiến nghị, yêu cầu, giải
pháp cụ thể nhằm nâng cao hơn nữa việc áp dụng hiệu quả, thống nhất các quy định
trên; đáp ứng được mục tiêu, chiến lược cải cách tư pháp mà Đảng và Nhà nước ta
đã đề ra trong giai đoạn hiện nay.
Xuất phát từ ý nghĩa quan trọng đó, em xin lựa chọn đề tài “Các tình tiết giảm
nhẹ TNHS trong Bộ luật Hình sự năm 2015” làm đề tại luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Qua tìm hiểu, có rất nhiều các cơng trình nghiên cứu, bài viết ở các khía cạnh

khác nhau về các tình tiết giảm nhẹ TNHS trong đó tiêu biểu là các cơng trình
nghiên cứu sau đây: Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của tác
giả Đinh Văn Quế (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia năm 1995); Các tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự trong luật Hình sự Việt Nam của tác giả Trần Thị Quang
Vinh (Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia năm 2005); Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự trong Bộ luật hình sự Việt Nam và thực tiễn áp dụng tại các Tòa án nhân
dân ở tỉnh Vĩnh Phúc (luận văn thạc sĩ luật học) của tác giả Vũ Thị Vân Hồng được
TS. Nguyễn Văn Hương hướng dẫn năm 2014; Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự trong việc định tội danh và quyết định hình phạt (luận văn thạc sĩ luật học) của
tác giả Phạm Thị Thanh Nga được TSKH. Lê Văn Cảm hướng dẫn năm 2004; Các
tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong Luật Hình sự Việt Nam (luận án tiến sĩ
luật học) của tác giả Trần Thị Quang Vinh được hướng dẫn bởi GS. TS. Đỗ Ngọc
Quang, PGS. TS. Võ Khánh Vinh năm 2002…
- Một số các bài viết đăng trên các tạp chí: Bàn về việc áp dụng tình tiết giảm
nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự
của tác giả Trần Văn Hội (Tạp chí Kiểm sát số 12/2013); Các tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự của tác giả Trần Đình Thắng (Tạp chí nghiên cứu lập pháp số
14/2010); Một số vấn đề cần chú ý khi áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự của tác giả Đinh Văn Quế (Tạp chí Tồ án nhân dân số
04/2010); Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thuộc Khoản 2 Điều 46 Bộ luật


3

hình sự, thực trạng áp dụng và giải pháp hồn thiện của tác giả Thái Chí Bình (Tạp
chí Tịa án nhân dân số 02/2014); Những hạn chế trong các quy định của Bộ luật
hình sự năm 1999 về các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự và
hướng khắc phục của tác giả Hồ Sỹ Sơn (Tạp chí Tồ án nhân dân số 16/2008);
Việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm d, khoản 1 Điều 46
Bộ luật hình sự của tác giả Nguyễn Hiểu Khanh (Tạp chí Tồ án nhân dân số

16/2005); Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự người phạm tội tự nguyện sửa
chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả của tác giả Bùi Quang Thạch,
Nguyễn Kiệm (Tạp chí Kiểm sát số 05/2003); Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự phản ánh điều kiện, hồn cảnh thực hiện tội phạm của tác giả Phạm Thị
Thanh Nga (Tạp chí Tồ án nhân dân số 06/2008); Về các tình tiết giảm nhẹ và tăng
nặng trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự năm 1999 và một số kiến nghị của
tác giả Trịnh Việt Tiến (Tạp chí Tồ án nhân dân số 13/2004); Bàn về nhận thức và
áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của tác giả Phạm Hồng Hải (Tạp
chí Kiểm sát số 17/2006); Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại
Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 của tác giả Nguyễn Ngọc Kiện (Tạp chí Nghiên
cứu lập pháp số 04/2017); Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự
theo Bộ luật hình sự năm 1999 của tác giả Dương Tuyết Miên (Tạp chí Tồ án nhân
dân số 01/2003); Từ thực tiễn áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
theo khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 của tác giả Nguyễn Văn Trượng
(Tạp chí Kiểm sát số 03/2007), Các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm
hình sự trong Bộ luật hình sự Việt Nam của tác giả Bùi Kiến Quốc (Tạp chí Luật
học số 06/2000), Ảnh hưởng của các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong
chế định quyết định hình phạt theo Bộ luật hình sự 1999 của tác giả Trần Thị Quang
Vinh (Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 07/2001)…
Mỗi cơng trình nghiên cứu, mỗi bài viết trên đều đã đề cập đến các tình tiết
giảm nhẹ TNHS ở những phương diện và mức độ khác nhau. Tuy nhiên, cho đến
nay chưa có cơng trình nào nghiên cứu một cách tồn diện, hệ thống về lý luận,
thực tiễn cũng như phát hiện những vướng mắc, hạn chế và phương hướng hoàn
thiện các quy định về tình tiết giảm nhẹ TNHS trong BLHS năm 2015.
3. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
- Về đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận
và thực tiễn áp dụng các tình tiết giảm nhẹ TNHS theo quy định của BLHS Việt
Nam năm 2015.



4

- Về phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu các tình tiết giảm nhẹ
TNHS với tính chất là căn cứ quyết định hình phạt theo quy định của BLHS Việt
Nam năm 2015.
4. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn có mục đích làm rõ những vấn đề lý luận về việc xác định và áp
dụng các tình tiết giảm nhẹ TNHS; đánh giá thực tiễn xét xử áp dụng các tình tiết
giảm nhẹ TNHS từ đó đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện BLHS năm 2015 và
nâng cao hiệu quả của việc áp dụng các tình tiết giảm nhẹ TNHS trong thực tiễn.
Với mục đích trên, nhiệm vụ của luận văn được xác định là:
+ Phân tích khái niệm, đặc điểm, phân loại và ý nghĩa của việc quy định các
tình tiết giảm nhẹ TNHS; phân tích q trình hình thành và phát triển của các quy
định về các tình tiết giảm nhẹ TNHS và phân biệt các tình tiết giảm nhẹ TNHS với
các tình tiết liên quan khác. Từ đó, đưa ra sự nhận thức đúng đắn về giới hạn và
phạm vi ảnh hưởng của các tình tiết giảm nhẹ TNHS.
+ Phân tích nội dung các tình tiết giảm nhẹ TNHS được phản ánh trong quy
định của BLHS năm 2015; phân tích thực tiễn áp dụng các quy định về các tình tiết
giảm nhẹ TNHS, phát hiện những vướng mắc trong thực tiễn áp dụng và chỉ ra
nguyên nhân của tình hình áp dụng đó.
+ Đưa ra đề xuất về hồn thiện quy định của pháp luật hình sự và một số giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc áp dụng các tình tiết giảm nhẹ TNHS.
5. Các phƣơng pháp nghiên cứu sử dụng để thực hiện luận văn
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, chính sách hình sự
của Đảng và Nhà nước kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu phổ biến của
khoa học luật như: phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Về lý luận: luận văn góp phần làm rõ những vấn đề mang tính lý luận về các
tình tiết giảm nhẹ TNHS trong luật hình sự Việt Nam.

- Về thực tiễn: luận văn đưa ra những luận cứ khoa học cho việc thể chế hóa
chính sách nhân đạo của Nhà nước đối với việc xử lý tội phạm trong pháp luật hình
sự hiện hành đồng thời giúp làm sáng tỏ một số vướng mắc, hạn chế, thiếu sót trong
quy định pháp luật hình sự. Trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm
bảo đảm áp dụng một cách chính xác, hiệu quả các tình tiết giảm nhẹ TNHS trong


5

công tác thực tiễn của cơ quan tiến hành tố tụng đặc biệt là trong cơng tác xét xử
của Tịa án.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết
cấu thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Chương 2: Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong Bộ luật hình sự
Việt Nam.
Chương 3: Hồn thiện pháp luật hình sự và giải pháp nâng cao hiệu quả việc
áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.


6

CHƢƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TÌNH TIẾT GIẢM NHẸ TRÁCH
NHIỆM HÌNH SỰ
1.1. Khái quát lịch sử lập pháp về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong
pháp luật hình sự Việt Nam từ năm 1945 đến nay
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thắng lợi đánh dấu sự ra đời của nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa. Một trong những nhiệm vụ cấp bách, trọng tâm hàng đầu

được đặt ra tại thời điểm đó là ban hành, xây dựng hệ thống pháp luật nhằm củng cố
tính chính danh của chính quyền mới, thiết lập mơ hình tổ chức bộ máy nhà nước
đáp ứng được yêu cầu mà nhiệm vụ cách mạng đã đề ra. Sau khi xóa bỏ hệ thống
pháp luật của thực dân Pháp cùng với việc ra đời Hiến pháp năm 1946, hệ thống
pháp luật của nước ta dần được xây dựng, trở thành công cụ phục vụ sự nghiệp giữ
gìn độc lập, tự do của Tổ quốc và quản lý, điều hành trật tự an ninh, xã hội. Trong
đó, pháp luật hình sự của nước ta dần dần hình thành và phát triển. Vị trí pháp lý
của các tình tiết giảm nhẹ TNHS trong những năm đầu tiên mới giành chính quyền
chủ yếu được ghi nhận trong các Sắc lệnh của chủ tịch nước. Tuy nhiên, các tình
tiết giảm nhẹ TNHS trong giai đoạn này cũng chỉ được ghi nhận ở một mức độ khái
quát chung chung như “đáng được khoan hồng vì ít tuổi, vì biết hối q, vì lầm
lẫn…”1. Một số ít tình tiết được quy định trực tiếp trong tội phạm cụ thể hoặc một
nhóm tội phạm như “tự ý cáo giác cho nhà chức trách việc hối lộ ấy và chứng minh
rằng đã đưa hối lộ là vì bị cơng chức cưỡng bách ước hứa”2, “khoan hồng đối với
những người bị lừa phỉnh, bị ép buộc, lầm đường, trước khi truy tố, thành thực hối
cải, lập cơng chuộc tội, tự mình thành thực tự thú, khai rõ ràng những âm mưu và
hành động của mình và của đồng bọn, bị ép buộc, lừa dối mà chưa làm hại nhiều
cho dân”3, “chưa bị phát giác ra mà kẻ phạm tội thực thà tự đầu thú”4. Các tình tiết
giảm nhẹ TNHS trong giai đoạn này đều có đặc điểm là chưa được pháp luật hình
sự đặt tên cụ thể ngồi việc chỉ ra một số trường hợp đáng được xử lý khoan hồng.
Giai đoạn 1955 - 1985 là giai đoạn pháp luật hình sự đã có bước phát triển
cao hơn và thực tiễn áp dụng đã phân biệt việc vận dụng các tình tiết trong và ngồi
1

Chủ tịch Chính phủ lâm thời: Sắc lệnh số 33C về thẩm quyền và thủ tục xét xử của Tịa án qn sự ngày
13/9/1945.
2
Chủ tịch Chính phủ lâm thời: Sắc lệnh số 223 trừng trị các tội hối lộ ngày 27/11/1946.
3
Chủ tịch nước: Sắc lệnh số 133 trừng trị các tội việt gian, phản động, âm mưu hành động phản quốc ngày

20/01/1953.
4
Chủ tịch nước: Sắc lệnh số 151 về trừng trị địa chủ chống pháp luật ngày 12/4/1953.


7

luật định. Dần dần đã hình thành danh mục “các tình tiết giảm nhẹ” được áp dụng
chung cho một số loại tội phạm. Danh mục này thể hiện tại Điều 20 pháp lệnh trừng
trị các tội phản cách mạng ngày 30/10/1967, Điều 23 Pháp lệnh trừng trị các tội
xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa ngày 21/10/1970 và Điều 19 Pháp lệnh trừng trị
các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân ngày 21/10/1970, Bản tổng kết thực
tiễn vận dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trong công tác xét xử (kèm theo
Công văn số 38-NCPL ngày 16/1/1976) và một số văn bản hướng dẫn khác. Theo
các văn bản trên, “các tình tiết giảm nhẹ TNHS khá phong phú và đa dạng, không
những liên quan đến hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội mà còn liên quan
đến chính sách khoan hồng của Nhà nước trong xử lý tội phạm”5.
Pháp luật hình sự và thực tiễn áp dụng pháp luật trước năm 1985 là nền tảng
quan trọng cho cơng tác pháp điển pháp luật hình sự và xây dựng BLHS đầu tiên
của Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Điều này được ghi nhận trong
lời nói đầu của BLHS năm 1985: “Bộ luật hình sự này kế thừa và phát triển Luật
hình sự của Nhà nước ta từ Cách mạng tháng Tám đến nay, tổng kết những kinh
nghiệm đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm ở nước ta trong mấy chục năm
qua và có dự kiến tình hình diễn biễn của tội phạm trong thời gian tới”. Với sự ra
đời của BLHS năm 1985, lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam đã
có hẳn một điều luật riêng biệt quy định về danh mục các tình tiết giảm nhẹ tại Điều
38 BLHS năm 1985 với tên gọi là “Các tình tiết giảm nhẹ”. Đồng thời, thực tiễn áp
dụng pháp luật không chỉ giới hạn việc áp dụng các tình tiết giảm nhẹ được quy
định trong BLHS mà cịn mở rộng tới các tình tiết giảm nhẹ khác về TNHS và cho
phép Tịa án có thể quyết định một hình phạt nhẹ hơn so với chế tài.

Trên cơ sở kế thừa quy định của BLHS năm 1985, BLHS năm 1999 tiếp tục
quy định tình tiết giảm nhẹ TNHS tại Điều 46 nhưng có sự sửa đổi, bổ sung những
quy định mới. Có thể tóm tắt những điểm mới đó như sau:
- Tên gọi các tình tiết giảm nhẹ được đặt lại theo hướng chính xác hơn là
“Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự”. Sự thay đổi tên gọi này khơng hồn
tồn mang tính chất hình thức mà để phản ánh chính xác hơn giá trị giảm nhẹ của
những tình tiết này. Trong BLHS năm 1985 các quy định này có tên gọi là “các tình
tiết giảm nhẹ” và được ghi nhận trong phần quyết định hình phạt nên dễ đưa đến sự
ngộ nhận rằng đây chỉ là những tình tiết giảm nhẹ hình phạt. Trong khi đó, hình
5

Trần Thị Quang Vinh (2002), Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong Luật Hình sự Việt Nam,
luận án tiến sĩ luật học, Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật, tr. 67.


8

phạt chỉ là một hình thức chủ yếu của trách nhiệm hình sự nên giảm trách nhiệm
hình sự khơng chỉ được hiểu là giảm hình phạt. “Việc quy định chính xác tên gọi có
ý nghĩa xác định chính xác nội hàm giá trị ảnh hưởng của nhóm tình tiết này đến
TNHS gồm ảnh hưởng của chúng đến mức hình phạt cần áp dụng, khả năng áp
dụng các biện pháp hình sự khác như biện pháp tư pháp thay thế hình phạt, án treo,
miễn hình phạt”6.
- Về kết cấu điều luật: Có nhiều điểm của BLHS năm 1985 (điểm a, b, d, e,
g, h khoản 1 Điều 38) được tách ra thành hai hoặc ba điểm quy định các nhóm tình
tiết giảm nhẹ của khoản 1 Điều 46 BLHS năm 1999.
- Về số lượng, nội dung các tình tiết giảm nhẹ TNHS: So với BLHS năm
1985, BLHS năm 1999 đã bổ sung hai tình tiết giảm nhẹ hồn tồn mới được quy
định thành các điểm độc lập là: “Người phạm tội đã lập công chuộc tội” (Điểm r
khoản 1 Điều 46 BLHS năm 1999) và “Người phạm tội là người có thành tích xuất

sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác” (điểm s khoản 1 Điều 46
BLHS năm 1999) đồng thời loại bỏ hai tình tiết giảm nhẹ là: “phạm tội vì bị chi
phối về mặt vật chất, công tác hay các mặt khác” (điểm đ khoản 1 Điều 38 BLHS
năm 1985) hay “phạm tội do trình độ nghiệp vụ non kém” (điểm g khoản 1 Điều 38
BLHS năm 1985). Ngồi ra, có một tình tiết mới được bổ sung vào điểm b khoản 1
Điều 46 BLHS năm 1999 là người phạm tội tự nguyện khắc phục hậu quả.
Việc bổ sung 3 tình tiết mới này là hồn tồn đúng đắn vì nó có tác dụng
khuyến khích người phạm tội lập công chuộc tội, chủ động khắc phục hậu quả và
thể hiện thái độ của Nhà nước ta tôn trọng quá khứ của người phạm tội đồng thời
cũng gián tiếp khuyến khích mọi người tích cực lập thành tích xuất sắc trong sản
xuất, chiến đấu, học tập và công tác.
BLHS năm 1999 đã bổ sung khoản 3 Điều 46 quy định về nguyên tắc áp
dụng các tình tiết này nhằm bổ sung cho thiếu sót của BLHS năm 1985. Theo đó:
“Các tình tiết giảm nhẹ được Bộ luật hình sự quy định là dấu hiệu định tội hoặc
định khung thì khơng được coi là các tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình
phạt”. So với BLHS năm 1985 thì BLHS năm 1999 quy định về nguyên tắc này rõ
ràng hơn. Quy định này đã khắc phục được tình trạng nhận thức sai và áp dụng hình
phạt nhẹ hơn mức cần thiết đối với bị cáo. BLHS năm 1985 chỉ quy định: “những
tình tiết là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt thì khơng được coi là tình tiết
6

Trần Thị Quang Vinh, tlđd 5, tr. 68.


9

tăng nặng” nhưng lại không quy định nguyên tắc này đối với các tình tiết giảm nhẹ
TNHS nên thực tiễn xét xử đã hiểu và áp dụng không thống nhất, có Tịa án vẫn coi
là tình tiết giảm nhẹ khi tình tiết đó đã là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt.
BLHS năm 2015 ra đời đã kế thừa những thành tựu về lập pháp hình sự của

Nhà nước ta trong nhiều thập kỷ qua đồng thời có sự điều chỉnh thích hợp với
những đổi mới trong lịng xã hội Việt Nam hiện nay theo xu thế hoàn thiện hệ thống
pháp luật, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. BLHS năm 2015 quy
định 23 tình tiết giảm nhẹ luật định, nhiều hơn so với BLHS năm 1999 là 5 tình tiết
giảm nhẹ mới đó là “phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ
người phạm tội”, “phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà
không phải do lỗi của mình gây ra”, “người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc
khuyết tật đặc biệt nặng”, “người phạm tội là người có cơng với cách mạng hoặc là
cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sỹ,”, “đầu thú”. Xuất phát từ thực tiễn xét xử, có
thể nhận thấy, BLHS năm 2015 đã bổ sung thêm 4 tình tiết mới, chưa được hướng
dẫn ở các văn bản pháp luật khác là “phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần
thiết khi bắt giữ người phạm tội”, “phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng
nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra”, “người phạm tội là người khuyết
tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng”, “đầu thú”. Cịn tình tiết được bổ sung là
“người phạm tội là người có cơng với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con
của liệt sỹ” đã được hướng dẫn tại Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP ngày
04/8/2000 của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy
định trong phần chung của BLHS năm 1999. Riêng tình tiết giảm nhẹ “người phạm
tội là người già” trong BLHS năm 1999 được đổi thành “người phạm tội là người
đủ 70 tuổi trở lên” trong BLHS năm 2015.
1.2. Khái niệm về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
1.2.1. Trách nhiệm hình sự
Trước khi bàn về khái niệm các tình tiết giảm nhẹ TNHS chúng ta cần làm rõ
khái niệm, nội dung và giới hạn của TNHS. Theo từ điển giải thích thuật ngữ luật
học của Trường Đại học Luật Hà Nội được Nxb Công an nhân dân xuất bản năm
1999 tại trang 126 có định nghĩa “Trách nhiệm hình sự là trách nhiệm của người
phạm tội phải chịu những hậu quả pháp lí bất lợi về hành vi phạm tội của mình”.
Hiện nay, BLHS năm 2015 đã bổ sung thêm quy định chủ thể của tội phạm ngoài cá
nhân là người phạm tội thì hiện nay bao gồm cả pháp nhân thương mại nên khái
niệm trách nhiệm hình sự cũng cần phải được hiểu đầy đủ là trách nhiệm của người



10

phạm tội hoặc pháp nhân thương mại phải chịu những hậu quả pháp lí bất lợi về
hành vi phạm tội của mình. Trách nhiệm trong lĩnh vực pháp luật nói chung thường
được hiểu theo hai nghĩa: là chức trách, nghĩa vụ, bổn phận phải làm hoặc là hậu
quả pháp lý của việc vi phạm pháp luật.
Thuật ngữ TNHS không dùng để chỉ nghĩa vụ, bổn phận mà công dân
phải thực hiện với Nhà nước và xã hội mà nó phải được hiểu theo nghĩa
là hậu quả pháp lý bất lợi mà một người phải gánh chịu trước Nhà nước
và xã hội vì họ đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị pháp luật
hình sự cấm hoặc khơng thực hiện những nghĩa vụ mà pháp luật hình sự
bắt buộc phải thực hiện gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho
quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ7.
TNHS là một dạng của trách nhiệm pháp lý phản ánh mối quan hệ đặc biệt
giữa Nhà nước với người phạm tội khi người đó thực hiện tội phạm. Do vậy, “để
nhận thức đầy đủ và toàn diện về TNHS, việc nghiên cứu khái niệm TNHS không
chỉ dừng lại ở trách nhiệm của người phạm tội trước nhà nước mà cần được xem xét
đồng thời từ hai góc độ: thực hiện hoạt động truy cứu TNHS từ phía Nhà nước và
chịu TNHS từ phía người phạm tội”8. Tuy đều là hậu quả của việc phạm tội nhưng
việc thực hiện truy cứu TNHS từ phía Nhà nước mới đưa đến kết quả phải chịu
TNHS của người phạm tội. “TNHS thực chất là nội dung của mối quan hệ giữa Nhà
nước và người phạm tội phát sinh từ thời điểm tội phạm được thực hiện”9. Mối quan
hệ này khơng chỉ được điều chỉnh bởi luật hình sự mà bởi cả luật tố tụng hình sự và
pháp luật về thi hành án. Nội dung của TNHS là hậu quả pháp lý của việc phạm tội
thể hiện ở chỗ người gây ra tội phải chịu trách nhiệm trước Nhà nước. “Hậu quả
pháp lí của việc thực hiện tội phạm đối với người phạm tội không chỉ thể hiện ở
trách nhiệm cuối cùng của người phạm tội là bị kết án và phải chịu hình phạt nhất
định mà cịn thể hiện cả ở việc bị truy cứu TNHS”10. Như vậy, đối với người phạm

tội, chịu TNHS có nghĩa là phải chịu tất cả các hậu quả do việc phạm tội đem lại:
“phải chịu sự tác động của hoạt động truy cứu TNHS, chịu bị kết tội, chịu biện pháp
cưỡng chế của TNHS (hình phạt, biện pháp tư pháp) và chịu mang án tích”11.
7

Xem: Trường đại học luật Hà Nội (2017), Giáo trình luật hình sự Việt Nam phần chung, Nxb Cơng an nhân
dân, Hà Nội, tr. 244.
8
Trường đại học luật Hà Nội (2001), Trách nhiệm hình sự và hình phạt, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 7
9
Lê Thị Sơn (1997), “Trách nhiệm hình sự và miễn trách nhiệm hình sự”, Tạp chí luật học, (05), tr. 18.
10
Trường đại học luật Hà Nội, tlđd 8, tr. 8.
11
Nguyễn Ngọc Hòa - Lê Thị Sơn (2006), Từ điển pháp luật hình sự, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr. 281-282.


11

“Bản chất của TNHS là sự lên án của Nhà nước đối với người có lỗi khi thực
hiện một hành vi nguy hiểm cho xã hội mà luật hình sự quy định là tội phạm”12.
Bằng bản án kết tội, Nhà nước chính thức lên án đối với người đã có hành vi phạm
tội và trên cơ sở đó thể hiện thái độ phản ứng của mình thơng qua việc áp dụng các
biện pháp cưỡng chế hình sự như áp dụng hình phạt, biện pháp tư pháp. Những biện
pháp cưỡng chế này có đặc điểm chung là đều gây ra những tác động bất lợi về
pháp lý đối với người phạm tội nhằm giáo dục, cải tạo họ trở thành người có ích cho
xã hội, ngăn ngừa họ phạm tội mới.
“Hình phạt chẳng qua là phương tiện tự vệ của xã hội trước tội phạm thể hiện
ở chỗ nó là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ
hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội”13. Hình phạt là hình thức thể hiện

chủ yếu của TNHS. Bất cứ một tội phạm cụ thể nào cũng đều được quy định một
chế tài tương ứng là hình phạt. Chính vì thế, người ta thường đồng nhất TNHS với
hình phạt. So với hình phạt, TNHS là khái niệm có nội hàm rộng hơn khái niệm
hình phạt. TNHS là hậu quả pháp lý bất lợi của việc thực hiện tội phạm và được thể
hiện bằng việc áp dụng một hoặc nhiều biện pháp cưỡng chế của Nhà nước do
BLHS quy định đối với người phạm tội cịn hình phạt chẳng qua chỉ là một trong
các biện pháp cưỡng chế chủ yếu và là một dạng của TNHS. Bên cạnh hình phạt,
TNHS cịn được thực hiện thơng qua các tác động cưỡng chế khác về hình sự như
biện pháp tư pháp, án tích.
“Biện pháp tư pháp là biện pháp hình sự được BLHS quy định do cơ quan tư
pháp áp dụng đối với người có hành vi nguy hiểm cho xã hội có tác dụng hỗ trợ
hoặc thay thế hình phạt”14. Theo BLHS năm 2015, các biện pháp tư pháp bao gồm:
tịch thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm; trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi
thường thiệt hại, buộc công khai xin lỗi; bắt buộc chữa bệnh; giáo dục tại trường
giáo dưỡng. Khi áp dụng đối với người phạm tội, các biện pháp tư pháp cũng thể
hiện sự phản ứng của Nhà nước trước tội phạm. Do vậy, các biện pháp tư pháp cũng
thuộc nội dung của TNHS. Riêng biện pháp tư pháp “trả lại tài sản, sửa chữa hoặc
bồi thường thiệt hại” là trường hợp đặc biệt không thuộc nội dung của TNHS. Bởi
lẽ “bản chất của biện pháp này xuất phát từ nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do hành vi
12

Kiều Đình Thụ (2000), Tìm hiểu luật hình sự Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 66.
Trần Thị Quang Vinh (2005), Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 13.
14
Phạm Hồng Hải (2001), “Chế định truy cứu trách nhiệm hình sự và vấn đề áp dụng chế định này trong thực
tiễn”, Tạp chí Luật học, (10), tr. 35.
13



12

phạm tội gây ra nên thuộc nội dung của trách nhiệm dân sự”15. Như vậy, có thể nói
rằng các biện pháp tư pháp cũng thuộc nội dung của TNHS trừ biện pháp tư pháp
trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại.
Án tích là hậu quả pháp lý của bản án kết tội của Tòa án đối với người phạm
tội. “Án tích là một tình trạng pháp lý bất lợi về hình sự đối với người phạm tội thể
hiện ở ảnh hưởng của nó đến việc đánh giá tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành
vi được coi là tội phạm trong thời gian người đó mang án tích, là điều kiện để xác
định về tái phạm, tái phạm nguy hiểm nếu họ phạm tội mới”16.
Từ những phân tích trên, ta có thể định nghĩa TNHS là một dạng của trách
nhiệm pháp lý đồng thời là hậu quả pháp lý bất lợi cho người thực hiện hành vi
phạm tội với nội dung bao gồm việc phải chịu sự tác động của hoạt động truy cứu
TNHS, chịu bị kết tội, chịu biện pháp cưỡng chế của TNHS (hình phạt, biện pháp tư
pháp) và chịu mang án tích.
1.2.2. Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
Pháp luật hình sự Việt Nam từ trước đến nay đều không đưa ra khái niệm về
tình tiết giảm nhẹ TNHS. Dưới góc độ học thuật thì tình tiết giảm nhẹ TNHS được
hiểu “là tình tiết làm cho mức độ nguy hiểm của trường hợp phạm tội cụ thể của
một loại tội giảm đi so với trường hợp bình thường và do đó được coi là căn cứ để
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với trường hợp phạm tội đó”17. Hiện nay diễn đàn
khoa học còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này:
Có quan điểm cho rằng: “Các tình tiết giảm nhẹ TNHS là các tình tiết trong
một vụ án cụ thể mà nó sẽ làm giảm TNHS của người phạm tội trong một khung
hình phạt”18.
Quan điểm khác cho rằng: “Các tình tiết giảm nhẹ TNHS là những tình tiết
được qui định trong BLHS hoặc do Tòa án xác định phản ánh mức độ nguy hiểm
cho xã hội của hành vi phạm tội, khả năng cải tạo, giáo dục người phạm tội cũng
như hoàn cảnh đặc biệt của họ. Những tình tiết này có ý nghĩa làm giảm mức độ
TNHS của người phạm tội”19.

15

Trần Thị Quang Vinh, tlđd 13, tr. 14.
Trần Thị Quang Vinh, tlđd 13, tr. 15.
17
Trường đại học luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ luật học, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội,
tr. 116.
18
Đinh Văn Quế (2017), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015 phần thứ nhất những quy định chung,
Nxb Thông tin và truyền thông, Hà Nội, tr. 228.
19
Dương Tuyết Miên (2003), “Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự theo Bộ luật hình sự
năm 1999”, Tạp chí Tồ án nhân dân, (01), tr. 18.
16


13

Bên cạnh đó, lại có quan điểm cho rằng: “những tình tiết giảm nhẹ TNHS là
những tình tiết chứng tỏ mức độ ít nguy hiểm cho xã hội của người phạm tội hoặc
tội phạm đã được thực hiện so với trường hợp người phạm tội tương tự trong hoàn
cảnh khác”20.
Từ đó, ta thấy rằng các tác giả tuy đưa ra những khái niệm ở các góc độ khác
nhau về tình tiết giảm nhẹ TNHS nhưng chúng đều thống nhất ở một số điểm chung
đó là những tình tiết làm cho mức độ TNHS của trường hợp phạm tội cụ thể giảm đi
so với trường hợp bình thường. Điểm khác biệt chủ yếu giữa các tác giả là ở việc
xác định căn cứ, giới hạn, phạm vi ảnh hưởng, tác động của chúng. Hiện nay, đa số
các ý kiến cho rằng tình tiết giảm nhẹ TNHS là tình tiết được quy định trong BLHS
với tính chất là tình tiết giảm nhẹ chung hoặc là tình tiết được ghi nhận trong văn
bản hướng dẫn áp dụng pháp luật hay do Tòa án tự xem xét, cân nhắc và ghi rõ

trong bản án đồng thời là một trong những căn cứ để Tòa án cá thể hóa TNHS và
hình phạt đối với người phạm tội theo hướng giảm nhẹ hơn trong phạm vi một
khung hình phạt. Theo quan điểm này, “giảm TNHS có nội dung giới hạn chỉ đối
với hình phạt đồng thời có phạm vi ảnh hưởng trong một khung hình phạt”21. Như
vậy, các tình tiết giảm nhẹ TNHS được xem xét theo nghĩa hẹp chỉ bao gồm các
tình tiết giảm nhẹ TNHS được quy định ở phần chung tại Điều 51 BLHS năm 2015
và các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật liên quan. Trong nghĩa này, các tình
tiết định tội, định khung hình phạt khơng phải là tình tiết giảm nhẹ TNHS.
Khác với các quan điểm trên, TS. Trần Thị Quang Vinh cho rằng “các tình
tiết giảm nhẹ TNHS là những tình tiết của vụ án hình sự liên quan đến việc giải
quyết TNHS, có ý nghĩa làm giảm mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm
tội, phản ánh khả năng cải tạo tốt hoặc hoàn cảnh đặc biệt của người phạm tội
đáng được khoan hồng và giá trị giảm nhẹ TNHS của chúng chưa được ghi nhận
trong chế tài”22. Theo quan điểm này, trong vụ án hình sự, tất cả những tình tiết nào
có ý nghĩa làm giảm mức độ TNHS đều được coi là tình tiết giảm nhẹ TNHS. Như
vậy, tình tiết giảm nhẹ TNHS theo nghĩa này gồm nhiều loại như: tình tiết định tội,
tình tiết định khung giảm nhẹ, tình tiết giảm nhẹ TNHS được quy định tại Điều 51
BLHS năm 2015, các tình tiết được quy định ở các điều luật khác thuộc phần chung
20

Phạm Thanh Bình (1995), “Các tình tiết giảm nhẹ trong luật hình sự Việt Nam”, Tạp chí Tòa án nhân dân,
(07), tr. 7.
21
Trịnh Tiến Việt, Về ảnh hưởng của các tình tiết giảm nhẹ trong việc quyết định hình phạt, xem:
/>22
Trần Thị Quang Vinh, tlđd 13, tr. 45.


14


BLHS năm 2015 mà sự hiện diện của chúng cũng có ý nghĩa làm giảm mức độ
TNHS của người phạm tội.
Bản thân em cũng đồng ý với quan điểm của TS. Trần Thị Quang Vinh và
cho rằng quan điểm đầu tiên chưa cho thấy hết được bản chất, nội dung của tình tiết
giảm nhẹ TNHS mà mới chỉ nêu đặc trưng pháp lý của chúng. Như đã phân tích ở
trên, TNHS là khái niệm rộng có nội dung bao hàm trong đó cả hình phạt cịn hình
phạt chỉ là khái niệm hẹp thuộc nội hàm của TNHS là hình thức thể hiện chủ yếu và
nghiêm khắc nhất của TNHS. “Về bản chất, tình tiết giảm nhẹ TNHS là những biểu
hiện về các điều kiện, hồn cảnh, tình huống có ảnh hưởng đến việc thực hiện tội
phạm qua đó phản ánh mức độ nguy hiểm ít hơn của hành vi phạm tội và là cơ sở để
người phạm tội có thể chịu TNHS ở mức thấp hơn”23. Theo đó, tình tiết giảm nhẹ
TNHS nên được hiểu là bất kỳ tình tiết nào mà sự xuất hiện của nó làm giảm mức
độ nghiêm khắc của TNHS. Nội dung của TNHS là các tác động cưỡng chế hình sự
bao gồm việc bị kết án, bị áp dụng hình phạt, biện pháp tư pháp và án tích. Như
vậy, giảm TNHS khơng thuần túy chỉ giới hạn ở việc giảm mức hình phạt trong
phạm vi khung hình phạt theo quan điểm truyền thống mà có thể đưa đến các khả
năng giảm nhẹ khác như: giảm hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt
được áp dụng (khoản 1 Điều 54 BLHS năm 2015); chuyển sang hình phạt khác
thuộc loại nhẹ hơn (khoản 3 Điều 54 BLHS năm 2015); giảm thời hạn chấp hành
hình phạt (Điều 63 BLHS năm 2015); miễn chấp hành hình phạt (Điều 62 BLHS
năm 2015); miễn chấp hành hình phạt tù có điều kiện hay án treo (Điều 65 BLHS
năm 2015); miễn hình phạt (Điều 59 BLHS năm 2015).
Từ những phân tích về khái niệm, bản chất pháp lý và phạm vi của các tình
tiết giảm nhẹ TNHS, ta có thể định nghĩa: Tình tiết giảm nhẹ TNHS là những tình
tiết của vụ án hình sự liên quan đến việc giải quyết TNHS phản ánh mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, khả năng cải tạo, giáo dục người phạm tội
cũng như hoàn cảnh đặc biệt của họ. Những tình tiết này được quy định trong
BLHS hoặc do Tịa án xác định có ý nghĩa làm cho mức độ nguy hiểm của hành vi
phạm tội giảm xuống một cách đáng kể và do đó TNHS của người phạm tội được
giảm nhẹ.

1.3. Đặc điểm của các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự

23

Trần Đình Thắng (2010), “Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (14),
tr. 50.


15

Từ khái niệm về các tình tiết giảm nhẹ TNHS đã nêu ở trên và từ phân tích
các quy định của BLHS hiện hành có liên quan đến các tình tiết giảm nhẹ TNHS, có
thể đưa ra một số đặc điểm cơ bản của tình tiết giảm nhẹ TNHS như sau:
Thứ nhất, các tình tiết giảm nhẹ TNHS được quy định trong BLHS hoặc do
Tòa án xác định. Chúng được quy định cụ thể trong BLHS (bao gồm 22 tình tiết
được quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015; các điều luật khác thuộc phần
chung BLHS mà sự hiện diện của chúng cũng có ý nghĩa làm giảm mức độ TNHS)
và trong các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật hình sự (Nghị quyết số
01/2000/NQ-HĐTP). Ngồi ra trong q trình xét xử, Tịa án có thể tự mình xem
xét, cân nhắc coi đầu thú hoặc những tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ TNHS và
phải ghi rõ lý do trong bản án (khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015). Pháp luật dù
hoàn thiện đến đâu cũng khơng thể tiên liệu hết mọi tình huống của cuộc sống nên
việc cho phép Tịa án xem xét các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ trong hoạt
động xét xử là hợp lý. Quy định “phải ghi rõ trong bản án” là nhằm tránh sự tùy
tiện trong hoạt động xét xử. Đặc điểm trên cũng thể hiện sự đa dạng, phong phú của
các tình tiết giảm nhẹ TNHS. Tuy nhiên, vấn đề này cũng có tính hai mặt của nó.
Trên thực tế, khơng ít trường hợp Tịa án đưa ra những tình tiết giảm nhẹ TNHS
khơng thật sự thuyết phục.
Thứ hai, tình tiết giảm nhẹ TNHS là căn cứ để Tịa án cân nhắc, xem xét
việc áp dụng hình phạt theo hướng nhẹ hơn đối với người phạm tội, nó phản ánh

những mặt, khía cạnh của tội phạm cho phép xác định mức độ ít nguy hiểm hơn của
tội phạm hoặc người phạm tội so với các trường hợp phạm tội thơng thường. Đó có
thể là các yếu tố của cấu thành tội phạm hoặc các tình tiết bổ sung làm rõ mức độ
nguy hiểm của tội phạm. Các tình tiết này có thể phản ánh: hành vi, hậu quả của tội
phạm; khách thể bị xâm hại; năng lực nhận thức, kinh nghiệm sống của chủ thể; lỗi,
động cơ, mục đích, hồn cảnh phạm tội... Ngồi ra cịn có một số tình tiết khơng
trực tiếp phản ánh về tội phạm nhưng lại có ý nghĩa trong việc giải quyết vấn đề
TNHS, thể hiện khả năng cải tạo tốt của người phạm tội hoặc thể hiện chính sách
nhân đạo của pháp luật hình sự.
Thứ ba, tình tiết giảm nhẹ TNHS ảnh hưởng đến việc quyết định hình phạt
như thế nào là do Tòa án cân nhắc, xem xét. Sự hiện diện của các tình tiết giảm nhẹ
TNHS là căn cứ để Tịa án đánh giá, nhận định tính chất, mức độ nguy hiểm của
hành vi phạm tội, coi đó là một trong những căn cứ để quyết định hình phạt. Pháp
luật khơng quy định cụ thể các tình tiết giảm nhẹ TNHS sẽ ảnh hưởng như thế nào


16

đến việc quyết định hình phạt đối với người phạm tội mà trao quyền đánh giá, phán
xét này cho Tòa án. Điều này đảm bảo tính linh hoạt, sáng tạo trong hoạt động xét
xử của Tịa án. Nó giúp Tịa án chủ động trong việc tính tốn sự tương xứng giữa
mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội với chế tài hình sự.
Thứ tư, việc áp dụng các tình tiết giảm nhẹ TNHS phải đảm bảo nguyên tắc:
Các tình tiết giảm nhẹ đã được quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì
khơng được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt (khoản 3 Điều
51 BLHS năm 2015). Điều này có nghĩa là một tình tiết giảm nhẹ cho dù biểu hiện
dưới hình thức nào thì cũng khơng thể được áp dụng hai lần cho một trường hợp
phạm tội cụ thể. Ví dụ: người phạm tội bị xét xử về “Tội giết người do vượt quá
mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội” (Điều 126 BLHS năm 2015). Trong
trường hợp này tuy rằng người phạm tội có tình tiết giảm nhẹ TNHS “Phạm tội

trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội” được quy định
tại điểm đ khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 nhưng sẽ không được Tịa án sử dụng
làm tình tiết giảm nhẹ TNHS khi quyết định hình phạt bởi tình tiết này đã được sử
dụng làm tình tiết định tội của trường hợp trên.
Thứ năm, ảnh hưởng của từng tình tiết giảm nhẹ TNHS đến mức độ nguy
hiểm của hành vi phạm tội khơng giống nhau. Các tình tiết giảm nhẹ TNHS khá
phong phú về mặt số lượng và ảnh hưởng của chúng đối với mức độ nguy hiểm của
hành vi phạm tội là khác nhau. Do đó, mức độ ảnh hưởng của chúng đến việc quyết
định hình phạt là khơng giống nhau. “Có tình tiết thì ảnh hưởng rất lớn đến việc
quyết định hình phạt và đối với mọi trường hợp phạm tội nhưng có tình tiết thì ảnh
hưởng ít hơn. Có tình tiết chỉ có ý nghĩa đáng kể với một số tội phạm, cịn đối với
những tội phạm khác thì chỉ có ý nghĩa rất hạn chế”24. Ví dụ: cùng phạm tội giết
người quy định tại Điều 123 BLHS năm 2015 nhưng người phạm tội trong trường
hợp thứ nhất có tình tiết giảm nhẹ là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức
hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình (điểm q khoản 1 Điều 51 BLHS năm
2015) còn người phạm tội trong trường hợp thứ hai có tình tiết giảm nhẹ là cha, mẹ,
vợ, chồng, con của liệt sĩ (điểm x khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015). Khi quyết
định hình phạt, tình tiết giảm nhẹ của người phạm tội trong trường hợp thứ nhất sẽ
có giá trị cao hơn so với người phạm tội trong trường hợp thứ hai. Bởi lẽ người
phạm tội trong trường hợp thứ nhất khơng có khả năng nhận thức một cách đầy đủ
24

Lê Văn Luật (2007), “Bàn về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 46
BLHS”, Tạp chí nghề luật, (01), tr. 23.


17

tính nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra hoặc khơng điều khiển được
hành vi của mình vì tình trạng bệnh lý của người đó gây ra khi thực hiện tội phạm.

Còn người phạm tội trong trường hợp thứ hai hoàn toàn nhận thức được đầy đủ tính
nguy hiểm cho xã hội do hành vi của mình gây ra cũng như kiểm sốt được hành vi
của mình khi thực hiện tội phạm nhưng do chính sách ưu đãi đối với những người
đã hi sinh để bảo vệ tổ quốc của nhà nước ta mà người phạm tội được hưởng tình
tiết giảm nhẹ TNHS chỉ vì là người thân thích của những người đó. Do vậy, mức độ
giảm nhẹ trong trường hợp phạm tội thứ nhất sẽ cao hơn so với trường hợp phạm tội
thứ hai. Mặt khác, Khoản 1 Điều 54 BLHS năm 2015 quy định: “Tịa án có thể
quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng
nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội
có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này”.
Theo đó, khả năng “có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung
hình phạt mà điều luật đã quy định” chỉ có thể thực hiện khi “có ít nhất hai tình tiết
giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này”. Logic này cho phép suy
đoán rằng theo quan điểm của các nhà làm luật các tình tiết được quy định tại khoản
1 Điều 51 BLHS năm 2015 có vị trí, giá trị giảm nhẹ cao hơn, ảnh hưởng nhiều hơn
đến mức độ ít nguy hiểm của hành vi phạm tội so với tình tiết đầu thú và những tình
tiết khác mà Tịa án có coi là tình tiết giảm nhẹ TNHS được quy định tại khoản 2
Điều 51 BLHS năm 2015.
1.4. Phân biệt tình tiết định tội, tình tiết định khung, tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự với các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
1.4.1. Phân biệt với tình tiết định tội, định khung
Các tình tiết giảm nhẹ TNHS, tình tiết định khung, định tội đều giống nhau ở
chỗ chúng đều ảnh hưởng đến TNHS. Tuy nhiên, ảnh hưởng của mỗi loại tình tiết
đến TNHS hồn tồn khác nhau. Vì vậy, cần thiết phải phân biệt chúng đặc biệt đối
với trường hợp những tình tiết định tội, định khung; tình tiết giảm nhẹ TNHS có
cùng một tên gọi.
“Tình tiết định tội là tình tiết thực tế của vụ án được sử dụng để xác định
hành vi đã thực hiện trong vụ án cấu thành tội gì”25. Khi quy định các tội phạm cụ
thể, luật hình sự xác định các dấu hiệu của mỗi tội và các dấu hiệu đó cho phép
phân biệt giữa tội này với tội khác. Đó là các dấu hiệu định tội. Khi áp dụng luật,

25

Bộ Tư pháp – Viện khoa học pháp lý (2006), Từ điển luật học, Nxb. từ điển bách khoa và Nxb.Tư pháp,
Hà Nội, tr. 768.


18

người áp dụng phải so sánh tình tiết thực tế của vụ án với các dấu hiệu định tội của
tội cụ thể để xác định người phạm tội đã phạm tội đó. Tình tiết thực tế thỏa mãn dấu
hiệu định tội được gọi là tình tiết định tội.
“Tình tiết định khung là tình tiết thực tế của vụ án được sử dụng để xác định
trường hợp phạm tội đó thuộc khung hình phạt tăng nặng hoặc khung hình phạt
giảm nhẹ”26. Khi xây dựng các khung hình phạt tăng nặng hoặc giảm nhẹ cho một
tội phạm, luật hình sự xác định dấu hiệu cho phép áp dụng các khung hình phạt đó.
Đó là các dấu hiệu định khung hình phạt. Khi áp dụng luật, người áp dụng phải so
sánh tình tiết thực tế của vụ án với dấu hiệu định khung (tăng nặng hoặc giảm nhẹ)
để xác định khung hình phạt tương ứng. Tình tiết thực tế thỏa mãn dấu hiệu định
khung hình phạt được gọi là tình tiết định khung hình phạt.
Các tình tiết giảm nhẹ TNHS khác với các tình tiết định tội, tình tiết định
khung về vị trí pháp lý và phạm vi ảnh hưởng đến TNHS.
Về vị trí pháp lý: Các tình tiết định tội, định khung là những tình tiết được
quy định trong cấu thành tội phạm (cấu thành cơ bản, cấu thành tăng nặng, cấu
thành giảm nhẹ) và là cơ sở để truy cứu TNHS. Cịn các tình tiết giảm nhẹ TNHS là
những tình tiết thể hiện các mức độ khác nhau của các dấu hiệu chung đó trong
trường hợp phạm tội cụ thể và là cơ sở cho việc cá thể hóa TNHS.
Về ảnh hưởng đến TNHS: Tình tiết định tội, định khung là những tình tiết
có giá trị xác định khung trách nhiệm đối với một loại tội phạm hoặc một nhóm
trường hợp phạm tội cụ thể. Giá trị giảm nhẹ TNHS của các tình tiết định tội, định
khung hình phạt đã được thể hiện trong chế tài. Cịn các tình tiết giảm nhẹ TNHS có

giá trị làm giảm nhẹ mức độ TNHS đối với một trường hợp phạm tội cụ thể. Giá trị
giảm nhẹ của chúng chưa được phản ánh trong chế tài. Chính sự khác biệt này đã
tạo ra nét đặc biệt trong việc vận dụng các tình tiết giảm nhẹ TNHS. Nếu các tình
tiết định tội, định khung là cơ sở để xác định tội danh, khung hình phạt và hình phạt
được quyết định phải nằm trong giới hạn chế tài do các tình tiết này quy định thì các
tình tiết giảm nhẹ TNHS khơng có tác dụng làm đổi tội danh, chuyển khung hình
phạt nhưng có thể đưa đến khả năng quyết định một hình phạt vượt ngồi khn
khổ chế tài theo hướng giảm nhẹ.
Trong quy định của BLHS hiện hành, các tình tiết định tội, định khung, tình
tiết giảm nhẹ TNHS có thể cùng một tên gọi. Tình tiết giảm nhẹ TNHS quy định tại
26

Bộ Tư pháp – Viện khoa học pháp lý, tlđd 26, tr. 768.


×