Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

Tải Phân tích truyện ngắn Thuốc của Lỗ Tấn - Dàn ý + 12 bài văn mẫu Ngữ văn 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.1 KB, 38 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Phân tích truyện ngắn Thuốc của Lỗ Tấn - Ngữ văn 12</b>
<b>A. Dàn ý truyện ngắn Thuốc của Lỗ Tấn</b>


<b>I. Giới thiệu</b>
<b>1. Tác giả Lỗ Tấn</b>


- Lỗ Tấn (1881-1936) tên thật là Chu Thụ Nhân, quê ở phủ Thiệu Hưng
tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc. Năm 13 tuổi, chứng kiến cảnh người cha
lâm bệnh mà chết vì khơng có thuốc, Lỗ Tấn ơm ấp nguyện vọng học
nghề thuốc, để chữa bệnh cho những người nghèo như cha mình.


- Tuổi trẻ Lỗ Tấn nhiều lần đổi nghề để tìm con đường cống hiến cho
dân tộc: nghề hàng hải, khai mỏ rồi chuyển sang nghề y. Đang học
nghành y ở Nhật, một lần xem phim ông thấy những người Trung Quốc
khoẻ mạnh hớn hở đi xem quân Nhật chém một người Trung Quốc
chống Nhật. Ơng giật mình nhận ra rằng: Chữa bệnh thể xác không quan
trọng bằng chữa bệnh tinh thần. Và thế là ông chuyển sang làm văn nghệ
để phanh phui căn bệnh tinh thần của quốc dân, lưu ý mọi người tìm
cách chạy chữa . Con đường gian nan chọn nghề của Lỗ Tấn vừa mang
đậm dấu ấn của lịch sử Trung Hoa thời cận hiện đại vừa nói lên tâm
huyết của Lỗ Tấn với dân tộc.


- Lỗ Tấn là nhà văn cách mạng lỗi lạc của Trung Quốc đầu thế kỉ XX:
“Trước Lỗ Tấn , chưa hề có Lỗ Tấn, sau Lỗ Tấn, có vơ vàn Lỗ Tấn”
(Qch Mạc Nhược ). Ơng được tơn vinh là linh hồn dân tộc. Ơng
chun vạch trần những thói hư tật xấu của nhân dân để mọi người tìm
cách chạy chữa, tự phấn đấu vươn lên, tự cường dân tộc. Tác phẩm
chính của Lỗ Tấn là AQ chính truyện, Cố hương…


<b>2. Tác phẩm</b>



<b>a. Hồn cảnh ra đời</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<b>b. Tóm tắt tác phẩm</b>


Một đêm mùa thu gần về sáng, Lão Hoa đem số tiền vợ chồng dành dụm
được ra pháp trường, gặp đao phủ mua một cái bánh tẩm máu tử tù về
cho thằng Thuyên, con trai lão ăn để chữa bệnh lao. (Mua thuốc, uống
thuốc) (người kể chuyện là lão Hoa).


Trời sáng, quán trà của vợ chồng lão Hoa đông khách dần, mọi người
bàn tán về cái chết của tử tù. Tử tù là Hạ Du, một người cách mạng bị xử
chém vì chống Nhật. Mọi người cho Hạ Du là thằng điên, thằng khốn
nạn và khen Cụ Ba là khơn vì đã tố cáo cháu mình để lấy tiền thưởng.
Họ cũng cho vợ chồng lão Hoa là may vì tìm được máu để tẩm bánh bao
làm thuốc (bàn về thuốc) (người kể chuyện biết tuốt).


Tiết thanh minh vào mùa xuân năm sau, bà Hoa đi thăm mộ con (thằng
Thuyên vẫn chết vì bệnh lao dù đã ăn bánh bao tẩm máu người). Bà gặp
bà mẹ của Hạ Du. Mẹ Hạ Du lúc đầu còn ngại ngùng, nhưng sau đó bà
Hoa đã bước qua ranh giới phân chia khu nghĩa địa dành cho dành cho
người nghèo sang khu dành cho ngưòi chết chém để an ủi mẹ Hạ Du. Cả
hai bà mẹ đều hết sức kinh ngạc khi thấy trên mộ Hạ Du có một vịng
hoa (hậu quả của thuốc) (người kể chuyện là bà Hoa)


<b>II. Phân tích:</b>


1. Ý nghĩa nhan đề “Thuốc” và hình tượng chiếc bánh bao tẩm máu
người:Nhan đề thiên truyện là Thuốc (nguyên văn là Dược). Thuốc ở
đây chính là chiếc bánh bao tẩm máu người mà lão Hoa đã mua về cho
thằng Thuyên ăn để chữa bệnh lao. Nhan đề này có nhiều nghĩa.



</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

khoa học của người dân Trung Quốc. Bố mẹ thằng Thuyên vì lạc hậu và
gia trưởng đã áp đặt cho nó một phương thuốc là chiếc bánh bao tẩm
máu người dẫn đến cái chết của nó. Rồi tất cả đám người trong quán trà
cũng sai lầm như vậy. Chiếc bánh bao tẩm máu vô hại kia đã trở thành
một thứ thuốc độc vì người ta quá tin vào nó mà khơng lo tìm một thứ
thuốc khác. Người dân Trung Quốc phải tỉnh giấc, không được “ngủ mê
trong cái nhà hộp bằng sắt khơng có cửa sổ”.


- Tầng nghĩa thứ ba của Thuốc, của chiếc bánh bao tẩm máu người là
phương thuốc nhằm chữa căn bệnh u mê lạc hậu về mặt chính trị của
người dân Trung Quốc và căn bệnh xa rời quần chúng của người cách
mạng Trung Quốc thời bấy giờ. Máu để tẩm chiếc bánh bao là dòng máu
người chiến sĩ cánh mạng Hạ Du đã đổ xuống để giải phóng cho nhân
dân. Thế mà nhân dân lại u mê cho anh là làm giặc, là thằng điên và mua
máu anh để tẩm bánh bánh bao. Còn Hạ Du làm cách mạng cứu nước,
cứu dân mà lại quá xa rời quần chúng để nhân dân không hiểu anh đã
đành mà mẹ anh cũng không hiểu (đỏ mặt xấu hổ khi thăm mộ con gặp
bà Hoa) cịn chú anh thì tố cáo cháu để lấy tiền thưởng.


Tóm lại: Nhan đề truyện và hình ảnh chiếc bánh bao tẩm máu người đã
thể hiện chủ đề tư tưởng tác phẩm: Lỗ Tấn đã đau nỗi đau của dân tộc
Trung Hoa thời cận đại : nhân dân thì “ngủ say trong một cái nhà hộp
bằng sắt” còn người cách mạng thì “bơn ba trong chốn quạnh hiu”.


<b>2. Các nhân vật:</b>


<b>a. Hình ảnh đám đơng quần chúng:</b>


- Buổi sáng sớm, ở pháp trường, lão Hoa đi mua bánh bao tẩm máu tử tù


về chữa bệnh cho con thì bị một đám đông xô đẩy nhau ào ào,chen bật
lão suýt ngã. Đó là những người đi xem hành hình nhà cách mạng Hạ
Du. Đám đông này khiến ta liên tưởng đến đám đơng đi xem hành hình
một người Trung Quốc chống Nhật khiến Lỗ Tấn đi đến quyết định:
Chữa bệnh thể xác không quan trọng bằng chữa bệnh tinh thần cho quốc
dân.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Cả Khang, người râu hoa râm… cùng bàn tán về cái chết của Hạ Du với
thái độ miệt thị. Họ cho anh là cái “thằng khốn nạn”, “hắn điên thật rồi”.
Và họ cho rằng trong cái chết của Hạ Du có hai người gặp may. May
nhất là Cụ Ba nhờ tố cáo cháu mình nên được thưởng một số tiền lớn mà
gia đình khỏi bị liên luỵ, cịn lão Hoa thì có máu Hạ Du để chấm bánh
bao làm thuốc chữa bệnh cho thằng Thuyên.


Tóm lại, qua hai sự việc trên,và bằng ngôn ngữ của người kể chuyện, ta
thấy đám đông quần chúng thật là mê muội. Sự hiểu biết và thái độ của
họ về những vấn đề của đất nước, về bệnh tật, về cuộc đời cịn q hạn
chế. Nói như Lỗ Tấn thì họ đang “ngủ qn trong một cái nhà hộp bằng
sắt khơng có cửa sổ. Phải làm thế nào đó để thức tỉnh họ.Ta cũng thấy
nhân vật Hạ Du là một người yêu nước nhưng anh cũng thật cô đơn.


<b>b. Nhân vật Hạ Du:</b>


Nhân vật Hạ Du không xuất hiện trực tiếp trong tác phẩm mà được giới
thiệu thông qua các nhân vật khác và qua thái độ của người kể chuyện.
Hạ Du là một người yêu nước , một nhà cách mạng tiên phong, dũng
cảm xả thân vì nghĩa lớn.


Nhưng anh rất cô đơn, không ai hiểu anh kể cả mẹ anh. Anh đã đổ máu
vì quần chúng thế mà họ lại lấy máu anh để tẩm bánh bao chữa bệnh lao.


Hạ Du chính là hình ảnh tượng trưng của cuộc cách mạng Tân Hợi, một
cuộc cách mạng góp phần đánh đổ chế độ phong kiến Trung Quốc
nhưng lại xa rời quần chúng nên thất bại.Qua hình tượng Hạ Du, Lỗ Tấn
muốn bày tỏ lịng kính trọng với cuộc cách mạng này.


<b>3. Cảnh hai bà mẹ đi thăm mộ con:</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

- Nghĩa địa của làng mộ dày khít như bánh bao nhà giàu ngày mừng thọ,
có một con đường mòn ở giữa chia làm hai: Nghĩa địa người chết chém
phía bên trái nghĩa địa người nghèo phía bên phải. Con đường mịn là
biểu tượng cho một tập quán xấu đã trở thành thói quen. Hai bà mẹ đã
bước qua con đường mòn để đến gặp nhau vì đồng cảm ở tình thương
con sâu sắc.


- Cả hai bà mẹ cùng rất kinh ngạc khi thấy trên mộ Hạ Du có một vịng
hoa: “hoa trắng hoa hồng nằm khoanh trên nấm mộ khum khum”. Bà mẹ
Hạ Du cứ lẩm bẩm câu hỏi “Thế này là thế nào?”. Câu hỏi vừa hàm chứa
sự sửng sốt, vừa ẩn giấu niềm vui vì có người đã hiểu con mình. Đồng
thời đã là câu hỏi thì địi hỏi có câu trả lời. Việc làm của Hạ Du đã khiến
mọi người phải suy nghĩ một cách nghiêm túc. Với vòng hoa, Lỗ Tấn đã
bày tỏ sự trân trọng và tiếc thương đối với người chiến sĩ cách mạng tiên
phong.


<b>4. Đặc sắc nghệ thuật:</b>


Truyện có lối viết cơ đọng, súc tích, giàu hình ảnh mang ý nghĩa biểu
tượng (chiếc bánh bao tẩm máu, vòng hoa, con đường mòn…).


- Cách xây dựng nhân vật cũng rất đặc biệt: không đặt nhân vật cách
mạng vào vị trí chủ yếu mà đặt ở tuyến ngầm phía sau nhân vật đám


đông để khắc hoạ chủ đề thức tỉnh quần chúng của truyện.


- Cách kể chuyện theo ngôi thứ ba truyền thống nhưng nhiều đoạn đã
chuyển điểm nhìn trần thuật sang nhân vật làm cho truyện sinh động và
giàu chất trữ tình hơn.


<b>B. Phân tích ruyện ngắn Thuốc của Lỗ Tấn</b>
<b>Bài làm 1</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

suy thoái. Sự nghiệp sáng tác của Lỗ Tấn gồm 3 tập truyện ngắn, 16 tập
tạp văn với các đề tài chính trị, xã hội, văn chương… ông xứng đáng là
ngọn cờ đầu của văn học Trung Quốc hiện đại.


Truyện ngắn Thuốc sáng tác năm 1919 là tác phẩm thể hiện khá rõ
những băn khoăn, day dứt của Lỗ Tấn trước những vấn đề quan trọng
của xã hội Trung Quốc đương thời. Tác giả phê phán sự lạc hậu, mê
muội đáng thương của số đông dân chúng và thái độ xa rời thực tế xa rời
quần chúng của những người khởi xướng và tham gia cuộc cách mạng
Ngũ Tứ lúc bấy giờ. Đồng thời ông cũng gửi gắm trong truyện niềm hi
vọng vào tương lai Trung Quốc sẽ có một cuộc cách mạng triệt để của
quần chúng và vì quần chúng. Bối cảnh của truyện là xã hội tăm tối, ngột
ngạt dưới ách thống trị của triều đình Mãn Thanh trước khi nổ ra phong
trào cách mạng Ngũ Tứ - sự kiện mở đầu cho lịch sử Trung Quốc hiện
đại.


Sự xâm chiếm và can thiệp thô bạo của một số đế quốc như Anh, Pháp,
Mĩ, Nhật đã biến Trung Quốc thành một nước nửa phong kiến, nửa
thuộc địa. Thời vàng son của các triều đại vua chúa đã ở vào dĩ vãng.
Thay vào đó là một xã hội đình trệ, suy thoái mà theo nhận định của Lỗ
Tấn: So với tiến bộ thì đình trệ cũng gần với con đường diệt vong rồi.


Nội dung truyện xoay quanh chủ đề Thuốc - một thứ “thuốc” kinh
khủng, gớm ghiếc hiếm có xưa nay. Đó là bánh bao tẩm máu tươi của
những kẻ tử tù bị chém đầu, đem nướng lên cho người bệnh ăn. Thiên hạ
đồn rằng thứ thuốc ấy chữa khỏi được cà những bệnh thuộc “tứ chứng
nan y” như phong, lao, cổ, lại. Vợ chồng lão Hoa chủ quán trà gom góp
số tiền tích cóp đã lâu và lão Hoa đích thân đến tận pháp trường để mua
“thuốc" cho con trai bị bệnh lao nặng, với hi vọng là nó sẽ khỏi bệnh.
Nhưng đau xót thay, máu của tử tù chết chém không chữa được bệnh
lao! Thế là tiền mất tật mang, cuối cùng đứa con trai độc đinh của vợ
chồng lão Hoa vẫn chết.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

hậu về mặt khoa học ở Trung Quốc, cũng như trong dời sống tinh thần
của dân chúng mà nhân vật Thuyên chỉ là một trong muôn ngàn nạn
nhân của tập quán hủ lậu ấy.


Tuy nhiên, Lỗ Tấn cịn kín đáo gửi gắm dụng ý của mình trong nghĩa
hàm ẩn của truyện. Con bệnh trầm kha không phải là anh chàng Thuyên
tội nghiệp mà lị đầu óc mê muội của vợ chồng lão Hoa nói riêng và số
đơng dân chúng nói chung. Theo nhận xét của tác giả thì cả xã hội Trung
Quốc thời ấy giống như một người mắc bệnh nặng, đòi hỏi phải có một
thứ “thuốc” đặc trị thì mới có thể chữa khỏi; đồng thời ông cũng chỉ ra
rằng con đường đi của dân tộc Trung Hoa lúc này đã lâm vào ngõ cụt,
cần phải nhanh chóng phát quang mọi con đường mới.


Truyện ngắn Thuốc giống như một vở kịch ngắn gồm bốn cảnh:


Cảnh thứ nhất: Lão Hoa mang tiền đến pháp trường để mua chiếc bánh
bao tẩm máu tử tù.


Cảnh thứ hai: Vợ chồng lão Hoa cho con trai (Thuyên) ăn bánh bao tẩm


máu nướng.


Cảnh thứ ba: Khách khứa tụ tập bàn tán ở quán trà lão Hoa.


Cảnh thứ tư: Tiết Thanh minh, mẹ Thuyên ra thăm mộ con, tình cờ gặp
mộ của tử tù bữa trước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Lão Hoa mê muội tin vào thứ thuốc chữa bệnh lao quái dị: bánh bao tẩm
máu tử tù nên cố lách vào đám đông hỗn độn đang xô đẩy nhau ào ào để
mua cho bằng được thứ mà lão coi như thuốc tiên, cổ thể cứu mạng đứa
con trai của mình. Thứ “thuốc” đáng sợ và hiếm có ấy được rao bán như
bán các món hàng bình thường khác. Ngịi bút tả thực sắc sảo của Lỗ
Tấn khiến người đọc cảm thấy như cảnh tượng hãi hùng ấy đang diễn ra
trước mắt.


Có một chi tiết mang ý nghĩa ẩn dụ là không phải chỉ một mình lão Hoa
vội vàng đi mua bánh bao tẩm máu tử tù để chữa bệnh mà rất nhiều
người khác cũng có ý định như lão. Qua chỉ tiết này, Lỗ Tấn muốn nói
đến thực trạng đáng lo ngại: số đông dân chúng Trung Quốc đương thời
vẫn tin vào những điều nhảm nhí khơng có cơ sở khoa học, bởi thói mê
tín dị đoan đã tiêm nhiễm vào đầu óc họ, trở thành một căn bệnh tinh
thần khó chữa.


Ở cảnh hai, niềm hân hoan, tin tưởng và hi vọng của lão Hoa mỗi lúc
một dâng cao. Về đến nhà, lão cùng với vợ vội vàng chế biến “thuốc cải
tử hoàn sinh” rồi cho con trai ăn chiếc bánh bao tẩm máu nướng đen
thui. Thuyên cầm chiếc bánh lên nhìn, có cảm giác rất lạ khơng biết thế
nào mà nói, như đang cầm tính mệnh của chính mình trong tay. Y bẻ đôi
ra, rất cẩn thận…



Không bao lâu, chiếc bánh đã nằm gọn trong bụng… Lão Hoa đứng một
bên, bà Hoa đứng một bên, trố mắt nhìn con như muốn rót vào người
con một cái gì, đồng thời cũng muốn lấy ra một cái gì.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Hình ảnh đám đơng trong qn trà của lão Hoa cũng phản ánh rất chân
thực về “căn bệnh tinh thần” của người trung Quốc. Quán trà lão Hoa là
nơi tụ họp thường xuyên của khách bình dân. Tại đây, lượng thơng tin
chẳng những rất phong phú mà cịn rất thật.


Khách uống trà gồm một người râu hoa râm, cậu Năm Gù, bác cả
Khang, một anh chàng hơn hai mươi tuổi… và một số người khác. Họ là
những người thuộc số đống dân chúng Trung Quốc lúc bấy giờ. Quán trà
của lão Hoa giống như xã hội Trung Quốc thu nhỏ.


Đám khách uống trà bàn tán xoay quanh hai sự kiện nóng hổi: Thứ nhất
là chuyện lão Hoa mua được “thần dược”; thứ hai là chuyện Hạ Du bị
chết chém. “Thuốc tiên” để trị “bệnh quỷ” mà người Trung Quốc vẫn
tôn sùng lúc bấy giờ chính là bánh bao tẩm máu tử tù. Bánh bao thì ln
ln có sẵn, nhưng cịn máu tử tù? Máu tử tù không sẵn nhưng cũng
không phải là hiếm, chì cẩn có tiền là mua được, nhất là vào đúng dịp có
tử tù bị chém. Lão Hoa có con mắc bệnh lao nặng, may mắn gặp ngay
dịp Hạ Du bị chém đầu. Cho nên hôm ấy ở quán trà nhà lão Hoa, người
ta chỉ bàn đến hai chuyện ấy cũng là điều dễ hiểu, vấn đề quan trọng ở
đây là thái độ của họ trước hai sự kiện này ra sao?


Về sự kiện thứ nhất, mọi người đều mừng cho lão Hoa đã may mắn mua
được “thần dược” và họ đặt niềm tin tuyệt đối vào phương thuốc kì quái
ấy. Chỉ trong một đoạn văn ngắn mà có tới sáu lần nhắc lại câu: Cam
đoan thế nào cũng khỏi, giống lời khẳng định chắc chắn như đinh đóng
cột.



</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

vừa khơng bị mất đầu vì chứa chấp một tên phản nghịch, vừa được
thưởng hai mươi lạng bạc.


Qua cuộc bàn luận của đám đông ở quán trà, Lỗ Tấn khéo léo phơi bày
thực trạng tinh thần u mê tăm tối của phần lớn dân chúng Trung Quốc
thời đó. Cách mạng Tân Hợi là một cuộc cách mạng không triệt để.
Người dân chưa được tuyên truyền, giác ngộ nên họ coi những người
làm cách mạng là làm giặc”. Họ càng khơng hiểu gì về mục đích cao cả
của cách mạng.


Lỗ Tấn nhận thức rất rõ “căn bệnh tinh thần” của người Trung Hoa đã
đến mức trầm trọng. Đã đến lúc phải khẩn cấp tìm ra một phương thuốc
“đặc hiệu” để chữa trị căn bệnh ấy. Nhưng đó là phương thuốc nào?
Lúc này, cách mạng Trung Quốc đang dị dẫm tìm đường, Lỗ Tấn cũng
đang tìm đường, ơng chưa thể đưa ra một giải pháp chính xác, nhưng
ơng đã dự cảm được một điểu gì đó. Dự cảm ấy phần nào được thể hiện
qua hình tượng nhân vật Hạ Du.


Hạ Du tuy không dược tác giả miêu tả trực tiếp nhưng nhân vật này đóng
vai trị quan trọng là mắt xích tiên kết tồn bộ câu chuyện và chi phối
các sự kiện trong tác phẩm. Hạ Du là một chiến sĩ cách mạng có ý chí
kiên cường, dám chấp nhận thử thách, hi sinh. Đến phút chót anh vẫn
tuyên truyền cách mạng. Hạ Du bộc lộ nỗi đau xót trước tình trạng mê
muội của dân chúng. Nhưng thật đáng buồn là ý chí, mục đích và hành
động của anh lại bị mọi người hiểu một cách sai lạc. Cụ Đa là người thân
cho rằng anh “làm giặc” nên đã tố giác anh để láy tiền thưởng. Dân
chúng thì chờ anh bị chém đầu để lấy máu anh tẩm vào bánh bao làm
thuốc chữa bệnh. Với những tơn đao phủ tàn bạo, tham lam thì máu Hạ
Du là một món hàng đem lại lợi nhuận béo bở. Với đám dông dân


chúng, Hạ Du là đối tượng để cho họ chế giễu và khinh bỉ. Thậm chí đến
cả mẹ anh cũng không hiểu đúng về con trai mình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

rời và chưa giác ngộ được quần chúng. Thật xót xa và đau đớn trước
hình ảnh người chiến sĩ cách mạng khơng hịa hợp được với quần chúng
và cịn bị dân chúng nhìn bằng con mắt miệt thị và giễu cợt. Chính vì thế
mà sự hi sinh của họ trở nên vô nghĩa.


Trong phần cuối của truyện, khung cảnh nghĩa địa được Lỗ Tấn miêu tả
rất kĩ: Miếng đất dọc chân thành phía ngồi cửa Tây vốn là đất cơng. Ở
giữa là con đường mịn nhỏ hẹp, cong queo, do những người hay đi tắt
giẫm mãi thành đường. Đó cũng là cái ranh giới tự nhiên giữa nghĩa địa
những người chết chém hoặc chết tù, ở về phía tay trái, và nghĩa địa
những người nghèo, ở về phía tay phải. Cả hai nơi, mộ dày khít, lớp này
lớp khác, như bánh bao nhà giàu ngày mừng thọ. Hình ảnh con đường
mịn ở đây khơng chỉ đơn thuần là một ranh giới tự nhiên mà nó cịn là
ranh giới vơ hình của lịng người, của những định kiến xã hội. Cảnh
nghĩa địa trong đoạn văn mang nhiều ý nghĩa. Thứ nhất: Dư luận xã hội
không hề có sự phân biệt giữa những người làm cách mạng hi sinh vì đất
nước với những kẻ tội đồ. Như vậy thì những chiến sĩ cách mạng cũng bị
coi là “giặc”. Thứ hai: số người bị chết chém hoặc chết tù cũng nhiều
như số người bị chết vì nghèo đói. Hình ảnh những ngơi mộ ở nghĩa
trang nhiều như bánh bao nhà giàu ngày mừng thọ là một hình ảnh so
sánh mỉa mai, gợi lên thực trạng xã hội phong kiến Trung Hoa vừa đen
tối vừa tàn bạo thời ấy.


Lỗ Tấn còn gửi gắm một hàm ý khác nữa trong hình ảnh con đường mịn
chia đơi nghĩa địa: ranh giới giữa người nghèo và người cách mạng rất
gần. Những người làm cách mạng là ai nếu không phải là tầng lớp nghèo
khổ bị áp bức, bóc lột đến cùng cực, khơng cịn con đường nào khác là


phải tự vùng lên để giải phóng cuộc đời mình? Nếu như lúc cịn sống họ
chưa thật sự hiểu nhau, gắn bó với nhau thì lúc chết, nghĩa địa này là nơi
họ được ở gần nhau.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

cịn ngơi mộ kia thì nằm bên trái đường mịn, gần như đối diện nhau.
Tình huống này đã tác động rất mạnh tới suy nghĩ và cảm xúc của người
đọc. Cả những người đã chết và những người đang sống đều là nạn nhân
đau khổ, đáng thương của xã hội phong kiến Trung Quốc hủ bại, bế tắc
đương thời.


Câu hỏi đẩy ngạc nhiên và băn khoăn của bà mẹ Hạ Du: Thế này là thế
nào ? khỉ nhìn thấy trên nấm mộ con trai mình có những cánh hoa trắng
hoa hồng… khơng nhiêu lắm, xếp thành vịng trịn trịn, khơng lấy gì làm
đẹp, những cũng chỉnh tề lặp lại hai lần gợi nhiều day dứt. Câu hỏi ấy
thể hiện thái độ khó hiểu của bà mẹ trước hành động tham gia cách
mạng và cái chết bi thảm của con trai mình; đồng thời chất chứa cảm
xúc chua xót, đau khổ và tự trách.


Đó khơng chì là câu hỏi dành riêng cho bà mẹ Hạ Du mà còn dành cho
tất cả mọi người. Ai đã đến đây? Chắc chắn đó là đồng chí của Hạ Du,
hoặc là người có cảm tình với cách mạng. Họ đã bất chấp luật lệ nghiệt
ngã của chính quyền, vẫn can đảm bày tỏ tỉnh cảm của mình đối với
cách mạng. Họ dám đến viếng mộ anh và cịn kính cẩn đặt lên đó một
vịng hoa tươi: … hoa trắng hoa hồng xen lẫn nhau, nằm khoanh trên
nấm mộ khum khum.


Một trong số những người không sợ liên liên chính là Lỗ Tấn. Nhà văn
đã bày tị thái độ kính trọng đối với các chiến sĩ của phong trào cách
mạng Ngũ Tứ. Ơng đã đặt vịng hoa tưởng niệm trên mộ Hạ Du. Đó
cũng là cách ơng nêu ra vấn đề cấp thiết là phải có một phương thuốc


đặc trị để cứu chữa “căn bệnh tinh thần” của người Trung Quốc. Phương
thuốc đó quyết khơng phải là cái gì khác ngồi con đường cách mạng,
nhưng khơng nửa vời như cuộc cách mạng Tân Hợi mà là cuộc cách
mạng triệt để của quần chúng và vì quần chúng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

chết của Hạ Du bớt phần bi thảm bởi vì dù sao thì cũng có người xúc
động và hiểu được phần nào ý nghĩa cái chết của anh. Đó cũng là niềm
an ủi cho những dũng sĩ đang bôn ba trong chốn quạnh hiu. (Cách gọi
của Lỗ Tấn đối với những người tham gia phong trào cách mạng Ngũ
Tứ).


Câu chuyện về Thuốc được miêu tả ở hai thời điểm là mùa thu và mùa
xuân. Hạ Du và Thuyên chết vào mùa thu, đồng nghĩa với sự tàn lụi. Hai
cái chết của hai người trai trẻ có số phận khác nhau và cách họ chết cũng
không giống nhau. Thế nhưng, đến mùa xuân, hai bà mẹ có chung nỗi
đau mất con dường như đã đồng cảm với nhau. Đặt câu chuyện vào thời
điểm của hai mùa : một mùa có tính chất tàn tạ, một mùa có tính chất hồi
sinh, tốc giả dường như muốn gửi gắm vào đó niềm hi vọng về sự đổi
thay tất yếu. Dù khơng có những biểu hiện thật rõ ràng, song với cách
kết cấu và thời gian nghệ thuật đầy ý nghĩa tượng trưng, tác giả đã gieo
vào lòng người đọc một niềm tin, một niềm hi vọng về tương lai tươi
sáng của dân tộc mình.


Truyện ngắn Thuốc tiêu biểu cho bút pháp hiện thực tỉnh táo, khách
quan của Lỗ Tấn. Cốt truyện dung dị nhưng độc đáo ở khả năng lựa
chọn các tình tiết, ở cách sắp xếp thời gian nghệ thuật và đặc biệt là ở
khả năng tạo ra tính đa nghĩa của ngơn từ và hình tượng. Câu chuyện có
chung một âm điệu trầm buồn thể hiện sự suy tư, lo lắng, day dứt đầy
tinh thần trách nhiệm của Lỗ Tấn trước số phận và tương lai của dân tộc
mình. Có thể coi tác phẩm này giống như con dao mổ sắc bén trong tay


một bác sĩ tài ba, mạnh dạn cắt bỏ những khối u ác tính về tinh thần của
xã hội đương thời để cứu lấy dân tộc Trung Hoa. Nhà văn Lỗ Tấn xứng
đáng là cây đại thụ của văn học Trung Quốc và Danh nhân văn hóa thế
giới.


<b>Bài làm 2</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

Nhan đề thiên truyện là Thuốc (nguyên văn là Dược). Thuốc ở đây
chính là chiếc bánh bao tẩm máu người mà lão Hoa đã mua về cho thằng
Thuyên ăn để chữa bệnh lao.Nhan đề này có nhiều nghĩa.


Nghĩa tường minh, chỉ phương thuốc chữa bệnh lao bằng chiếc bánh bao
tẩm máu người . Đây là một phương thuốc mê tín, lạc hậu tương tự như
hai vị thuốc mà ông thầy lang đã bốc cho cho bố Lỗ Tấn để chữa bệnh
phù thủng là rễ cây mía đã kinh sương ba năm và một đôi dế đủ con
đực , con cái dẫn đến cái chết của ơng cụ.


Nghĩa hàm ẩn, đó là phương thuốc để chữa bệnh tinh thần: căn bệnh gia
trưởng, căn bệnh u mê lạc hậu về mặt khoa học của người dân Trung
Quốc. Bố mẹ thằng Thuyên vì lạc hậu và gia trưởng đã áp đặt cho nó
một phương thuốc là chiếc bánh bao tẩm máu người dẫn đến cái chết của
nó. Rồi tất cả đám người trong quán trà cũng sai lầm như vậy. Chiếc
bánh bao tẩm máu vô hại kia đã trở thành một thứ thuốc độc vì người ta
q tin vào nó mà khơng lo tìm một thứ thuốc khác. Người dân Trung
Quốc phải tỉnh giấc , không được “ngủ mê trong cái nhà hộp bằng sắt
khơng có cửa sổ”.


Tầng nghĩa thứ ba của Thuốc, của chiếc bánh bao tẩm máu người là
phương thuốc nhằm chữa căn bệnh u mê lạc hậu về mặt chính trị của
người dân Trung Quốc ( đám đơng quần chúng khơng hiểu gì về Cách


mạng nên mới xem HD là giặc …) và căn bệnh xa rời quần chúng của
người cách mạng Trung Quốc thời bấy giờ . Hạ Du vì xa rời quần chúng
nên sự hi sinh của anh thật đáng thương hại. Tóm lại: Nhan đề truyện và
hình ảnh chiếc bánh bao tẩm máu người đã thể hiện chủ đề tư tưởng tác
phẩm: Lỗ Tấn đã đau nỗi đau của dân tộc Trung Hoa thời cận đại : nhân
dân thì “ngủ say trong một cái nhà hộp bằng sắt” cịn người cách mạng
thì “bơn ba trong chốn quạnh hiu”.


<b>2. Các nhân vật:</b>


<b>a. Hình ảnh đám đơng quần chúng:</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

lão suýt ngã. Đó là những người đi xem hành hình nhà cách mạng Hạ Du
. Đám đông này khiến ta liên tưởng đến đám đông đi xem hành hình một
người Trung Quốc chống Nhật khiến Lỗ Tấn đi đến quyết định : Chữa
bệnh thể xác không quan trọng bằng chữa bệnh tinh thần cho quốc dân.
-Khi trời sáng hẳn, ở quán trà đã đông khách của lão Hoa , Cậu Năm
Gù ,Cả Khang ,người râu hoa râm…cùng bàn tán về : công hiệu của
bánh bao tẩm máu người có thể chữa bách bệnh, họ tin rằng thằng
Thuyên ăn vào “thế nào cũng khỏi”. Họ rất hăng say bàn về cái chết của
Hạ Du với thái độ miệt thị. Họ cho anh là cái “thằng khốn nạn”, “hắn
điên thật rồi”.Và họ cho rằng trong cái chết của Hạ Du có hai người gặp
may . May nhất là Cụ Ba nhờ tố cáo cháu mình nên được thưởng một số
tiền lớn mà gia đình khỏi bị liên luỵ, cịn lão Hoa thì có máu Hạ Du để
chấm bánh bao làm thuốc chữa bệnh cho thằng Thuyên. Tóm lại, qua hai
sự việc trên,và bằng ngôn ngữ của người kể chuyện , ta thấy đám đông
quần chúng thật là mê muội về khoa học. Sự hiểu biết và thái độ của họ
về những vấn đề của đất nước,về bệnh tật ,về cuộc đời cịn q hạn chế.
Nói như Lỗ Tấn thì họ đang “ngủ quên trong một cái nhà hộp bằng sắt
khơng có cửa sổ”.Phải làm thế nào đó để thức tỉnh họ.



b.Nhân vật Hạ Du:


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

3.Cảnh hai bà mẹ đi thăm mộ con: Các hình ảnh mang ý nghĩa biểu
tượng: a. Hình tượng chiếc bánh bao tẩm máu người: “Bánh bao tẩm
máu người”, nghe như chuyện thời trung cổ nhưng vẫn xảy ra ở nước
Trung Hoa trì trệ. Tầng nghĩa thứ nhất – nghĩa đen của tên truyện là:
thuốc chữa bệnh lao. Thứ mà ông bà Hoa Thuyên xem là “tiên dược” để
cứu mạng thằng con “mười đời độc đinh” đã khơng cứu được nó mà
ngược lại đã giết chết nó – đó là thứ thuốc mê tín.


+ Trong truyện, bố mẹ thằng Thuyên đã áp đặt cho nó một phương thuốc
quái gở. Và cả đám người trong quán trà cũng cho rằng đó là thứ thuốc
tiên. Như vậy, tên truyện còn hàm nghĩa sâu xa hơn, mang tính khai
sáng: đây là thứ thuốc độc, mọi người cần phải giác ngộ ra rằng cái gọi
là thuốc chữa bệnh lao được sùng bái là một thứ thuốc độc. Người Trung
Quốc cần phải tỉnh giấc, không được ngủ mê trong cái nhà hộp bằng sắt
khơng có sửa sổ.


+ Chiếc bánh bao – liều thuốc độc lại được pha chế bằng máu của người
cách mạng – một người xả thân vì nghĩa, đổ máu cho sự nghiệp giải
phóng nông dân… Những người dân ấy (bố mẹ thằng Thuyên, ông Ba,
cả Khang…) lại dửng dưng, mua máu người cách mạng để chữa bệnh….
Với hiện tượng chiếc bánh bao tẩm máu Hạ Du, Lỗ Tấn đã đặt ra một
vấn đề hết sức hệ trọng là ý nghĩa của hi sinh. Tên truyện vì thế mang
tầng nghĩa thứ ba: Phải tìm một phương thuốc làm cho quần chúng giác
ngộ cách mạng và làm cho cách mạng gắn bó với quần chúng. Chiếc
bánh bao thấm máu Hạ Du khi nướng lên lại tỏa mùi hương ngào ngạt cả
quán lão Thuyên. Mùi thơm ở dây là mùi thơm của tinh thần và khí
phách Hạ Du . Bằng chi tiết này ,tác giả đã gián tiếp ca ngợi Hạ Du một


cách kín đáo. Ca ngợi tinh thần , khí phách và phê phán sự xa rời quần
chúng của Hạ Du.


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

mãi thành đường. Nghĩa địa người chết chém phía bên trái nghĩa địa
người nghèo phía bên phải .Con đường mịn là biểu tượng cho một tập
quán xấu đã trở thành thói quen. Là cái ranh giới tự nhiên để phân cách
ngăn cách giữa những người chiến sĩ cách mạng như Hạ Du với quần
chúng , như gia đình Hoa Thuyên , cả Khang ,Năm Gù … Không chỉ
sống họ mới cách biệt nhau mà cho đến khi chết họ cũng cách biệt nhau
bởi con đường mòn nhỏ hẹp , cong queo ấy c. Vòng hoa trên mộ Hạ Du
– Cả hai bà mẹ cùng rất kinh ngạc khi thấy trên mộ Hạ Du có một vịng
hoa : “hoa trắng hoa hồng nằm khoanh trên nấm mộ khum khum…
+ Việc làm của Hạ Du đã khiến mọi người phải suy nghĩ một cách
nghiêm túc.Với vòng hoa, Lỗ Tấn đã bày tỏ sự trân trọng và tiếc thương
đối với người chiến sĩ cách mạng tiên phong. Đồng thời cũng thể hiện sự
traân trọng của ông với cuộc cách mạng Tân Hợi.


+ Rõ ràng vòng hoa trên nấm mộ Hạ Du như muốn khẳng định một chân
lý lịch sử và cách mạng: Trong trạng thái mê muội, tê liệt của quần
chúng thuở ấy, vẫn có người nhớ đến, tiếc thương ngưỡng mộ và quyết
tâm noi gương người cách mạng tiên phong đã ngã xuống vì đại nghĩa.
Vịng hoa thể hiện cho xu thế cách mạng, cho niềm lạc quan đối với tiền
đồ cách mạng. Vòng hoa trong truyện “Thuốc” là một dự cảm về con
đường bão táp, một tia lửa hôm nay sẽ báo hiệu một đám cháy ngày
mai!


+ Vòng hoa trên mộ Hạ Du: Có thể xem vịng hoa là cực đối lập của
“chiếc bánh bao tẩm máu”. Phủ định vị thuốc là bằng chiếc bánh bao
tẩm máu, tác giả mơ ước tìm kiếm một vị thuốc mới- chữa được cả
những bệnh tật về tinh thần cho toàn xã hội với điều kiện tiên quyết là


mọi người phải giác ngộ cách mạng, phải hiểu rõ “ý nghĩa của sự hi
sinh” của những người cách mạng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

tưởng bi quan. d. Hình ảnh những nấm mộ như những chiếc bánh bao
của người giàu trong ngày mừng thọ. Nghĩa địa này là nghĩa địa Cổ Hiên
Ðình Khẩu – nơi chơn xác những người nghèo như cu Thuyên và những
người hoạt động Cách mạng như Hạ Du . Tác giả đã so sánh ngơi mộ ở
nghĩa địa Cổ Thiên Ðình Khẩu : như những chiếc bánh bao của người
giàu trong ngày mừng thọ.


Nghĩa thứ nhất đầy thương cảm: người chết nhiều ( chết vì lạc hậu u mê,
tăm tối) Nghĩa thứ hai: Ðây là lối so sánh rất sâu rất đau , hàm chứa một
ý nghĩa tố cáo rất gay gắt . Lối so sánh này cũng tạo nên một sự đối lập
để làm nổi bật sự tham lam tàn ác của giai cấp thống trị. Những người
nằm dưới những ngôi mộ này như cu Thuyên và Hạ Du đều là những
người chết trẻ , chết non ,chết yểu . Vậy mà mộ của họ lại được so sánh
như như những chiếc bánh bao của những kẻ giàu có , sống lâu trong
ngày mừng thọ . Một đằng là chết non , chết yểu , một đằng là mừng thọ
sống cao tuổi .Ðó là sự đối lập hồn tồn . Từ đó tác giả tố cáo tội ác của
giai cấp thống trị : sống phè phỡn , sống sung sướng trên xương xương
máu của những người nghèo và chiến sĩ cách mạng . Nghĩa thứ ba: Phê
phán người dân TQ u mê về chính trị, khơng biết phân biệt đâu chính
đâu tà. Họ đã để mộ Hạ Du chung với những kẻ chết chém vì ăn cướp. e.
Thời gian nghệ thuật của truyện Tiến triển từ mùa thu Hạ Du bị hành
hình đến mùa xuân trong tiết thanh minh năm sau lúc hai bà mẹ đi thăm
mộ con.Cái chết của hai người con cũng như chiếc lá rời cành để tích
nhựa cho một mùa xuân hi vọng.. . dự báo về một tương lai sáng sủa cho
cách mạng Trung Hoa. Thời gian nghệ thuật trong truyện “Thuốc” vận
động từ mùa thu đến mùa xuân, từ lúc tử tù bị chém, thằng Thuyên ho
lao rồi chết đến tiết thanh minh, trên ngôi mộ Hạ Du có vịng hoa, một


thằng Thun và những nấm mộ khác “lác đác vài nụ hoa bé tý, trăng
trắng, xanh xanh”, trên cành dương liễu đã đâm ra “những mầm non
bằng nửa hạt gạo”. Đó là mầm xanh của mùa xuân hy vọng, hứa hẹn một
ngày mai ấm áp hơn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

Lỗ Tấn một trong những nhà văn xuất sắc nhất của văn học Trung Quốc.
Ông chủ trương lấy tác phẩm của mình để chữa trị căn bệnh tinh thần
cho người dân Trung Hoa lúc bấy giờ. Thuốc là một trong những tác
phẩm tiêu biểu nhất của ông, được sáng tác năm 1919 khi cuộc vận động
Ngũ Tứ bùng nổ.


Tác phẩm có nhan đề là Thuốc, đồng thời đây cũng là hình tượng
trung tâm được phản ánh trong tác phẩm. Thuốc ở đây chính là chiếc
bánh bao tẩm máu người tử tù mà lão Hoa ra pháp trường mua bằng tất
cả số tiền dành dụm được để mang về chữa bệnh cho con trai. Chiếc
bánh bao này, trong quan niệm lúc bấy giờ của người Trung Hoa là
phương thuốc hữu hiệu và đắc dụng nhất để chữa căn bệnh lao nguy
hiểm. Từ quan điểm đó đã cho thấy sự cổ hủ, lạc hậu và mê tín mù
quáng của những con người thiếu hiểu biết. Đồng thời cũng cho người
đọc thấy, đó chính là hình ảnh đất nước Trung Quốc đình đốn, trì trệ lúc
bấy giờ và đặt ra vấn đề cần phải chống lại căn bệnh mê tín dị đoan đã
ăn sâu vào suy nghĩ của những người thiếu hiểu biết. Nhưng bên cạnh
đó, Lỗ Tấn cịn muốn đề cập đến phương thuốc chữa bệnh tinh thần cho
người dân Trung Hoa: đầu tiên là căn bệnh gia trưởng, u mê, lạc hậu về
mặt khoa học. Đặt ra vấn đề người Trung Quốc cần phải tỉnh táo, không
được tiếp tục ngủ mê trong cái nhà hộp bằng sắt khơng có cửa sổ như
vậy nữa. Chữa căn bệnh thứ hai là căn bệnh u mê lạc hậu về mặt chính
trị của người dân Trung Quốc. Và căn bệnh cuối cùng là căn bệnh xa rời
quần chúng của người cách mạng đương thời. Qua đó, Lỗ Tấn đã làm
nổi bật chủ đề tư tưởng của tác phẩm là nỗi đau của đất nước Trung


Quốc đương thời: Nhân dân đang ngủ mê trong cái nhà hộp bằng sắt
khơng có cửa sổ, u mê lạc hậu về khoa học, về chính trị, cịn người chiến
sĩ cách mạng bôn ba trong chốn quạnh hiu, không được sự trợ giúp từ
các lực lượng xã hội khác. Như vậy, bằng một nhan đề hết sức ngắn gọn,
chỉ có một từ duy nhất nhưng đã khái quát, nói lên những vấn đề lớn của
tác phẩm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

trong tác phẩm. Trước hết là sự xuất hiện của nhân vật đám đông, họ
xuất hiện lần đầu tiên vào buổi sáng sớm, ở pháp trường, khung cảnh
diễn ra vô cùng náo loạn, họ xô đẩy, chen lấn nhau khiến lão Hoa thiếu
chút nữa đã ngã. Trong họ mang niềm phấn khích tột cùng, háo hức đến
xem cảnh hành hình người chiến sĩ cách mạng Hạ Du. Lần thứ hai đám
đông được tác giả khắc họa khi trời đã sáng hẳn, lúc này khơng gian có
sự thay đổi, từ pháp trường dịch chuyển về quán trà của lão Hoa, họ bàn
tán, bình luận về người tử tù, về cái chết của tử tù, về những việc Hạ Du
đã làm mà họ được nghe kể lại, họ cho rằng Hạ Du là điên, là khốn nạn;
về việc cụ Ba tố cáo cháu mình để nhận tiền thưởng, thì họ lại cho rằng
hành động của cụ Ba là vô cùng khôn ngoan; cuối cùng là về việc lão
Hoa nhanh chóng, kịp thời nắm bắt cơ hội mua máu của Hạ Du để tẩm
bánh bao chữa bệnh cho thằng Thuyên, và đám đông cho rằng lão Hoa là
một kẻ biết làm ăn và may mắn. Qua những điều họ bàn tán, họ nhận
xét, ta có thể thấy rằng họ là những kẻ hết sức mê muội, ngu ngốc về
thực trạng của đất nước, ngu dốt, mê tín khi cho rằng bánh bao tẩm máu
người có thể chữa bệnh. Đây chính là căn bệnh tinh thần ghê gớm,
khủng khiếp hơn cả căn bệnh lao, đang gặm nhấm người dân Trung
Quốc, khiến họ mất hết ý chí, mụ mị, và ngu muội hơn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

nghĩ, lí tưởng của anh là điên rồ, ngu ngốc. Bởi vậy, khi anh chết, đám
đông bàn tán về cái chết của anh, về việc anh làm; lão Nghĩa đánh vì anh
rủ lão làm giặc; đặc biệt ngay cả những người thân trong gia đình cũng


khơng hiểu anh, cụ Ba đem cháu ra đầu thú, mẹ anh xấu hổ khi đến thăm
mộ con. Cả cuộc đời anh là chuỗi bi kịch đau đớn. Hạ Du hiện lên là
hình ảnh tượng trưng của cuộc cách mạng Tân Hợi, của những người
chiến sĩ đi tiên phong trong cách mạng đương thời.


Cuối tác phẩm là khung cảnh nghệ thuật vô cùng đặc sắc, hai bà mẹ đi
thăm mộ con. Ở đây có sự dịch chuyển thời gian nghệ thuật từ đêm mùa
thu năm trước đến mùa xuân năm sau: Mùa thu vốn gợi sự tàn lụi, héo
úa, về câu chuyện về cái chết của Hạ Du. Còn mùa xuân lại gợi sự hồi
sinh, gắn với câu chuyện mọi người quay lại nhìn nhận về người chiến sĩ
cách mạng Hạ Du, câu chuyện về hai bà mẹ đi thăm mộ con, câu chuyện
về vòng hoa bất ngờ xuất hiện trên mộ Hạ Du. Khơng gian nghệ thuật là
hình ảnh con đường mịn phân chia ranh giới: một bên là khu mộ dành
cho người nghèo, một bên là khu mộ dành cho người chết chém. Đây là
biểu tượng cho một tập quán xấu đã thành thói quen. Hình ảnh bà mẹ
thằng Thun đã chủ động bước qua ranh giới của con đường mòn để
đến an ủi bà mẹ Hạ Du. Bước chân đó khơng chỉ đơn thuần là một hành
động, mà nó là bước chân dám vượt qua định kiến để gặp gỡ nhau trong
sự đồng cảm và chia sẻ. Bên cạnh đó hình ảnh vòng hoa trên mộ Hạ Du,
khiến cho người mẹ của Hạ Du ngạc nhiên, thảng thốt và rất đỗi vui
mừng, bây giờ bà mới bắt đầu hiểu được công việc có ý nghĩa cao cả của
con mình. Đồng thời bó hoa đó cũng thể hiện thái độ trân trọng của tác
giả, của hậu thế đối với người chiến sĩ cách mạng đi tiên phong; niềm tin
vào tương lai, tiền đồ của cách mạng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

thức tỉnh quần chúng. Và ngơi kể thứ ba chân thực, khách quan, có
những khúc đoạn chuyển điểm nhìn sang nhân vật, giúp câu chuyện trở
nên sinh động và giàu chất trữ tình hơn.


Bằng nghệ lối viết cô đọng, giàu sức gợi, tác phẩm đã nói lên nỗi đau


của đất nước Trung Hoa đương thời, người dân mê muôi, u mê về xã
hội, khoa học, chính trị, cịn người chiến sĩ đơn độc trên con đường tìm
ánh sáng lí tưởng. Tác phẩm như một chuông cảnh tỉnh, một liều thuốc
chữa căn bệnh tinh thần cho người dân Trung Quốc.


<b>Bài làm 4</b>


Lỗ Tấn (1881 – 1936) tên thật là Chu Thụ Nhân, quê ở phủ Thiệu Hưng,
tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc, ông là nhà văn cách mạng thế hệ đầu tiên
có phương châm và mục đích sáng tác đúng đắn là dùng ngòi bút để
phanh phui các “căn bệnh tinh thần của quốc dân” – một trong những
nguyên nhân quan trọng khiến cho xã hội Trung Quốc trở nên trì trệ và
suy thoái. Sự nghiệp sáng tác của Lỗ Tấn gồm 3 tập truyện ngắn, 16 tập
tạp văn với các đề tài chính trị, xã hội, văn chương… ơng xứng đáng là
ngọn cờ đầu của văn học Trung Quốc hiện đại.


Truyện ngắn Thuốc sáng tác năm 1919 là tác phẩm thể hiện khá rõ
những băn khoăn, day dứt của Lỗ Tấn trước những vấn đề quan trọng
của xã hội Trung Quốc đương thời. Tác giả phê phán sự lạc hậu, mê
muội đáng thương của số đông dân chúng và thái độ xa rời thực tế xa rời
quần chúng của những người khởi xướng và tham gia cuộc cách mạng
Ngũ Tứ lúc bấy giờ. Đồng thời ông cũng gửi gắm trong truyện niềm hi
vọng vào tương lai Trung Quốc sẽ có một cuộc cách mạng triệt để của
quần chúng và vì quần chúng. Bối cảnh của truyện là xã hội tăm tối, ngột
ngạt dưới ách thống trị của triều đình Mãn Thanh trước khi nổ ra phong
trào cách mạng Ngũ Tứ – sự kiện mở đầu cho lịch sử Trung Quốc hiện
đại.


</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

Thay vào đó là một xã hội đình trệ, suy thoái mà theo nhận định của Lỗ
Tấn: So với tiến bộ thì đình trệ cũng gần với con đường diệt vong rồi.


Nội dung truyện xoay quanh chủ đề Thuốc – một thứ “thuốc” kinh
khủng, gớm ghiếc hiếm có xưa nay. Đó là bánh bao tẩm máu tươi của
những kẻ tử tù bị chém đầu, đem nướng lên cho người bệnh ăn. Thiên hạ
đồn rằng thứ thuốc ấy chữa khỏi được cà những bệnh thuộc “tứ chứng
nan y” như phong, lao, cổ, lại. Vợ chồng lão Hoa chủ quán trà gom góp
số tiền tích cóp đã lâu và lão Hoa đích thân đến tận pháp trường để mua
“thuốc" cho con trai bị bệnh lao nặng, với hi vọng là nó sẽ khỏi bệnh.
Nhưng đau xót thay, máu của tử tù chết chém khơng chữa được bệnh
lao! Thế là tiền mất tật mang, cuối cùng đứa con trai độc đinh của vợ
chồng lão Hoa vẫn chết.


Ngòi bút của Lỗ Tấn đã đề cập tới một vấn đề đáng lo ngại là tập quán
chữa bệnh phản khoa học – một trong những biểu hiện của tình trạng lạc
hậu về mặt khoa học ở Trung Quốc, cũng như trong dời sống tinh thần
của dân chúng mà nhân vật Thuyên chỉ là một trong muôn ngàn nạn
nhân của tập quán hủ lậu ấy.


Tuy nhiên, Lỗ Tấn còn kín đáo gửi gắm dụng ý của mình trong nghĩa
hàm ẩn của truyện. Con bệnh trầm kha không phải là anh chàng Thun
tội nghiệp mà lị đầu óc mê muội của vợ chồng lão Hoa nói riêng và số
đơng dân chúng nói chung. Theo nhận xét của tác giả thì cả xã hội Trung
Quốc thời ấy giống như một người mắc bệnh nặng, địi hỏi phải có một
thứ “thuốc” đặc trị thì mới có thể chữa khỏi ; đồng thời ông cũng chỉ ra
rằng con đường đi của dân tộc Trung Hoa lúc này đã lâm vào ngõ cụt,
cần phải nhanh chóng phát quang mọi con đường mới.


Truyện ngắn Thuốc giống như một vở kịch ngắn gồm bốn cảnh:


Cảnh thứ nhất : Lão Hoa mang tiền đến pháp trường để mua chiếc bánh
bao tẩm máu tử tù.



</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

Cảnh thứ ba: Khách khứa tụ tập bàn tán ở quán trà lão Hoa.


Cảnh thứ tư: Tiết Thanh minh, mẹ Thuyên ra thăm mộ con, tình cờ gặp
mộ của tử tù bữa trước.


Mở đầu tác phẩm, tác giả tả cảnh lão Hoa chủ quán trà dậy thật sớm, bảo
vợ đưa tiền để đến pháp trường mua chiếc bánh bao tẩm máu tử tù về
làm thuốc chữa bệnh lao cho đứa con trai duy nhất. Lỗ Tấn có cách kể
chuyện xen miêu tả rất tự nhiên, sinh động. Nhiều chi tiết nhỏ nhưng lại
có tác dụng kết nối, tạo mạch cho câu chuyện tiếp diễn theo trình tự thời
gian. Chẳng hạn tràng ho không dứt của thằng Thuyên như thúc giục lão
Hoa nhanh chóng lên đường lúc trời chưa sáng; hay lịng thương con và
niềm hi vọng con sẽ khỏi bệnh khiến cho lão Hoa bước nhanh hơn.


Lão Hoa mê muội tin vào thứ thuốc chữa bệnh lao quái dị: bánh bao tẩm
máu tử tù nên cố lách vào đám đông hỗn độn đang xô đẩy nhau ào ào để
mua cho bằng được thứ mà lão coi như thuốc tiên, cổ thể cứu mạng đứa
con trai của mình. Thứ “thuốc” đáng sợ và hiếm có ấy được rao bán như
bán các món hàng bình thường khác. Ngịi bút tả thực sắc sảo của Lỗ
Tấn khiến người đọc cảm thấy như cảnh tượng hãi hùng ấy đang diễn ra
trước mắt.


Có một chi tiết mang ý nghĩa ẩn dụ là không phải chỉ một mình lão Hoa
vội vàng đi mua bánh bao tẩm máu tử tù để chữa bệnh mà rất nhiều
người khác cũng có ý định như lão. Qua chỉ tiết này, Lỗ Tấn muốn nói
đến thực trạng đáng lo ngại: số đơng dân chúng Trung Quốc đương thời
vẫn tin vào những điều nhảm nhí khơng có cơ sở khoa học, bởi thói mê
tín dị đoan đã tiêm nhiễm vào đầu óc họ, trở thành một căn bệnh tinh
thần khó chữa.



</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

Không bao lâu, chiếc bánh đã nằm gọn trong bụng… Lão Hoa đứng một
bên, bà Hoa đứng một bên, trố mắt nhìn con như muốn rót vào người
con một cái gì, đồng thời cũng muốn lấy ra một cái gì.


Tác giả đã thể hiện tài tình diễn biến tâm trạng của từng nhân vật trong
đoạn văn này. Cha mẹ Thuyên nhìn con ăn chiếc bánh bao mà lịng khấp
khởi hi vọng, tin rằng con sẽ nhanh chóng khỏi bệnh. Họ muốn rót vào
người con sự sống, đồng thời cũng muốn lấy ra căn bệnh lao đáng sợ mà
người đời đã liệt vào hàng “tứ chứng nan y", ai mắc phải là cầm chắc cái
chết. Vợ chồng lão Hoa là những nhân vật vừa đáng thương vì tình phụ
tử, mẫu tử của họ thật cảm động, nhưng lại vừa đáng giận bởi họ mê tín
đến ngu muội.


Hình ảnh đám đơng trong quán trà của lão Hoa cũng phản ánh rất chân
thực về “căn bệnh tinh thần” của người trung Quốc. Quán trà lão Hoa là
nơi tụ họp thường xuyên của khách bình dân. Tại đây, lượng thơng tin
chẳng những rất phong phú mà còn rất thật.


Khách uống trà gồm một người râu hoa râm, cậu Năm Gù, bác cả
Khang, một anh chàng hơn hai mươi tuổi… và một số người khác. Họ là
những người thuộc số đống dân chúng Trung Quốc lúc bấy giờ. Quán trà
của lão Hoa giống như xã hội Trung Quốc thu nhỏ.


Đám khách uống trà bàn tán xoay quanh hai sự kiện nóng hổi : Thứ nhất
là chuyện lão Hoa mua được “thần dược”; thứ hai là chuyện Hạ Du bị
chết chém. “Thuốc tiên” để trị “bệnh quỷ” mà người Trung Quốc vẫn
tơn sùng lúc bấy giờ chính là bánh bao tẩm máu tử tù. Bánh bao thì ln
ln có sẵn, nhưng cịn máu tử tù ? Máu tử tù khơng sẵn nhưng cũng
khơng phải là hiếm, chì cẩn có tiền là mua được, nhất là vào đúng dịp có


tử tù bị chém. Lão Hoa có con mắc bệnh lao nặng, may mắn gặp ngay
dịp Hạ Du bị chém đầu. Cho nên hôm ấy ở quán trà nhà lão Hoa, người
ta chỉ bàn đến hai chuyện ấy cũng là điều dễ hiểu, vấn đề quan trọng ở
đây là thái độ của họ trước hai sự kiện này ra sao?


</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

ấy. Chỉ trong một đoạn văn ngắn mà có tới sáu lần nhắc lại câu : Cam
đoan thế nào cũng khỏi, giống lời khẳng định chắc chắn như đinh đóng
cột.


Về sự Kiện thứ hai, mọi người đều tỏ thái độ khinh bỉ, dè bỉu và dùng
những lời lẽ xấu xa nhất để gọi Hạ Du : tên phạm, thằng quỷ sứ, thằng
nhãi con, thằng khốn nạn… Họ coi anh là giặc, là dám vuốt râu cọp, là
điên. Họ cho rằng anh bị chém đầu là đích đáng. Họ hả hê như chính
mình vừa trừ khử được một kẻ tội đồ. Khi nghe kể đến đoạn Hạ Du bị
lão Nghĩa quản ngục đánh cho hai cái bạt tai vì dám rủ lão “làm giặc” thì
họ thú q, cứ nhao nhao nói nói cười cười. Trong khi đó, họ lại xuýt
xoa khen cụ Ba đã sáng suốt đem nộp cháu mình cho nhà chức trách,
vừa khơng bị mất đầu vì chứa chấp một tên phản nghịch, vừa được
thưởng hai mươi lạng bạc.


Qua cuộc bàn luận của đám đông ở quán trà, Lỗ Tấn khéo léo phơi bày
thực trạng tinh thần u mê tăm tối của phần lớn dân chúng Trung Quốc
thời đó. Cách mạng Tân Hợi là một cuộc cách mạng không triệt để.
Người dân chưa được tuyên truyền, giác ngộ nên họ coi những người
làm cách mạng là làm giặc”. Họ càng khơng hiểu gì về mục đích cao cả
của cách mạng.


Lỗ Tấn nhận thức rất rõ “căn bệnh tinh thần” của người Trung Hoa đã
đến mức trầm trọng. Đã đến lúc phải khẩn cấp tìm ra một phương thuốc
“đặc hiệu” để chữa trị căn bệnh ấy. Nhưng đó là phương thuốc nào?


Lúc này, cách mạng Trung Quốc đang dò dẫm tìm đường, Lỗ Tấn cũng
đang tìm đường, ơng chưa thể đưa ra một giải pháp chính xác, nhưng
ơng đã dự cảm được một điểu gì đó. Dự cảm ấy phần nào được thể hiện
qua hình tượng nhân vật Hạ Du.


</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

muội của dân chúng. Nhưng thật đáng buồn là ý chí, mục đích và hành
động của anh lại bị mọi người hiểu một cách sai lạc. Cụ Đa là người thân
cho rằng anh “làm giặc” nên đã tố giác anh để láy tiền thưởng. Dân
chúng thì chờ anh bị chém đầu để lấy máu anh tẩm vào bánh bao làm
thuốc chữa bệnh. Với những tôn đao phủ tàn bạo, tham lam thì máu Hạ
Du là một món hàng đem lại lợi nhuận béo bở. Với đám dông dân
chúng, Hạ Du là đối tượng để cho họ chế giễu và khinh bỉ. Thậm chí đến
cả mẹ anh cũng khơng hiểu đúng về con trai mình.


Xây dựng nhân vật Hạ Du, tác giả vừa bày tò thái độ trân trọng và kính
phục, vừa ngầm phê phán những người làm cuộc cách mạng Ngũ Tứ xa
rời và chưa giác ngộ được quần chúng. Thật xót xa và đau đớn trước
hình ảnh người chiến sĩ cách mạng khơng hịa hợp được với quần chúng
và cịn bị dân chúng nhìn bằng con mắt miệt thị và giễu cợt. Chính vì thế
mà sự hi sinh của họ trở nên vô nghĩa.


</div>
<span class='text_page_counter'>(28)</span><div class='page_container' data-page=28>

Lỗ Tấn còn gửi gắm một hàm ý khác nữa trong hình ảnh con đường mịn
chia đơi nghĩa địa: ranh giới giữa người nghèo và người cách mạng rất
gần. Những người làm cách mạng là ai nếu không phải là tầng lớp nghèo
khổ bị áp bức, bóc lột đến cùng cực, khơng cịn con đường nào khác là
phải tự vùng lên để giải phóng cuộc đời mình? Nếu như lúc cịn sống họ
chưa thật sự hiểu nhau, gắn bó với nhau thì lúc chết, nghĩa địa này là nơi
họ được ở gần nhau.


Hai bà mẹ cùng ra thăm mộ con trong tiết Thanh minh. Đó là bà Hoa,


mẹ của Thuyên và bà mẹ của Hạ Du – tử tù chết chém. Bà Hoa đặt lễ vật
trước mộ con, khấn vái rồi khóc lóc một hồi. Bà kia cũng làm như vậy
trước mộ con mình, chỉ khác là mộ của Thuyên ở bên phải đường mịn,
cịn ngơi mộ kia thì nằm bên trái đường mịn, gần như đối diện nhau.
Tình huống này đã tác động rất mạnh tới suy nghĩ và cảm xúc của người
đọc. Cả những người đã chết và những người đang sống đều là nạn nhân
đau khổ, đáng thương của xã hội phong kiến Trung Quốc hủ bại, bế tắc
đương thời.


Câu hỏi đẩy ngạc nhiên và băn khoăn của bà mẹ Hạ Du: Thế này là thế
nào ? khỉ nhìn thấy trên nấm mộ con trai mình có những cánh hoa trắng
hoa hồng… khơng nhiêu lắm, xếp thành vịng trịn trịn, khơng lấy gì làm
đẹp, những cũng chỉnh tề lặp lại hai lần gợi nhiều day dứt. Câu hỏi ấy
thể hiện thái độ khó hiểu của bà mẹ trước hành động tham gia cách
mạng và cái chết bi thảm của con trai mình; đồng thời chất chứa cảm
xúc chua xót, đau khổ và tự trách.


</div>
<span class='text_page_counter'>(29)</span><div class='page_container' data-page=29>

Một trong số những người khơng sợ liên liên chính là Lỗ Tấn. Nhà văn
đã bày tị thái độ kính trọng đối với các chiến sĩ của phong trào cách
mạng Ngũ Tứ. Ông đã đặt vòng hoa tưởng niệm trên mộ Hạ Du. Đó
cũng là cách ơng nêu ra vấn đề cấp thiết là phải có một phương thuốc
đặc trị để cứu chữa “căn bệnh tinh thần” của người Trung Quốc. Phương
thuốc đó quyết khơng phải là cái gì khác ngồi con đường cách mạng,
nhưng không nửa vời như cuộc cách mạng Tân Hợi mà là cuộc cách
mạng triệt để của quần chúng và vì quần chúng.


Hình ảnh vịng hoa trên mộ Hạ Du còn chứng tỏ nhà văn Lỗ Tấn vẫn ấp
ủ hi vọng vào ngày mai tươi sáng, cho đù những người tham gia phong
trào cách mạng Ngũ Tứ đang bị chính quyền ráo riết khủng bố và bản
thân tác giả cũng đang ở tâm trạng đau đớn, bàng hoàng. Nó làm cho cái


chết của Hạ Du bớt phần bi thảm bởi vì dù sao thì cũng có người xúc
động và hiểu được phần nào ý nghĩa cái chết của anh. Đó cũng là niềm
an ủi cho những dũng sĩ đang bôn ba trong chốn quạnh hiu. (Cách gọi
của Lỗ Tấn đối với những người tham gia phong trào cách mạng Ngũ
Tứ).


Câu chuyện về Thuốc được miêu tả ở hai thời điểm là mùa thu và mùa
xuân. Hạ Du và Thuyên chết vào mùa thu, đồng nghĩa với sự tàn lụi. Hai
cái chết của hai người trai trẻ có số phận khác nhau và cách họ chết cũng
không giống nhau. Thế nhưng, đến mùa xuân, hai bà mẹ có chung nỗi
đau mất con dường như đã đồng cảm với nhau. Đặt câu chuyện vào thời
điểm của hai mùa: một mùa có tính chất tàn tạ, một mùa có tính chất hồi
sinh, tốc giả dường như muốn gửi gắm vào đó niềm hi vọng về sự đổi
thay tất yếu. Dù không có những biểu hiện thật rõ ràng, song với cách
kết cấu và thời gian nghệ thuật đầy ý nghĩa tượng trưng, tác giả đã gieo
vào lòng người đọc một niềm tin, một niềm hi vọng về tương lai tươi
sáng của dân tộc mình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(30)</span><div class='page_container' data-page=30>

chung một âm điệu trầm buồn thể hiện sự suy tư, lo lắng, day dứt đầy
tinh thần trách nhiệm của Lỗ Tấn trước số phận và tương lai của dân tộc
mình. Có thể coi tác phẩm này giống như con dao mổ sắc bén trong tay
một bác sĩ tài ba, mạnh dạn cắt bỏ những khối u ác tính về tinh thần của
xã hội đương thời để cứu lấy dân tộc Trung Hoa. Nhà văn Lỗ Tấn xứng
đáng là cây đại thụ của văn học Trung Quốc và Danh nhân văn hóa thế
giới.


<b>Bài làm 5</b>


Lỗ Tấn trước theo ngành y, sau chuyển sang viết văn và tiếp tục nghiên
cứu, dịch thuật văn hóa, lãnh đạo văn nghệ…



Ông quan niệm viết văn, bằng sức mạnh nghệ thuật thì mới có thể thức
tỉnh nhân dân, giáo dục tinh thần. Vì vậy trong sáng tác, ơng rất có ý
thức về tính mục đích. Ơng từng nói: “Khi chọn đề tài, tôi đều chọn
những con người bất hạnh trong xã hội bệnh tật, với mục đích lơi hết
những bệnh tật của họ ra làm cho mọi người chú ý mà tìm cách chạy
chữa”. Trường hợp truyện ngắn Thuốc có đề cập đến việc chữa bệnh,
nhưng có lẽ tư tưởng chính của nhà văn là sự ghi nhận ý chí dũng cảm
và sự hi sinh đẹp đẽ của những người cách mạng.


Ở phần một, lão Hoa đi tìm thuốc cho con. Việc mua chiếc bánh bao
nhuốm máu đỏ tươi để về chữa bệnh cho con là đầu mối dẫn đến tư
tưởng quan trọng nhất. Chiếc bánh bao được thấm máu của người tù bị
chết chém, theo truyền miệng trong dân chúng, là có thể chữa được bệnh
lao. Sau khi lão Hoa mang bánh bao về nhà cho con trai là Thun giữa
cảnh đơng người tại qn thì nhân vật Cả Khang xuất hiện và ln mồm
nói oang oang về giá trị của thuốc - bánh bao. Bất chợt người râu hoa
râm hỏi Cả Khang về một người bị chém thì trọng tâm của câu chuyện
bắt đầu phát triển.


</div>
<span class='text_page_counter'>(31)</span><div class='page_container' data-page=31>

cách mạng và đã bị giết rất dã man. Khi viết truyện ngắn Thuốc này,
theo nhà văn, đó là những dịng tưởng nhớ tình bạn đối với Thu Cận
-người làm cách mạng đã bị giết hại. Nhân vạt Hạ Du có ý ám chỉ Thu
Cận.


Trước cái chết bi thảm của người cách mạng này, quần chúng đã đàm
luận rất nhiều. Những lời lẽ của họ lại tự để lộ những căn bệnh phổ biến
bây giờ trong xã hội. Đó là bệnh ham tiền của, tranh thu trục lợi. Việc
lão Nghĩa lấy áo của người bị tử hình, cụ Ba đem cháu ra đầu thú được
thưởng hai mươi lăm lạng bạc, việc bán máu của người bị xử chém... đã


chứng tỏ điều này. Đó là bệnh thiếu trí tuệ xét đoán, thiếu tinh thần dân
tộc. Hạ Du là người hoạt động cách mạng cho dân tộc. Nêu cao tình cảm
yêu nước, mà không được một số người nhận ra. Họ cịn nói nhiều điều
sai trái. Nhưng Cả Khang, nhân vật rau hoa râm, cậu Năm Gù đều là
những người xem Hạ Du là người điên, là quỷ sứ, là khốn nạn... Tuy
nhiên khi nói về Hạ Du, co một chi tiết giàu ý nghĩa về quan điểm và
bản lĩnh của Hạ Du đã làm cho bọn họ ngơ ngác, như là khơng có trình
độ hiểu được. Đó là lão Nghĩa tát Hạ Du hai bạt tai (vì Hạ Du nói
chuyện cách mạng với lão) thì Hạ Du lại nói với Lão Nghĩa rằng; “Thật
đáng thương hại, thật đáng thương hại!”. Đây quả là câu nói có tâm độ
thật sự của một người cách mạng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(32)</span><div class='page_container' data-page=32>

Thế này là thế nào?” Rồi bà chợt hiểu, bà khóc. Đây chính là vòng hoa
cho những người cách mạng.


Cái chết của Hạ Du xứng đáng được kính tặng những vịng hoa tươi đẹp.
Những bơng hoa, những vịng hoa xinh đẹp toả hương, sẽ an ủi tấm lịng
người mẹ, xóa tan cái thê lương, ảm đạm. Bằng chi tiết này. Lỗ Tấn đã
mang lại niềm tin, một sự lạc quan cần thiết: niềm tin vào cách mạng. Có
thể có hai chủ đề trong truyện ngắn này, nhưng chắc chắn truyện ngắn
Thuốc thể hiện suy nghĩ và tình cảm nhà văn đối với các liệt sĩ cách
mạng nói chung, đối với những người bạn thân nói riêng. Máu của Hạ
Du đã đổ vì lí tưởng, nhưng qua kết cấu và hình tượng trong tác phẩm
thì máu ấy không bị quên lãng, mà sẽ thành những tràng hoa đầy sự
ngưỡng mộ của nhân dân.


Với một vấn đề mang tính quan điểm được diễn đạt bằng ngơn ngữ văn
xi, theo một kết cấu có chủ định, có khả năng miêu tả chi tiết và các
hình ảnh, hình tượng có tính khái qt, Lỗ Tấn đã truyền đạt thành cùng
ý định nghệ thuật của mình. Giáo sư Lương Duy Thứ nói rất đúng: “Lỗ


Tấn khơng qn cơng lao của những người Cách mạng Tân Hợi. Ông
vẫn khâm phục những con người cách mạng chân chính, những chiến sĩ
dũng cảm hiên ngang, và ông ghi một ấn tượng tốt đẹp về họ. Hạ Du
(Thuốc) là người có chí lớn, dũng cảm, dám gãi đầu hổ. Lỗ Tấn không
quên đặt một vịng hoa trên mộ anh. Đó là sự ghi nhận cơng lao của
những người cách mạng chân chính”.


<b>Bài làm 6</b>


Thuốc là một truyện ngắn nhưng hàm chứa một nội dung lớn lao và sâu
sắc. Nói như nhà văn Nguyễn Tn là có kích thước của truyện dài. Nó
khơi dậy nỗi ưu quốc ưu dân. Nó đánh trúng căn bệnh trầm kha của dân
tộc Trung Quốc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(33)</span><div class='page_container' data-page=33>

về chiếc bánh bao tẩm máu, về nghĩa địa mồ mả dày khít được phán ranh
giới bởi một con đường mịn.


Nhân vật chính của truyện là đám đơng quần chúng mê muội, người
cách mạng Hạ Du chỉ ở tuyến sau và được giới thiệu qua đối thoại giữa
đám đông quần chúng. Truyện ngắn Thuốc được viết vào năm 1919,
đúng vào lúc cuộc Vận động Ngũ tứ bùng nổ, sau Cách mạng Tân Hợi
1911, cuộc cách mạng mà Lỗ Tấn hiểu rõ những hạn chế của nó. Trên
thực tế, cuộc cách mạng này có thành tích là đánh đổ chế độ phong kiến,
nhưng cũng có nhiều nhược điểm.


Đó là sự xa rời quần chúng khiến cho quần chúng không được tuyên
truyền giác ngộ. Mặt khác lại nửa vời, thay thang không đổi thuốc, cội rễ
của chếđộ phong kiến không bị đánh bật, đời sống xã hội khơng có gì
thay đổi. Những điều này Lỗ Tấn đã miêu tả một cách sinh động và hình
tượng trong AQ chính truyện. Trong Thuốc, qua nhân vật Hạ Du, Lỗ


Tấn bày tỏ sự kính trọng và lịng thương cảm sâu sắc đối với những
chiến sĩ tiên phong của Cách mạng Tân Hợi.


Trước tiên, đó là bạn bè đồng hương Thiệu Hưng cùng ôm mộng "cải tạo
nhân sinh", cùng Đông du sang Nhật để học hỏi công cuộc Duy Tân, rồi
gia nhập tổ chức cách mạng Đồng Minh Hội của Tôn Trung Sơn, rồi về
nước tuyên truyền cách mạng và bị khủng bố, bị tàn sát như Từ Tích
Lân, Thu Cận, đặc biệt là Thu Cận.


Chính Lỗ Tấn cho biết là ông viết về Hạ Du là đề nhớ về Thu Cận (Hạ
đối với Thu, Du và Cận đều thuộc bộ ngọc, là hai loại ngọc). Trong
không khí khủng bốcách mạng Tân Hợi, đây là cách né tránh kiểm
duyệt. Thu Cận là nhà nữ cách mạng tiên phong thời cận đại, từng du
học ở Nhật, tham gia cách mạng rồi bị trục xuất về nước, lập tờ Trung
Quốc nữ báo đầu tiên tuyên truyền bình đẳng nam nữ, chống phong kiến
quân phiệt.


</div>
<span class='text_page_counter'>(34)</span><div class='page_container' data-page=34>

Hiên Đình Khẩu trong thành Thiệu Hưng mà Lỗ Tấn cho là thấp thoáng
ẩn hiện trong tác phẩm.


Là nhà văn đã để lại hai phần ba tác phẩm nói về số phận người phụ nữ
Trung Quốc, là nhà văn quan tâm sâu sắc đến sự vươn mình của phụ nữ,
Lỗ Tấn đã khơng chỉ một lần nhắc đến Thu Cận. Số phận bi thảm của
nhà nữ cách mạng trẻ tuổi này đã khắc sâu trong tâm khảm nhà văn.
Nhưng Thu Cận cũng đồng thời là biểu tượng của cả một lớp thanh niên
giác ngộ sớm thời bấy giờ. Trong truyện Câu chuyện về cái đầu tóc, Lỗ
Tấn đã truy điệu cả một lớp dũng sĩ "bôn ba trong vắng lặng" như vậy.
Ơng viết: Có những thanh niên bơn ba vất vả mấy năm rịng, nhưng
những viên đạn vơ tình đã kết liễu đời họ; có những thanh niên ám sát
quan lại, nhưng bắn không trúng, phải chịu một tháng khổ sai ở trong tù;


một số thanh niên khác thì đang ơm ấp chí hướng cao xa, nhưng rồi bỗng
nhiên mất tích, đến xác của họ cũng không biết ở đâu."


Truy điệu Hạ Du cũng là truy điệu Thu Cận và cả một lớp người cách
mạng giác ngộ sớm, cô đơn và bị những người đang ngủ mê gọi là điên.
Hạ Du nằm trong hệ thống các nhân vật giác ngộ sớm "đi trước buổi
bình minh" mà quần chúng ngủ mê gọi là điên như người điên trong
Nhật kí người điên, người điên trong Đèn khơng tắt. Hạ Du dũng cảm,
hiên ngang, xả thân vì nghĩa lớn, nhưng lại rất có đơn, khơng ai hiểu
việc anh làm, đến nỗi mẹ anh cũng gào khóc kêu anh chết oan.


</div>
<span class='text_page_counter'>(35)</span><div class='page_container' data-page=35>

Trong truyện Thuốc, ông để cho hai bà mẹ có con chết chém và chết
bệnh bước qua con đường mòn cố hữu đến gập nhau và cùng sững sờ
trước vòng hoa trên mộ người cách mạng. Nhà văn vẫn vững tin vào tiền
đồ cách mạng. Ơng nói với mọi người rằng máu người tử tù đã thức tỉnh
một bộ phận quần chúng; đã có người hiểu được cái chết vinh quang của
họ và nguyện bước tiếp bước chân khai phá của họ.


"Nhưng truyện không đặt nhân vật cách mạng vào vị trí chủ yếu mà chỉ
đặt ở tuyến ngầm phía sau. Điều này có dụng ý sâu sắc: khi quần chúng
chưa giác ngộ thì máu của người cách mạng đổ ra thật vô nghĩa, không
được ai chú ý. Truyện đặt sốđông quần chúng chưa giác ngộ vào vị trí
chủ yếu để chỉ rõ rằng, mục đích của tác phẩm vẫn là vạch trần sự đầu
độc của tư tưởng phong kiến, nhằm thức tỉnh quần chúng đang mê
muội." (Lâm Chí Hạo — Truyện Lỗ Tân)


Thuốc vừa là tiếng Gào thét để "trợ uy cho những dũng sĩ đang bôn ba
trong chốn quạnh hiu", vừa là sự bộc bạch tâm huyết của một ngòi bút
lạc quan tin tưởng: "Riêng về phần tôi, tôi vẫn cho rằng hiện nay, tôi
không cịn phải là người có điều gì bức xúc, khơng nói ra khơng được,


nhưng hoặc giả bởi vì chưa thể quên hết những nỗi quạnh hiu, đau khổ
của mình ngày trước, nên có lúc khơng thể khơng gào thét lên mấy tiếng
đế an ủi những kẻ dũng sĩ đang bôn ba trong chốn quạnh hiu, mong họ ở
nơi tuyên đầu được vững tâm hơn..." (Lỗ Tấn,Tựa Gào thét, 1922).
"Những kẻ dũng sĩ" đây là hình tượng của Hạ Du chăng?


<b>Bài làm 7</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(36)</span><div class='page_container' data-page=36>

Nhan đề của tác phẩm chỉ gồm một chữ thuốc nhằm thể hiện lên sự quan
trọng của phương thuốc chữa bệnh tinh thân cho người Trung Quốc.
Nhan đề nhắc đến Thuốc trong tác phẩm cũng nhắc thuốc thế nhưng một
phương thuốc được coi là ngộ nhận và sự u muội của nhân dân Trung
Hoa còn viên thuốc kia lại là phương thuốc mà tác giả đã kỳ công kê đơn
để chữa bệnh cho những người u muội ấy.


Nhà văn của chúng ta quyết định học y thuật bởi vì hồi nhỏ cha ơng bị
bệnh. Một tên lang băm đã kê nhầm đơn thuốc cho cha của ông cho nên
cha ơng bệnh nặng hơn mà chết. Chính vì thế mà ông muốn trở thành
thầy thuốc để biết y thuật cứu giúp con người. Trong một lần đang học y
bên Nhật ơng vơ tình đọc được tình trạng u mi của nhân dân nước
mình nên ơng quyết định khơng học nữa mà quay về nước làm văn làm
ra phương thuốc tinh thần để trị căn bệnh tinh thần kia.


Tác phẩm mở đầu bằng hình ảnh ơng bà Hoa Thun giục nhau đi lấy
thuốc về cho con trai độc đinh của ơng bà. Ơng Hoa Thun phải dậy từ
rất sớm để đi lấy khi ấy mặt trời cịn chưa ló, màn sương vẫn dày nhưng
tâm trạng của ông Hoa Thuyên khơng thấy ngại khó gì cả. Vì tới đây vị
thuốc kia sẽ đem lại sự sống cho con trai của ông. Sẽ làm mọi thứ thay
đổi, từ một người sắp chết có thể thành một người sống lâu. Hai ơng bà
chỉ có một người con trai duy nhất vì vậy cho nên cứu được người con


trai ấy chẳng khác nào cứu chính bản thân ơng bà. Ơng đi đến và đem
thuốc về, khơng biết vị thuốc nào mà lại có thể chữa cho người bệnh tử
cõi chết trở về. Đó chính là bánh bao tẩm máu tử tù. Lão Hoa Thuyên
khép nép đưa tiền và nhận lại chiếc bánh bao tẩm máu người, máu vẫn
còn nhỏ giọt. ở trên đời này làm gì có bài thuốc nào như thế, ho lao ăn
bánh bao tẩm máu người tử tù là hết bệnh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(37)</span><div class='page_container' data-page=37>

cộng sản kia là người phản động để bị chết. Rồi người chú ruột của anh
ta thì đem chuyện anh ta đi làm chiến sĩ cộng sản để rồi nhận được số
tiền thưởng từ Nhật. Có thể nói hình ảnh người anh hùng Hạ Du hiện lên
trong vai trò của người tử tù và nhân dân Trung Quốc ngu muội cho đó
là thích đáng lắm. ở đây ta thấy rõ sự xa rời giữa quần chúng nhân dân
với những cán bộ Đảng và chiến sĩ cộng sản. Ngày xưa ơng cha trị nước
cũng phải hợp với lịng dân thế mà ngày nay khi đánh Nhật họ lại khơng
gần gũi với người dân thì làm sao có thể thành cơng được. Nhà văn đã
nhìn ra sự sai lầm ấy, căn bệnh của nhân dân Trung Hoa là bị làm cho
ngu muội tin rằng chiếc bánh bao tẩm máu kia là phương thuốc thần tiên
để chữa bệnh ho lao. Rồi người chiến sĩ cộng sản thì quá xa rời quần
chúng cho nên phải nhận cái kết cục ấy. Có thể nói chính những sai lầm
ấy khiến cho cách mạng Trung Quốc vẫn chưa thành công. Hạ Du đại
diện cho những người chiến sĩ cộng sản yêu nước, căm thù giặc. Cịn
ơng bà Hoa Thun cùng những người trong qn trà ấy đại diện cho
nhân dân Trung hoa lúc bấy giờ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(38)</span><div class='page_container' data-page=38>

phải gần gũi với nhân dân thì cách mạng mới có thể thành cơng được.
Ơng chú Hạ Du đi tố cháu mình một phần vì tiền thưởng nhưng cũng có
thể do khơng hiểu hết được cơng việc của cháu mình cho nên coi đó là
việc làm sai trái mà đi báo quan thơi. Chính vì thế những con người
Trung Quốc cần phải đồn kết đồng lịng với nhau mới có thể đưa cách
mạng đi đến những ngày thắng lợi được.



Không những thế trước khi ra về hai bà còn ngạc nhiên thấy một vòng
hoa trên mộ người anh hùng Hạ Du. Tiếng quạ kêu khiến hai bà giật
mình. Mẹ của Hạ Du cũng khơng biết được ai đã đặt những bơng hoa đó
ở đây. Một vịng hoa thật đẹp có nhiều màu sắc, những bơng hoa ấy
khơng có chân ở dưới đất mọc lên, những bơng hoa trắng xanh ấy khơng
phải mọc lên ở đó. Vậy thì ai đã đặt nó lên mộ của con bà?. Có thể nói
rằng vịng hoa ấy là tấm lịng của nhà văn dành cho những người chiến sĩ
cộng sản sớm nhận ra chân lý đê đi theo không bị bọn xâm lược làm cho
ngu muội. Hạ Du như một người đại diện cho những thế hệ trẻ Trung
Hoa khi ấy. Và vòng hoa kia đã như tỏ lòng yêu mến của nhà văn dành
riêng cho anh.


Như vậy qua đây ta thấy được thực trạng của người dân và cách mạng
Trung Quốc thời bấy giờ. Chính vì người cách mạng khơng gần gũi với
người nhân dân cho nên đã có kết cục khơng tốt. Nhân dân Trung Hoa
thì bị ngu muội tin vào thứ thuốc chết người bánh bao tẩm máu kia. Vì
vậy cho nên nhà văn muốn cho nhân dân và những người cách mạng biết
được căn bệnh mà mình đang mặc phải và từ đó nhanh chóng cứu chữa
kịp thời.


</div>

<!--links-->

×