Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Tải Phân tích bài thơ Tỏ lòng - 5 Bài văn mẫu Phân thơ Tỏ lòng chọn lọc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.08 KB, 18 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Phân tích bài thơ Tỏ lịng - Văn mẫu 10</b>
<b>Dàn ý phân tích bài thơ Tỏ lịng chi tiết</b>


<b>a) Mở bài</b>


- Giới thiệu vài nét về Phạm Ngũ Lão


+ Phạm Ngũ Lão (1255 - 1320) là danh tướng văn võ toàn tài thời nhà Trần đã để lại
cho đời hai tác phẩm Thuật hoài và Vãn Thượng tướng quốc công Hưng Đạo Đại
Vương.


- Giới thiệu khái quát bài thơ Tỏ lịng (Thuật hồi)


+ Bài thơ được viết bằng chữ Hán, không rõ thời điểm sáng tác, nội dung thể hiện
niềm tự hào về chí nam nhi và khát vọng chiến công của người anh hùng khi Tổ
quốc bị xâm lăng.


<b>b) Thân bài</b>


* Khái quát về bài thơ


- Hồn cảnh sáng tác: Bài thơ khơng rõ thời điểm sáng tác, có ý kiến cho rằng có thể
bài thơ được sáng tác trong cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên lần 2
(1285).


- Giá trị nội dung: Bài thơ mang vẻ đẹp hào khí Đơng A, thể hiện qua vẻ đẹp của
con người và quân đội nhà Trần. Đồng thời, qua đó thể hiện tâm sự và lí tưởng sống
cao đẹp của tác giả.


* Luận điểm 1: Hào khí Đơng A qua hình tượng trang nam nhi và sức mạnh quân
đội nhà Trần.



- Hình tượng trang nam nhi nhà Trần:


+ Hành động: hồnh sóc - cầm ngang ngọn giáo


-> Tư thế hiên ngang, hùng dũng, oai nghiêm, mạnh mẽ, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ
Tổ quốc, lập nên những chiến cơng vang dội.


+ Khơng gian kì vĩ: giang sơn - non sơng


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

=> Tầm vóc những người tráng sĩ ấy sánh với núi sông, đất nước, với tầm vóc hùng
vĩ của vũ trụ.


+ Thời gian kì vĩ: kháp kỉ thu – đã mấy thu


-> Thời gian dài đằng đẵng, không biết đã bao nhiêu mùa thu, bao nhiêu năm đi
qua, thể hiện quá trình đấu tranh bền bỉ, lâu dài.


=> Chính thời gian, khơng gian đã nâng cao tầm vóc của người anh hùng vệ quốc,
họ trở nên lớn lao kì vĩ, sánh ngang tầm vũ trụ, trời đất, bất chấp sự tàn phá của thời
gian họ vẫn luôn bền bỉ cùng nhiệm vụ.


- Sức mạnh của quân đội nhà Trần:


+ “Tam quân”: Ba quân – tiền quân, trung quân, hậu quân - quân đội của cả đất
nước, cả dân tộc cùng nhau đứng lên để chiến đấu. Hình ảnh chỉ qn đội nhà Trần.
+ “tì hổ”, khí thơn ngưu”:


“tì hổ” – hổ báo: Tì là lồi thú lai giống cọp và beo, hổ là cọp, "tì hổ" chỉ loài mãnh
thú chốn rừng sâu dũng mãnh. -> So sánh thể hiện sự dũng mãnh của quân đội nhà


Trần.


“Khí thôn ngưu”: Là biểu tượng chỉ người trẻ tuổi mà khí phách anh hùng, mạnh mẽ
lấn át cả trời cao, cả không gian vũ trụ bao la, rộng lớn -> Ngụ ý quân đội nhà Trần
bừng bừng khí thế chiến đấu và chiến thắng.


-> Lời thơ ước lệ, hào tráng, hình ảnh kì vĩ, tốt lên khí thế ngất trời của quân đội
đời Trần qua ba lần chiến thắng bọn xâm lược Mơng Ngun.


=> Với các hình ảnh so sánh, phóng đại, tác giả đã thể hiện sự ngợi ca, tự hào về
sức mạnh, khí thế của quân đội nhà Trần đập tan âm mưu xâm lược của kẻ thù.
* Luận điểm 2: Nỗi thẹn của Phạm Ngũ Lão


- Quan niệm về công danh và khát vọng:


+ Nợ công danh: Theo quan niệm nhà Nho, đây là món nợ lớn mà một trang nam
nhi khi sinh ra đã phải mang trong mình.


Nó gồm hai phương diện: Lập cơng (để lại chiến công, sự nghiệp), lập danh (để lại
danh thơm cho hậu thế). Kẻ làm trai phải làm xong hai nhiệm vụ này mới được coi
là hồn trả món nợ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Nguyễn Công Trứ. Họ đều là những người trăn trở về món nợ cơng danh.
- Nỗi thẹn của tác giả:


+ Theo quan niệm của Phạm Ngũ Lão, làm trai mà chưa trả được nợ công danh
“thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu”:


Thẹn: cảm thấy xấu hổ, thua kém với người khác



Chuyện Vũ Hầu: tác giả sử dụng tích về Khổng Minh - tấm gương về tinh thần tận
tâm tận lực báo đáp chủ tướng. Hết lịng trả món nợ cơng danh đến hơi thở cuối
cùng, để lại sự nghiệp vẻ vang và tiếng thơm cho hậu thế.


-> Nỗi thẹn của Phạm Ngũ Lão hết sức cao cả của một nhân cách lớn - một con
người “cắt ngang ngọn giáo”, xông ra giữa trận tiền chống giặc suốt mấy thu rồi
không nhớ nữa. Thế mà vẫn nghĩ mình chưa làm trịn trách nhiệm, cịn nợ với non
sơng, đất nước; vẫn thấy “thẹn” khi nghĩ mình cơng danh vẫn chưa bằng được Vũ
Hầu.


=> Thể hiện khát khao, hồi bão hướng về phía trước để thực hiện lí tưởng, đánh
thức ý chí làm trai, chí hướng lập cơng cho các trang nam tử.


⇒ Với âm hưởng trầm lắng, suy tư và việc sử dụng điển cố điển tích, hai câu thơ
cuối đã thể hiện tâm tư và khát vọng lập công của Phạm Ngũ Lão cùng quan điểm
về chí làm trai rất tiến bộ của ông


+ Bài học đối với thế hệ thanh niên ngày nay: Sống phải có ước mơ, hồi bão, biết
vượt qua khó khăn, thử thách để biến ước mơ thành hiện thực, có ý thức trách
nhiệm với cá nhân và cộng đồng.


* Đánh giá đặc sắc nghệ thuật


- Sử dụng điển cố, các hình ảnh ước lệ


- Bút pháp gợi, không tả, kể chi tiết kết hợp với biểu cảm
- Sử dụng các biện pháp so sánh, ước lệ độc đáo


- Ngôn ngữ ngắn gọn, hàm súc.
<b>c) Kết bài</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<b>Phân tích bài Tỏ lịng mẫu 1</b>


Phạm Ngũ Lão (1255 – 1320), người làng Phù Ủng, huyện Đường Hào, nay thuộc
huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên, là một danh tướng đời Trần. Tuy xuất thân từ tầng
lớp bình dân song chí lớn tài cao nên ơng nhanh chóng trở thành tùy tướng số một
bên cạnh Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn. Phạm Ngũ Lão từng tham gia hai
cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên – Mông, ông cùng những tên tuổi
lớn khác của triều đình đã lập nên nhiều chiến cơng hiển hách, góp phần quan trọng
tạo nên hào khí Đơng A của thời đại đó.


Phạm Ngũ Lão làm bài Thuật hoài vào cuối năm 1284, khi cuộc kháng chiến lần thứ
hai đã đến rất gần. Bài thơ này là một tác phẩm nổi tiếng, được lưu truyền rộng rãi
vì nó bày tỏ khát vọng mãnh liệt của tuổi trẻ trong xã hội phong kiến đương thời:
làm trai phải trả cho xong món nợ cơng danh, có nghĩa là phải thực hiện đến cùng lí
tưởng trung quân, ái quốc.


Nội dung bài thơ khắc họa nổi bật vẻ đẹp của một con người có sức mạnh, có lí
tưởng, nhân cách cao cả cùng khí thế hào hùng của thời đại.


Phiên âm chữ Hán:


<i>Hồnh sóc giang sơn kháp kỉ thu,</i>
<i>Tam qn tì hổ khí thơn ngưu.</i>
<i>Nam nhi vị liễu cơng danh trái,</i>
<i>Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.</i>
Dịch thơ tiếng Việt:


<i>Múa giáo non sông trải mấy thu,</i>
<i>Ba quân khí mạnh nuốt trơi trâu.</i>


<i>Cơng danh nam tử cịn vương nợ,</i>
<i>Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Phạm Ngũ Lão sinh ra và lớn lên trong thời đại ấy nên ông sớm thấm nhuần tinh
thần yêu nước, tự hào, tự tơn dân tộc và nhất là lí tưởng trung quân, ái quốc của đạo
Nho. Ông nhận thức rất rõ ràng về trách nhiệm công dân trước vận mệnh của đất
nước: Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách.


Bài thơ có nhan đề chữ Hán là Thuật hồi: Thuật là kể lại, là bày tỏ; hồi là nỗi
lịng. Dịch thành Tỏ lịng, nghĩa là bày tỏ khát vọng, hồi bão trong lịng. Chủ thể
trữ tình ở đây là vị danh tướng trẻ tuổi đang chỉ huy quân đội làm nhiệm vụ gìn giữ
non sơng.


Ngun tác Thuật hồi bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn tứ tuyệt luật Đường, niêm
luật chặt chẽ, ý tứ hàm súc, hình tượng kì vĩ, âm điệu hào hùng, ở hai câu thơ đầu,
tác giả bày tộ niềm tự hào to lớn về quân đội của triều đình; trong đó có mình – một
vị tướng. Nhà thơ đã khắc họa vẻ đẹp gân guốc, lẫm liệt, tràn đầy sức sống của
những chiến binh quả cảm.


<i>Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu. Dịch nghĩa: Cầm ngang ngọn giáo bảo vệ giang</i>
<i>sơn đã mấy mùa thu. Dịch thơ: Múa giáo non sông trải mấy thu. So với nguyên văn</i>
chữ Hán thì câu thơ dịch chưa lột tả được hết chất oai phong, kiêu hùng trong tư thế
của người lính đang chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Hồnh sóc là cầm ngang ngọn giáo.
Ln ở tư thế tấn công dũng mãnh, áp đảo quân thù. Tư thế của những con người
chính nghĩa lồng lộng trong khơng gian rộng lớn là giang sơn đất nước suốt một
thời gian dài. Có thể nói đây là hình tượng chủ đạo, tượng trưng cho dân tộc Đại
Việt quật cường, không một kẻ thù nào khuất phục được. Từ hình tượng ấy, ánh hào
quang của chủ nghĩa yêu nước ngời ngời tỏa sáng.


Câu thơ thứ hai: Tam qn tì hổ khí thơn ngưu. Dịch nghĩa: Ba quân như hổ báo,


<i>khí thế hùng dũng nuốt trơi trâu. Dịch thơ: Ba qn khí mạnh nuốt trơi trâu đặc tả</i>
khí thế chiến đấu và chiến thắng khơng gì ngăn cản nổi của qn dân ta.


Hai câu tứ tuyệt chi mười bốn chữ ngắn gọn, cô đúc nhưng đã tạc vào thời gian một
bức tượng đài tuyệt đẹp về người lính quả cảm với khí thế dũng mãnh, sẵn sàng xả
thân giết giặc cứu nước của đạo quân Sát Thát nổi tiếng đời Trần.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

quốc và quan niệm: Làm trai đứng ở trong trời đất, Phải có danh gì với núi sơng
(Chí làm trai – Nguyễn Công Trứ). Bởi thế cho nên khi chưa trả hết nợ cơng danh
thì bản thân tự lấy làm hổ thẹn:


<i>Nam nhi vị liễu cơng danh trái,</i>
<i>Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu.</i>
<i>(Cơng danh nam tử cịn vương nợ,</i>
<i>Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu.)</i>


Câu thứ ba, thứ tư nói lên khát vọng của Phạm Ngũ Lão là tận tâm phụng sự triều
đại nhà Trần cho đến hết đời, lập được công danh sánh ngang với Gia Cát Lượng.
Gia Cát Lượng (Khổng Minh) là quân sư số một của LƯU Bị, có mưu trí tuyệt vời.
Song điểm làm cho Gia Cát Lượng nổi tiếng lại là lòng tuyệt đối trung thành với
chủ. Ông đã từng phát biểu quan điểm của mình là: Cúi mình tận tụy, đến chết mới
thơi. Trở lại câu thơ thứ nhất, ta thấy Phạm Ngũ Lão mới phụng sự được có mấy thu
(tức là mấy năm), muốn được như Gia Cát Lượng thì ơng cịn phải phụng sự nhiều
lắm, lâu lắm! Câu thơ thứ tư: Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu thực chất là một
lời thề suốt đời trung thành với chủ tướng Trần Hưng Đạo của Phạm Ngũ Lão.
Hai câu thơ sau âm hưởng khác hẳn hai câu thơ trước. Cảm xúc hào sảng ban đầu
dần chuyển sang trữ tình, sâu lắng, như lời mình nói với mình. Như thế ta có thể
hiểu vì sao mà Phạm Ngũ Lão lại dùng từ thẹn. Cũng có thể đây là cách nói thể hiện
khát vọng, hồi bão của ông là muốn noi gương thần tượng của mình, muốn sánh
với Vũ hầu.



</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Phạm Ngũ Lão là một võ tướng tài ba nhưng lại có trái tim vơ cùng nhạy cảm của
một thi nhân. Thuật hồi là bài thơ trữ tình bày tỏ được hùng tâm tráng khí và hồi
bão lớn lao của tuổi trẻ đương thời. Bài thơ có tác dụng giáo dục sâu sắc về nhân
sinh quan và lối sống tích cực đối với thanh niên mọi thời đại. Thuật hoài đã vinh
danh vị tướng trẻ văn võ song toàn Phạm Ngũ Lão đến mn đời sau.


<b>Phân tích bài Tỏ lịng mẫu 2</b>


Phạm Ngũ Lão (1255 - 1320) là một danh tướng đời Trần, trăm trận trăm thắng, văn
võ tồn tài. Ơng đã có công giúp cho Hưng Đạo Đại vương biết bao nhiêu trận
thắng cùng những chiến công lẫy lừng bảo vệ tổ quốc bình n độc lập, dẹp n lũ
cướp nước. Có thể nói ơng giống như một cánh tay đắc lực cho Hưng Đạo Đại
vương vậy. Tuy nhiên chúng ta không chỉ biết đến ông với tư cách là một vị danh
tướng mà cịn biết đến ơng với tư cách là một nhà thơ. Nhắc đến ông là ta nhớ ngay
đến bài thơ Thuật hoài – một bài thơ thể hiện rõ nỗi lịng của ơng cũng như chủ
nghĩa anh hùng yêu nước, khí thế của quân dân nhà Trần.


Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, một bài thơ chỉ có bốn câu thơ thì
tác giả đã làm thế nào để thể hiện hết quan điểm, tình yêu đất nước, trung quân
được. Thế nhưng Phạm Ngũ Lão đã rất tài năng khi chỉ qua bốn câu thơ ấy mà
truyền đạt tới mọi người những quan điểm tư tưởng của một con người của trời đất
của vũ trụ, của một đấng nam nhi đầu đội trời chân đạp đất. Đồng thời tác giả còn
thể hiện chủ nghĩa anh hùng yêu nước của bản thân qua những quan niệm của đại đa
số những danh tướng yêu nước trung thành hồi bấy giờ.


Hai câu thơ đầu tác giả tập trung thể hiện vẻ đẹp hiên ngang trong tranh đấu cũng
như vẻ đẹp đồn kết tinh thần vượt mọi khó khăn gian khổ của những binh lính nhà
Trần:



<i>“Hồnh sóc giang sơn kháp kỉ thu</i>
<i>Tam qn tì hổ khí thơn ngưu”</i>
<i>(Múa giáo non sơng trải mấy thu</i>
<i>Ba qn khí mạnh nuốt trơi trâu)</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Múa giáo thể hiện sự yếu ớt đồng nghĩa với việc không lột tả được sự hùng mạnh
anh dũng của quân đội, con người nhà Trần.


Hai chữ “hồnh sóc” như khắc tạc lên những con người anh dũng lẫm liệt với ngọn
giáo ngang trong tay đi khắp giang sơn để bảo vệ đất nước. Tưởng chừng quân giặc
cả thế giới phải công nhận là sức mạnh kia chỉ là một ngọn gió nhẹ trước khí thế
ngút ngàn của họ. Chúng mạnh về số lượng cũng như chất lượng, đầy đủ về vật chất
nhưng chúng lại thiếu đi sự đánh giá và ý chí vượt qua gian khổ nên chúng phải
chuốc lấy thất bại vì đã đánh giá thấp con người nhà Trần.


Những con người ấy tuy có nhỏ bé về mặt thể chất hay không đông đảo như số
lượng qn của nhà Mơng nhưng ý chí của họ thì vượt qua hữu hạn về mặt thể chất
và số lượng ấy. Và cứ thế với ngọn giáo ngang trong tay họ đã trải qua biết bao
nhiêu mùa thu như thế để bảo vệ đất nước tổ quốc này. Họ góp phần tạo nên một đất
nước tươi đẹp như xã hội ngày nay. Hình ảnh ngọn giáo trở nên thật đẹp khi được
hiện lên trong cái rộng lớn của khơng gian và chiều dài của thời gian lịch sử.


Hình ảnh ấy cũng như thể hiện được vẻ đẹp của chính tác giả trong những trận chiến
nảy lửa, cam go vẫn ngang ngọn giáo để bảo vệ đất nước. Không chỉ đẹp về mặt
ngoại hình con người nhà Trần cịn hiện lên với vẻ đẹp của khí chất cao ngất, mạnh
mẽ lấn át hết cả sao Ngưu trên trời. Sức mạnh của quân đội Sát Thát giống như hổ
như báo có thể nuốt trơi cả một con trâu mộng.


Hay cũng chính là vẻ đẹp đồn kết ba qn một lịng khơi dậy trong nhau một tinh
thần thép để có thể vượt qua những khó khăn chơng gai của cuộc chiến và đi đến


một cái kết đẹp và có hậu cho cuộc chiến tranh chính nghĩa bảo vệ tổ quốc. Tiếp đến
hai câu thơ cuối tác giả thể hiện quan niệm về chí làm trai của mình trong thời buổi
ấy:


<i>“Nam nhi vị liễu cơng danh trái</i>
<i>Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu”</i>


<i>(Cơng danh nam tử cịn vương nợ</i>
<i>Luống thẹn tai nghe thuyết Vũ Hầu)</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

mà Phạm Ngũ Lão cũng khơng nằm ngồi quan niệm đó. Tuy nhiên ở đây tác giả
nhấn mạnh thêm quan niệm ấy và mở nó ra với ý nghĩa của cá nhân tác giả mà thôi.
Dù là một vị tướng trung thành giống như cánh tay phải của Trần Hưng Đạo, trải
qua biết bao nhiêu trận đánh vào sinh ra tử nhưng đối với ông đó vẫn chưa được liệt
kê vào những cơng danh của đất nước. Đối với Phạm Ngũ Lão thì cơng danh vẫn là
một thứ mà cịn vương nợ với ơng. Và chính vì vương nợ nên ơng thấy hổ thẹn khi
nghe chuyện về Vũ Hầu. So sánh mình với Vũ Hầu để thấy những cái chưa được
của mình, đây khơng phải là sự ngộ nhận thân phận của mình giống như Vũ Hầu mà
đó là cả một tinh thần học hỏi của nhà thơ đối với người tài giỏi.


Có một điểm chung là cả ông và Vũ Hầu đều giúp sức cho một người lớn hơn
nhưng tác giả muốn nói ở đây là khi Vũ Hầu giúp được cho vị tướng của mình thì
Phạm Ngũ Lão lại khiêm tốn nhận mình chưa giúp được gì cho Hưng đạo đại vương
nên thấy hổ thẹn khi nghe chuyện Vũ Hầu. Đồng thời qua đó ta thấy được sự trung
thành và cống hiến hết sức mình của tác giả với Hưng Đạo đại vương. Tuy xuất thân
từ một người nông dân nhưng Phạm Ngũ Lão đã thể hiện được sức mạnh ý chí và trí
tuệ của mình khiến cho người ta khơng thể vịn vào hoàn cảnh xuất thân ấy để mà
chê trách được ông.


Qua đây ta thêm yêu hơn những con người nhà Trần nói chung và Phạm Ngũ Lão


nói riêng. Ơng khơng những là một vị danh tướng với vẻ đẹp hiên ngang trừ gian
diệt bạo, bảo vệ đất nước hịa bình yên ổn mà còn là một nhà thơ giỏi nữa. Đối với
ơng mà nói những gì ơng làm được vẫn chưa thỏa cái công danh đối với đất nước.
Những chiến công mà ông đạt được vẫn chưa thấm vào đâu so với Vũ Hầu, nên khi
nghe chuyện ông không khỏi thẹn thùng.


Như vậy ta thấy được vẻ đẹp của một vị danh tướng khơng kể cơng những gì mình
làm được mà còn khiêm tốn nhận còn “vương nợ”. Và ở đâu đó trong những câu thơ
của bài ta thấy rõ một tinh thần yêu nước anh hùng của Phạm Ngũ Lão.


<b>Phân tích bài Tỏ lịng mẫu 3</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

ơng sáng tác khi cuộc chiến lần thứ hai Nguyên - Mơng đang đến rất gần, nhằm
khơi dậy sức mạnh tồn dân. Lúc đó, tác giả cùng một số vị tướng khác được cử lên
biên ải Bắc trấn giữ nước.


Nói đến hào khí Đơng A là nói đến hào khí đời Trần. Thời này là một mốc son chói
lọi trong lịch sử 4000 năm dựng nước và giữ nước của dân tộc, quân và dân thời
Trần đã kiên cường anh dũng lập nên 3 kì tích: 3 lần đại thắng qn Ngun
-Mơng, để có được thắng lợi đó, qn dân thời Trần đã phải vượt qua bao nhiêu khó
khăn, gian khổ, căm thù giặc sơi sục cùng lịng quyết tâm chiến thắng. Hào khí dân
tộc thể hiện ở sự hịa quyện giữa hình ảnh người anh hùng với hình ảnh “Ba quân”
đã tạo nên một bức tranh tượng đài nghệ thuật sừng sững đang hiện ra.


<i>“Hồnh sóc giang sơn kháp kỉ thu</i>
<i>Tam qn tỳ hổ khí thơn ngưu”</i>


Câu thơ đầu khắc họa một hình ảnh người anh hùng đang trong tư thế hiên ngang,
vững chãi, “Hồnh sóc” là việc cầm ngang ngọn giáo, với sứ mệnh trấn giữ giang
sơn, giữ yên bờ cõi ròng rã đã mấy năm rồi mà khơng biết mệt mỏi. Con người đó


được đặt trong một khơng gian kì vĩ: núi sơng, đất nước khiến con người trở nên vĩ
đại sánh ngang với tầm vóc vũ trụ. Hình ảnh cịn mang ý nghĩa biểu tượng cho tinh
thần xông pha sẵn sàng chiến đấu, một tư thế hiên ngang làm chủ chiến trường.
Tiếc thay, khi ta chuyển dịch thành “múa giáo” thì phần nào đã làm hai chữ “hồnh
sóc” giảm đi tính biểu tượng và tư thế oai phong lẫm liệt của hình tượng vĩ đại này.
Ngày xưa, quân lính chia làm ba tiểu đội: tiền quân, trung quân và hậu quân. Tuy
nhiên, khi nói đến “ba quân” thì sức mạnh của cả quân đội nhà Trần, sức mạnh của
tồn dân tộc đang sục sơi biết bao. Câu thơ thứ hai sử dụng thủ pháp so sánh để làm
tốt lên khí thế, “Tam qn tỳ hổ” chính là ví sức mạnh của tam quân giống như hổ
như báo, nó vững mạnh và oai hùng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

<i>“Nam nhi vị liễu cơng danh trái</i>
<i>Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu"</i>


Qua hai câu thơ trên, lí tưởng của người anh hùng đang được thể hiện rõ qua hai cặp
từ “nam nhi và cơng danh”. Nhắc đến chí là nhắc đến chí làm trai, lập cơng là để lại
cơng danh, sự nghiệp để lại danh tiếng cho muôn đời, công danh được coi là món
nợ phải trả của kẻ làm trai. Một danh tướng có nỗi trăn trở, canh cánh trong lịng là
chưa trả xong nợ cơng danh mặc dù con người ấy đã lập lên bao nhiêu chiến công
rồi. Đó chính là khát vọng, lí tưởng lớn lao muốn được phị vua giúp nước, trong
khơng khí sục sơi của thời đại bấy giờ, chí làm trai có tác dụng cỗ vũ cho con người
sẵn sàng chiến đấu giành lại hịa bình cho đất nước.


Ở câu cuối của bài thơ, nói lên cái tâm của người anh hùng, điều đáng q bên cạnh
Trí là cịn có cái tâm. “Thẹn với Vũ Hầu” – Vũ Hầu chính là Gia Cát Lượng, một tài
năng, một nhân cách, một người có tâm, tác giả thẹn vì chưa có tài mưu lược như
Gia Cát Lượng chăng? Mặc dù tác giả là người lập nhiều công cho đất nước nhưng
vẫn thấy thẹn. Qua nỗi thẹn ấy, người đọc nhận ra thái độ khiêm nhường, một ý
nguyện cháy bỏng được giết giặc, lập cơng đóng góp cho sự nghiệp chung.



Qua bài thơ, hiện lên hình ảnh của đấng nam nhi thời đại Bình Nguyên, với khát
vọng có thể phá được cường địch để báo đáp hồng ân, để non sông được vững
vàng. Vẻ đẹp của người anh hùng lồng trong vẻ đẹp của thời đại làm nên hào khí
của thời đại nhà Trần, hào khí Đơng A. Bài thơ cũng là nỗi lòng riêng của Phạm
Ngũ Lão về khát vọng lí tưởng, về nhân cách của con người phải được giữ gìn.
<b>Phân tích bài Tỏ lịng mẫu 4</b>


Đã từng một thời, văn học Việt Nam được biết tới như những con thuyền chở đầy ý
chí và khát vọng cao đẹp của người đương thời, đó là những áng thi ca trung đại đầy
hào sảng, hùng tráng. Bởi vậy chăng mà cứ mỗi lần từng tiếng thơ “Thuật hồi” (Tỏ
lịng - Phạm Ngũ Lão) vang lên, hiện lên trước mắt ta ln là hình ảnh người tráng
sĩ thời đại Lý – Trần với hùng tâm tráng chí sôi nổi, như những bức tượng đài đẹp
nhất đại diện cho cả một thời đại đầy rực rỡ của phong kiến Việt Nam: thời đại
Đông A.


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

sức thực hiện kháng chiến chống Mông – Nguyên lần hai, cần có một liều thuốc tinh
thần tiếp thêm sức mạnh để quân dân từng ngày cố gắng hơn nữa trong sự nghiệp
bảo vệ đất nước; “Thuật hồi” ra đời cũng vì lẽ đó.


Đặt trong một hồn cảnh đặc biệt, được viết dưới ngịi bút của con người có tầm vóc
lớn lao, bài thơ dù chỉ là một trong hai tác phẩm của Phạm Ngũ Lão còn lưu lại,
song cũng đủ để ghi danh tác giả cho tới tận muôn đời. Hai câu thơ đầu là những nét
phác họa đầu tiên về chân dung người tráng sĩ Đơng A:


<i>Hồng sóc giang sơn kháp kỉ thu</i>
<i>Tam qn tì hổ khí thơn ngưu</i>
<i>(Múa giáo non sơng trải mấy thu</i>
<i>Ba qn khí mạnh nuốt trơi trâu)</i>


Bằng lối vào đề trực tiếp, trong câu thơ đầu tiên, tác giả đã dựng lên hình ảnh người


tráng sĩ thời Trần mang vẻ đẹp của con người thời đại: cầm ngang ngọn giáo trấn
giữ non sông. Chỉ qua một hành động “hồnh sóc”, người tráng sĩ hiện lên với tư
thế đầy oai hùng và kiên cường, ngay thẳng, vững vàng. Sừng sững như một bức
tượng đài đầy hiên ngang giữa khơng gian rộng lớn của “giang sơn” và dịng thời
gian dài trôi chảy “kháp kỉ thu”, người ấy mang vẻ đẹp của những đấng anh hùng
từng trải, với kinh nghiệm già dặn đã được tôi luyện mỗi ngày.


Vận mệnh và sự bình yên của đất nước đang được đặt trên đầu ngọn giáo kia, đó là
trọng trách lớn lao đặt lên vai người tráng sĩ, nhưng cũng chính ngọn giáo ấy là
điểm tựa vững vàng che chắn cho cả dân tộc tồn tại. Câu thơ tỉnh lược chủ ngữ ngắn
gọn mang ngụ ý của tác giả: đó khơng chỉ là một hình ảnh duy nhất của một con
người duy nhất, mà là tầm vóc hào sảng của biết bao con người thời đại, là khơng
khí sơi sục của đất trời Đơng A.


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

Trong cách nói cường điệu, ta thấy được tình cảm tự hào của nhà thơ khi đã nâng
tầm vóc của quân dân nhà Trần có thể sánh ngang với thiên nhiên, vũ trụ bao la. Đó
là niềm tự hào của một con người được sinh ra trong một đất nước, một thời đại
hùng mạnh, đầy phấn chấn, tự tin, luôn khao khát vươn lên, giữ vững chủ quyền cho
nước nhà. Từ hình ảnh người tráng sĩ hiên ngang tới tầm vóc lớn lao của ba quân
thời đại, rõ ràng, vẻ đẹp người tráng sĩ ấy là kết tinh của vẻ đẹp dân tộc, và vẻ đẹp
dân tộc càng tôn vinh thêm vẻ đẹp hùng sảng của những tráng sĩ thời Trần.


Hai câu thơ đầu tiên vang lên, Phạm Ngũ Lão không chỉ cho ta chiêm ngưỡng vẻ
đẹp của một vị anh hùng thời đại, mà là vẻ đẹp muôn thuở của một dân tộc anh
hùng. Từ tư thế hiên ngang dũng mãnh, nhà thơ giúp người đọc đi sâu hơn để khám
phá tâm thế vững vàng với hùng tâm tráng chí bên trong những tráng sĩ:


<i>Nam nhi vị liễu cơng danh trái</i>
<i>Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu</i>



Với người quân tử trong xã hội phong kiến đương thời, chí làm trai là phẩm chất
khơng thể thiếu. Ta từng nhớ đã đọc những câu thơ nhắc đến món nợ cơng danh của
các đấng nam nhi:


<i>Chí làm trai dặm nghìn da ngựa</i>
<i>Gieo Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao</i>


(Đoàn Thị Điểm)
Hay:


<i>Nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

Để rồi, nợ công danh chưa trả hết, và người đời lại “luống thẹn” khi nghe chuyện
Vũ Hầu xưa: “Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu”. Câu thơ gợi lại một câu chuyện
cổ về bậc anh tài Gia Cát Lượng từng giúp hình thành thế chân vạc Tam Quốc, giúp
Thục – Ngô chống Tào… Người tướng sĩ thấy hổ thẹn bởi cơng lao của mình vẫn
chưa đáng bao nhiêu so với Tơn Tử, song đó lại là cái thẹn cao cả, là cái thẹn lớn
lao, đáng trân trọng của một bậc đại trượng phu.


Ngũ Lão từng là một trong những vị tướng tài ba nhất của nhà Trần, làm tới chức
Điện súy thượng tướng quân, vậy còn điều gì khiến người cịng hổ thẹn? Rằng, đó
khơng chỉ là nỗi thẹn, mà là niềm khao khát vươn tới những đỉnh cao, vươn tới
những tầm vóc rộng lớn hơn nữa. Có những cái thẹn khiến người ta trở nên bé nhỏ,
có những cái thẹn khiến cho người ta khinh, nhưng cũng có những cái thẹn cho
người ta thấy được cả một tầm vóc lớn lao và ý chí mãnh liệt; cái thẹn của người
tráng sĩ thời Trần là cái thẹn như thế.


“Thuật hồi” lấy tiêu đề dựa theo một mơ-típ quen thuộc trong văn học trung đại,
bên cạnh “Cảm hoài” của Đặng Dung, hay “Tự tình” của Hồ Xuân Hương,… những
bài thơ bày tỏ nỗi lòng của người viết. Với “Tỏ lòng”, đây là lời tâm sự bày tỏ tâm


tư, ý chí của Phạm Ngũ Lão, cũng là của những tráng sĩ thời Trần mà tâm can đều
dành trọn cho dân tộc. Bài thơ được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt, chỉ với một số
lượng ngơn từ ít ỏi, song lại đạt được tới sự hàm súc cao độ khi đã dựng lên được
những bức chân dung con người và hào khí Đơng A với vẻ đẹp hào sảng, khí thế,
dũng mãnh.


Cùng với “Hịch tướng sĩ” – Trần Quốc Tuấn, “Bạch Đằng giang phú” - Trương Hán
Siêu,… “Thuật hoài” mãi là khúc tráng ca hào hùng ngợi ca vẻ đẹp con người và
thời đại, và sẽ tồn tại mãi cùng với dịng trơi chảy của thời gian…


<b>Phân tích bài Tỏ lịng mẫu 5</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

Ơng từng sáng tác rất nhiều bài thơ hay, thế nhưng theo dòng lịch sử đa số bị thất
lạc, đến nay chỉ còn lại hai bài Tỏ lịng và Viếng thượng tướng quốc cơng Hưng
Đạo Đại Vương. Về thi ca, trong văn học trung đại ln nằm trong một quy phạm
chung, làm thơ thì phải bao hàm chữ “chí”, trong “Văn dĩ tải đạo, thi dĩ ngơn chí”.
Nghĩa rằng thơ văn thì phải truyền tải một nội dung giáo dục nào đó to lớn, và Tỏ
lòng của Phạm Ngũ Lão là một trong số những bài thơ tiêu biểu nhất thể hiện cái
tính quy phạm đặc trưng này của nền văn học trung đại - lời là lời giáo huấn về chí
nam nhi đầy hào khí của thời Trần.


Cho đến tận ngày hơm nay vẫn chưa có một cứ liệu chính xác nào về hồn cảnh ra
đời của Tỏ lịng (Thuật hồi), nhưng theo một số suy đốn thì bài thơ được sáng tác
vào năm 1284, trước khi diễn ra diễn ra cuộc kháng chiến chống quân


Mông-Nguyên lần thứ hai. Lúc này Phạm Ngũ Lão được cử đi trấn giữ biên giới cùng một
số tướng lĩnh khác để chuẩn bị cho chiến sự. Ở hai câu thơ đầu Phạm Ngũ Lão đã
tái hiện một cách xúc tích và ấn tượng về vẻ đẹp của con người và quân đội thời
Trần.



<i>“Hồnh sóc giang sơn kháp kỷ thu,</i>
<i>Tam qn tỳ hổ khí thơn Ngưu.”</i>


Để khắc họa hình ảnh con người thời Trần, tác giả đã khéo léo dựng lên một bối
cảnh không gian và thời gian rất đặc biệt, là một cái phơng nền độc đáo để từ đó làm
nổi bật lên vẻ đẹp của những con người sống dưới triều Trần, một triều đại nhiều
bão táp mưa sa nhất lịch sử phong kiến. Về bối cảnh không gian, Phạm Ngũ Lão
chọn hai chữ “giang sơn” vốn là từ ghép hợp nghĩa, ở đây tức là chỉ sông núi, từ đó
mở ra trước mắt người đọc một khơng gian vơ cùng bao la, rộng lớn và khống đạt,
đó là khơng gian của cả một quốc gia, dân tộc.


Bên cạnh không gian, thì bối cảnh thời gian được gợi mở bằng ba từ “kháp kỷ thu”,
ý chỉ đã qua hết mấy thu rồi, trước cái cách đo đếm thời gian ấy đã gợi cho người
đọc về một khoảng thời gian dài lâu, có bề dày lịch sử bền vững. Trên cái nền
không gian, thời gian dài rộng ấy lại nổi bật lên hình ảnh con người trong tư thế
“hồnh sóc”, cầm ngang ngọn giáo để trấn giữ non sông đã qua mấy thu.


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

dũng luôn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu, trong nhiệm vụ trấn giữ non sông, bảo vệ
đất nước như những vị thần.


Điều này gợi nhắc ta về câu chuyện lịch sử, quân Mông - Nguyên mượn cớ mượn
đường nước ta để sang đánh Chiêm Thành, nhưng thực tế âm mưu của chúng là
hịng thơn tính Đại Việt. Trước sự nghi ngại, quân đội nhà Trần quyết lật đổ âm
mưu của giặc, trong sự chuẩn bị bao gồm việc cử Phạm Ngũ Lão và một số tướng
lĩnh tài giỏi ra trấn giữ tại biên giới để đề phịng giặc tấn cơng bất ngờ.


Trước hồn cảnh ấy, có lẽ ứng với hình ảnh vị tướng cầm ngang ngọn giáo, kiêu
hùng canh giữ từng tấc đất của Tổ quốc là hoàn toàn hợp lý và xuất phát từ những
sự kiện có thật để tạo nên cảm hứng đầy hào khí hiên ngang, mạnh mẽ trong Thuật
hồi của Phạm Ngũ Lão. Tản mạn một chút về câu thơ dịch “Múa giáo non sông trải


mấy thu” của Bùi Văn Nguyên, thì có lẽ rằng ý thơ chưa thực sự đạt, bởi với hai từ
“múa giáo” thực tế chỉ cốt thiên về cái “mỹ”, đẹp và có chất thơ, nhưng lại thiếu đi
cái chí “hùng” mà tác giả muốn biểu đạt.


Cịn trong bản gốc hai từ “hồnh sóc” mới thực sự diễn tả đúng cái khí thế hùng
tráng, hiên ngang của một vị tướng, thậm chí là biểu đạt vẻ kiên cường, hào khí cho
cả một thế hệ những con người dưới thời Trần, trước hai cuộc kháng chiến chống
quân Mông - Nguyên xâm lược.


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

Sau hai câu khai đề và thừa đề diễn đạt hào khí chung của dân tộc, thì đến hai câu
chuyển và câu hợp là để giải thích và làm rõ ý của câu đề và của cả bài thơ. Chuyển
là chuyển từ khách thể sang chủ thể là tác giả, để bày tỏ nỗi lịng, tâm tư, nguyện
vọng của bản thân về chí làm trai, về món nợ cơng danh phải trả cho đất nước.
Đồng thời câu hợp để kết lại, thể hiện sáng rõ vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách lớn lao
của Phạm Ngũ Lão. “Nam nhi vị liễu công danh trái” ý chỉ lý tưởng, chí lớn lập
cơng danh, thể hiện qua quan niệm, nhận thức của tác giả về món nợ cơng danh của
kẻ làm trai.


Ở đây món nợ cơng danh xuất phát từ quan niệm “nhập thế tích cực” của Nho giáo,
khác với quan niệm “xuất thế” của Phật giáo, chủ trương lánh đời, ở ẩn, quên đi
chuyện thế sự, nhiễu nhương, để tâm hồn thanh tịnh,.... Thì đối với Nho giáo, con
người đặc biệt là người nam nhi phải mạnh mẽ đứng giữa cuộc đời sóng gió, dùng
hết tài trí sức lực của mình để cống hiến cho đời, giúp dân giúp nước.


Trong đó việc ứng thí khoa cử, tham gia vào chốn quan trường chính là một trong
những biểu hiện rõ rõ nét và phổ biến nhất của quan niệm “nhập thế tích cực”, và
Phạm Ngũ Lão chính là một trong số những con người chịu ảnh hưởng sâu sắc bởi
quan niệm này. Quan niệm ấy đã tạo dựng nên mục đích sống, lý tưởng sống chung
của các đấng nam nhi dưới thời đại này là phải lập được cơng danh, có sự nghiệp,
tiếng thơm lưu truyền đến muôn đời. Trở thành một trong những điều tối cần của


chí làm trai, mà trong văn học Việt Nam đã từng có rất nhiều nhà thơ đề cập đến ví
như Nguyễn Cơng Trứ với “Chí làm trai nam bắc đông tây/Cho thỏa sức vẫy vùng
trong bốn bể”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

to lớn trong công cuộc mở mang bờ cõi của Lưu Bị - vua nước Thục trong bối cảnh
tam quốc phân tranh cực gay gắt làm thành thế chân kiềng.


Đứng trước con người mang tầm vóc như vậy Phạm Ngũ Lão dù rằng đã lập được
rất nhiều công danh nhưng vẫn cảm thấy bản thân mình quá nhỏ bé, tựa như hạt cát
giữa sa mạc mênh mông, đồng nghĩa với việc ơng ý thức được rằng món nợ cơng
danh đã trả chẳng thấm tháp vào đâu, mà vẫn còn phải cố gắng trả nhiều hơn nữa thì
mới xứng với phận nam nhi, xứng với Tổ quốc.


Từ những biểu hiện trên ta thấy được vẻ đẹp tâm hồn của Phạm Ngũ Lão trước hết
là ở ý chí nỗ lực muốn theo gương người xưa lập công danh cho xứng tầm, thứ hai
ấy là lý tưởng, chí lớn mong muốn lập được công danh sánh ngang với nhân vật lịch
sử lỗi lạc. Có thể nói rằng nỗi thẹn của Phạm Ngũ Lão là nỗi thẹn của một nhà nho
có nhân cách lớn, cũng là nỗi thẹn của một người dân yêu nước khi mà cái họa xâm
lăng vẫn đang treo lơ lửng trước mắt.


</div>

<!--links-->

×