Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Tải Phân tích bi kịch: Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ - Dàn ý + 4 bài văn mẫu lớp 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.95 KB, 15 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Phân tích bi kịch: Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ Ngữ văn 12</b>
<b>Dàn ý chi tiết</b>


<b>I. Mở bài</b>


– Giới thiệu vài nét lớn về tác giả, tác phẩm;


– Giới thiệu bi kịch của nhân vật hồn Trương Ba của vở kịch


Lưu Quang Vũ (1948 – 1988) là một hiện tượng đặc biệt của sân khấu kịch Việt Nam
những năm tám mươi của thế kỷ XX. Ông được coi là nhà soạn kịch tài năng nhất của
nền văn học nghệ thuật Việt nam hiện đại. tác phẩm của ơng tốt lên một ý vị triết lí và
nhân sinh về đời người, kiếp người. Ơng có nhiều tác phẩm kịch gây chấn động dư luận ,
trong đó có vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”. Trong đoạn trích ( cảnh 7) của vở
kịch, tác giả đã diễn tả sâu sắc bi kịch của nhân vật Hồn Trương Ba, một con người phải
sống “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”.


<b>II. Thân bài:</b>


1. Khái quát về tác phẩm : Giới thiệu hoàn cảnh ra đời tác phẩm, xuất xứ tác phẩm, tóm
tắt cốt truyện.


“Hồn Trương Ba, da hàng thịt” là vở kịch đặc sắc nhất của Lưu Quang Vũ, được sáng tác
từ năm 1981, nhưng ba năm sau (1984) mới được ra mắt khán giả.Từ cốt truyện dân
gian, Lưu Quang Vũ đã xây dựng lại thành một vở kịch nói hiện đại và lồng vào đó
nhiều triết lí nhân văn về cuộc đời và con người. Trong tác phẩm, Trương Ba là một ông
lão gần sáu mươi, thích trồng vườn, yêu cái đẹp, tâm hồn thanh nhã, giỏi đánh cờ. Chỉ vì
sự tắc trách của Nam Tào gạch nhầm tên mà Trương Ba chết oan. Theo lời khuyên của
“tiên cờ” Đế Thích, Nam Tào, Bắc Đẩu “sửa sai” bằng cách cho hồn Trương Ba được
tiếp tục sống trong thân xác của anh hàng thịt mới chết gần nhà. Nhưng điều đó lại đưa
Trương Ba và một nghịch cảnh khi linh hồn mình phải trú nhờ vào người khác. Do phải


sống tạm bợ, lệ thuộc, Trương Ba dần bị xác hàng thịt làm mất đi bản chất trong sạch,
ngay thẳng của mình. Ý thức được điều đó, Trương Ba dằn vặt, đau khổ và quyết định
chống lại bằng cách tách ra khỏi xác thịt. Qua các cuộc đối thoại của Trương Ba, tác giả
dần tạo nên một mạch truyện dẫn dắt người xem hiểu sâu hơn về Trương Ba.


Đoạn trích là phần lớn cảnh VII. Đây cũng là đoạn kết của vở kịch, đúng vào lúc xung
đột trung tâm của vở kịch lên đến đỉnh điểm. Sau mấy tháng sống trong tình trạng “bên
trong một đằng, bên ngoài một nẻo”, nhân vật Hồn Trương Ba ngày càng trở nên xa lạ
với bạn bè, người thân trong gia đình và tự chán ghét chính mình, muốn thốt ra khỏi
nghịch cảnh trớ trêu.


2. Phân tích bi kịch của nhân vật hồn Trương Ba:


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

– Trước khi diễn ra cuộc đối thoại giữa hồn và xác, nhà viết kịch đã để cho Hồn Trương
Ba “ngồi ôm đầu một hồi lâu rồi vụt đứng dậy” với một lời độc thoại đầy khẩn
thiết:”-Không. Không! Tôi không muốn sống như thế này mãi! Tôi chán cái chỗ ở không phải là
của tôi này lắm rồi! . Hồn Trương Ba đang ở trong tâm trạng vô cùng bức bối, đau khổ
thể hiện trong những câu cảm thán ngắn, dồn dập cùng với ước nguyện khắc khoải . Hồn
bức bối bởi khơng thể nào thốt ra khỏi cái thân xác mà hồn ghê tởm. Hồn đau khổ bởi
mình khơng cịn là mình nữa. Trương Ba bây giờ vụng về, thơ lỗ, phũ phàng lắm. Hồn
Trương Ba cũng càng lúc càng rơi vào trạng thái tuyệt vọng.


– Trong cuộc đối thoại với xác anh hàng thịt, Hồn Trương Ba ở vào thế yếu, đuối lí bởi
xác nói những điều mà dù muốn hay không muốn Hồn vẫn phải thừa nhận : cái đêm khi
ông đứng cạnh vợ anh hàng thịt với“tay chân run rẩy”, “hơi thở nóng rực”, “cổ nghẹn
lại” và “suýt nữa thì…“. Đó là cảm giác “xao xuyến” trước những món ăn mà trước đây
Hồn cho là “phàm”. Đó là cái lần ơng tát thằng con ơng “tóe máu mồm máu mũi”,… Xác
anh hàng thịt gợi lại tất cả những sự thật ấy khiến Hồn càng cảm thấy xấu hổ, cảm thấy
mình ti tiện. Xác anh hàng thịt cịn cười nhạo vào cái lí lẽ mà ơng đưa ra để ngụy biện:
“Ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn,…”. Trong cuộc đối


thoại này, xác thắng thế nên rất hể hả tuôn ra những lời thoại dài với chất giọng khi thì
mỉa mai cười nhạo khi thì lên mặt dạy đời, chỉ, châm chọc. Hồn chỉ buông những lời
thoại ngắn với giọng nhát gừng kèm theo những tiếng than, tiếng kêu.


– Cuộc đối thoại giữa xác hàng thịt và hồn Trương Ba là cuộc đấu tranh giữa thể xác và
linh hồn cùng tồn tại trong một con người. Thể xác và linh hồn có quan hệ hữu cơ với
nhau, cả hai gắn bó với nhau để cùng sống, cùng tồn tại. Thể xác có tính độc lập tương
đối của nó, có tiếng nói của nó, có khả năng tác động vào linh hồn, vì nó là nơi trú ngụ
của linh hồn. Khi thể xác tiêu tan thì linh hồn cũng mất. Khi linh hồn “bay đi” thì thể xác
cũng trở về cát bụi. Nhờ có linh hồn đấu tranh, chi phối với những ham muốn, những
dục vọng tầm thường của thể xác mà nhân cách được hồn thiện, tâm hồn được trong
sáng. Câu nói của xác hàng thịt: “Tơi là cái bình để chứa đựng linh hồn” đã cho thấy mối
quan hệ hữu cơ giữa thể xác và linh hồn, làm cho ý nghĩa ẩn dụ của đoạn đối thoại giữa
hồn Trương Ba với xác hàng thịt thêm cụ thể, sâu sắc.


b. Bi kịch Hồn Trương Ba được đẩy lên tới đỉnh điểm, cao trào ở màn đối thoại giữa Hồn
Trương Ba với những người thân. Đó là bi kịch bị từ chối.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

thơ lỗ, phũ phàng như vậy”. Nỗi giận dữ của cái Gái đã biến thành sự xua đuổi quyết liệt:
“Ông xấu lắm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể, cút đi!”.


– Chị con dâu là người sâu sắc, chín chắn, hiểu điều hơn lẽ thiệt. Chị cảm thấy thương bố
chồng trong tình cảnh trớ trêu. Chị biết ơng khổ lắm, “khổ hơn xưa nhiều lắm”. Nhưng
nỗi buồn đau trước tình cảnh gia đình “như sắp tan hoang ra cả” khiến chị không thể bấm
bụng mà đau, chị đã thốt thành lời cái nỗi đau đó: “Thầy bảo con: Cái bên ngồi là khơng
đáng kể, chỉ có cái bên trong, nhưng thầy ơi, con sợ lắm, bởi con cảm thấy, đau đớn
thấy… mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ
dần đi, đến nối có lúc chính con cũng khơng nhận ra thầy nữa…”


– Tất cả những người thân yêu của Hồn Trương Ba đều nhận ra cái nghịch cảnh trớ trêu.


Sau tất cả những đối thoại ấy, mỗi nhân vật bằng cách nói riêng, giọng nói riêng của
mình đã khiến Hồn Trương Ba cảm thấy không thể chịu nổi. Nỗi cay đắng với chính bản
thân mình cứ lớn dần… lớn dần, muốn đứt tung, muốn vọt trào.


– Nhà viết kịch đã để cho Hồn Trương Ba cịn lại trơ trọi một mình với nỗi đau khổ,
tuyệt vọng lên đến đỉnh điểm, một mình với những lời độc thoại đầy chua chát nhưng
cũng đầy quyết liệt: “Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không phải của ta ạ…
Nhưng lẽ nào ta lại chịu thua mày, khuất phục mày và tự đánh mất mình? “Chẳng cịn
cách nào khác”! Mày nói như thế hả? Nhưng có thật là khơng cịn cách nào khác? Có
thật khơng cịn cách nào khác? Khơng cần đến cái đời sống do mày mang lại! Không
cần!”. Đây là lời độc thoại có tính chất quyết định dẫn tới hành động châm hương gọi Đế
Thích một cách dứt khốt. Sự do dự bị đẩy lùi, bị xua tan. Sự tỉnh ngộ của hồn Trương
Ba tuy muộn mằn nhưng thật có nhiều ý nghĩa. Con đường tự giải thoát, linh hồn đã nhìn
thấy ánh sáng.


c. Bi kịch của nhân vật Hồn Trương Ba được kết thúc trong màn đối thoại với Đế
Thích-Bi kịch “bên ngồi một đằng, bên trong một nẻo”


– Cuộc trò chuyện giữa Hồn Trương Ba với Đế Thích trở thành nơi tác giả gửi gắm
những quan niệm về hạnh phúc, về lẽ sống và cái chết. Hai lời thoại của Hồn trong cảnh
này có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng: Không thể bên trong một đằng, bên ngồi một
nẻo được. Tơi muốn được là tơi toàn vẹn… Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác đã
là chuyện không nên, đằng này đến cái thân tơi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ơng
chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ơng chẳng cần biết!


– Người đọc, người xem có thể nhận ra những ý nghĩa triết lí sâu sắc và thấm thía qua
hai lời thoại này. Thứ nhất, con người là một thể thống nhất, hồn và xác phải hài hịa.
Khơng thể có một tâm hồn thanh cao trong một thân xác phàm tục, tội lỗi. Khi con người
bị chi phối bởi những nhu cầu bản năng của thân xác thì đừng chỉ đổ tội cho thân xác,
khơng thể tự an ủi, vỗ về mình bằng vẻ đẹp siêu hình của tâm hồn. Thứ hai, sống thực sự


cho ra con người quả không hề dễ dàng, đơn giản. Khi sống nhờ, sống gửi, sống chắp vá,
khi không được là mình thì cuộc sống ấy thật vơ nghĩa.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

càng vênh lệch giữa hồn và xác, đồng thời càng chứng tỏ quyết tâm giải thoát nung nấu
của nhân vật trước lúc Đế Thích xuất hiện.


Quyết định dứt khốt xin tiên Đế Thích cho cu Tị được sống lại, cho mình được chết hẳn
chứ khơng nhập hồn vào thân thể ai nữa của nhân vật Hồn Trương Ba là kết quả của một
q trình diễn biến hợp lí. Hơn nữa, quyết định này cần phải đưa ra kịp thời vì cu Tị vừa
mới chết. Hồn Trương Ba thử hình dung cảnh hồn của mình lại nhập vào xác cu Tị để
sống và thấy rõ “bao nhiêu sự rắc rối” vơ lí lại tiếp tục xảy ra. Nhận thức tỉnh táo ấy cùng
tình thương mẹ con cu Tị càng khiến Hồn Trương Ba đi đến quyết định dứt khoát. Qua
quyết định này, chúng ta càng thấy Trương Ba là con người nhân hậu, sáng suốt, giàu
lòng tự trọng. Đặc biệt, đó là con người ý thức được ý nghĩa của cuộc sống.


d. Ứng xử của Trương Ba trước tình trạng bi kịch đó :


– Trương Ba khơng chấp nhận bng xuôi: khi không thể thay đổi được xác hàng thịt để
xác có thể hồ hợp với hồn, Trương Ba quyết định từ bỏ mối quan hệ với cái xác
ấy :”chẳng lẽ nào ta lại chịu thua mày…”,”không cần đến cái đời sống do mày mang
lại”.


– Khẳng định mạnh mẽ nhu cầu được sống là mình : “khơng thể bên ngồi một đằng, bên
trong một nẻo”. Với Trương Ba, nhu cầu sống cuối cùng vẫn được đánh giá cao hơn nhu
cầu tồn tại. Đặt ra vấn đề“sống như thế nào”là biểu hiện của ý thức cao về sự sống và
cách sống để có một cuộc sống hạnh phúc và có ý nghĩa.


– Trong đoạn kết, Trương Ba được giải thoát khỏi bi kịch. Đoạn kết vở kịch “Hồn
Trương Ba, da hàng thịt” gợi cho độc giả, khán giả nhiều bâng khng. Hồn Trương Ba
khơng theo Đế Thích về trời để chơi cờ, mà lại hóa thành màu xanh của cây vườn, vị


thơm ngon của trái na, vẫn quấn quýt với người thân, gần gũi nơi bậc cửa, trong ánh lửa,
nơi cầu ao, trong cơi trầu, con dao… của vợ con thương yêu. Cho dù thân cát bụi lại trở
về cát bụi, nhưng hồn Trương Ba cao khiết vẫn bất tử trong cõi đời. Cái kết đầy chất thơ
ấy đã làm cho tư tưởng nhân văn tỏa sáng tác phẩm.


3. Nhận xét về nghệ thuật thể hiện bi kịch Hồn Trương Ba:


– Hành động của nhân vật phù hợp với hoàn cảnh, tính cách, thể hiện sự phát triển của
tình huống kịch;


– Những đoạn đối thoại nội tâm của Hồn Trương Ba góp phần thể hiện rõ tính cách nhân
vật và quan niệm về kẽ sống đúng đắn.


– Đặc biệt, đoạn trích rất thành cơng trong việc xây dựng đối thoại. Những đối thoại giàu
kịch tính, đậm chất triết lí góp phần tạo nên chiều sâu cho vở kịch.


4. Ý nghĩa tư tưởng:


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

– Được sống làm người là rất quý giá song được sống đúng là mình, sống trọn vẹn giá trị
mà mình vốn có và theo đuổi cịn q giá hơn. Sự sống chỉ có ý nghĩa khi con người
được sống tự nhiên với sự hài hoà giữa thể xác và tâm hồn.


– Con người phải luôn luôn biết đấu tranh với những ngịch cảnh, với chính bản thân,
chống lại sự dung tục để hồn thiện nhân cách và vươn tới những giá trị tinh thần cao
quý.


b. Đánh giá ý nghĩa của tư tưởng ấy :


– Có ý nghĩa thực tế rất cao bởi đây khơng chỉ là vấn đề của nhân vật Trương Ba mà cịn
là vấn đề của con người hiện đại.



<b>III. Kết bài:</b>


Tóm lại, trong đoạn trích, tác giả Lưu Quang Vũ đã thể hiện một cách sâu sắc và sinh
động bi kịch của nhân vật Hồn Trương Ba, bi kịch của một con người khơng được sống
tồn vẹn mà mình phải sống “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”.


Qua bi kịch của Hồn Trương Ba, nhà viết kịch tài năng đã gửi tới độc giả nhiều thế hệ
những triết lí nhân sinh sâu sắc về hạnh phúc, sự sống và cái chết, đồng thời phê phán
một số biểu hiện tiêu cực trong lối sống lúc bấy giờ, góp phần đấu tranh chống lại sự tha
hoá ở mỗi con người trong đời sống hiện nay.


<b>Bài làm</b>


Lưu Quang Vũ là người có tài về nhiều mặt như: viết văn, làm thơ, vẽ tranh…nhưng ông
được xem là một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học Việt nam.
Những vở kịch của ông đã làm xôn xao dư luận và được đón nhận nồng nhiệt của khán
giả. Phần lớn các vở kịch của ơng đều được các đồn nghệ thuật dàn dựng, trong đó vở
kịch Hồn Trương Ba da hàng thịt là đặc sắc nhất. Lưu Quang Vũ đã có rất nhiều sáng
tạo. Ơng đã đổ rượu mới vào bình cũ để kể lại chuyện hài xưa như một bi kịch triết lí
thời nay. Qua vở kịch Lưu Quang Vũ đã gửi gắm rất nhiều suy nghĩ và qua niệm sống
của mình đến với khán giả.


Nhan đề truyện thể hiện một quan niệm: Giữa hồn và xác phải có một sự tương hợp hài
hịa, thế nhưng ở đây có sự khập khiễng khơng thể hịa hợp. Đặc biệt là hồn của một
người thanh cao, trong sáng, trung thực lại ngụ trong xác của một kẻ tầm thường, phàm
tục, đầy bản năng, thơ lỗ. Bi kịch này sinh từ đó. Như vậy tên gọi của vở kịch đã thâu
tóm được những mâu thuẫn xung đột bên trong của một con người. Điều nảy sinh là linh
hồn là hồn trong sạch đang dần dần bị tha hóa. Từ chỗ thanh cao đến chỗ có những ham
muốn tầm thường. Nhan đề đã thâu tóm những mâu thuẫn xác định ngay trong một con


người. Đây là mâu thuẫn nội tại.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

xác thô lỗ, ranh mãnh, ve vãn, chế nhạo, cám dỗ. Có lúc hồn phải thỏa hiệp với những
đòi hỏi bản năng của xác. Bây giờ khơng cịn thích đánh cờ – một thú vui trí tuệ, thanh
cao. Những nước cờ khơng cịn phóng khống mà tủn mủn vơ hồn. Khơng cịn là người
có bàn tay khéo léo nữa mà là một kẻ vụng về. Bên trong một đường, bên ngoài một nẻo.
Ý thức được điều đó nên hồn càng thêm đau khổ. Đây là sự đau khổ vì khơng làm chủ
được bản thân. Đây cũng là nỗi đau khổ của con người khi phải sống trong hồn cảnh
khơng phù hợp với mong ước của mình, phơng phải là chính mình.


Bi kịch của Trương Ba không chỉ là bi kịch của cá nhân mà cịn là bi kịch gia đình. Quay
lại với thể xác, hồn Trương Ba phải đối diện với một xung đột khác đó là bi kịch khơng
được thừa nhận. Người vợ hiền thục rất đau khổ, tìm cách tránh mặt và định bỏ đi. Con
trai thì hư hỏng, cháu nội thì tỏ thái độ thù ghét và đuổi ơng đi. Đứa con dâu là người
cảm thông với ông nhất, tiếc nuối một người cha chồng trước kia thì lại vướng mắc với
một loại câu hỏi rất khó lí giải: “…làm sao giữ được thầy ở lại, hiền hậu, vui vẻ, tốt lành
như thầy của chúng con xưa kia? Làm thế nào, thầy ơi?”.Trương Ba đã rơi vào cái khổ
của việc không được chia sẻ và thấu hiểu. Cháu nội thù ghét khơng nhận và đuổi ơng đi,
dù ơng có thanh minh. Ông đã gây ra những xáo trộn, bất an trong gia đình, gia đình lại
khổ lây vì sự nhũng nhiễu của lí tưởng.


Như vậy, Trương Ba đã rơi vào tình thế cơ đơn ngay tại nhà mình. Trương Ba ý thức nỗi
khổ này của vợ con lớn hơn cả nỗi khổ khi chơn ơng xuống đất. Ơng đã tự ý thức được
tất cả và cảm thấy mình có lỗi với gia đình. Điều đó cho ta thấy Trương Ba là một con
người rất vị tha.


Bi kịch của Trương Ba là ở chỗ mình khơng phải là mình. Khổ vì bị sự trói buộc có tính
định mệnh của phần xác đối với phần hồn. Đây là nỗi đau khổ tột cùng của Trương Ba.
Để thể hiện điều này, Lưu Quang Vũ đã tạo ra một cuộc đấu trí đầy trí tuệ giữa linh hồn
và thể xác. Tiếng nói của xác là tiếng nói của bản năng. Tiếng nói của Trương Ba là


tiếng nói của con người thanh cao, trong sạch, tự ý thức. Đó là cuộc đấu tranh gay gắt
giữa hai mặt tồn tại của con người, thể hiện khát vọng hướng thiện và tầm quan trọng
cảu việc tự ý thức về bản thân và vượt lên chính mình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Hồn Trương Ba ý thức được nghịch cảnh mình nên đau đớn day dứt cùng với sự tác
động từ bên ngồi: lí trưởng, gia đình nên Trương Ba phải gặp Đế Thích để giải quyết
vấn đề này. Màn đối thoại giữa Trương Ba và Đế Thích cũng rắt đặc sắc. Ngơn ngữ của
Đế Thích là ngơn ngữ dụ dỗ thuyết phục: lí lẽ khơng ngoan có vẻ có lí, nâng cao giá trị
của Trương Ba, bôi bác sự giả dối có trên thiên đình. Tiên thánh cũng khơng được sống
theo những gì mình nghĩ ở bên trong, đến Ngọc Hồng cũng phải ép mình cho xứng
danh Ngọc Hồng. Trên trời, dưới đất người ta đều thế cả. Đế Thích sửa sai lại càng
thêm sai. Trương Ba đã bác bỏ một cách cương quyết: “Thần có thể chấp nhận một cuộc
sống như thế chứ con người thì khơng” và khăng khăng địi chết, khơng chịu nhập vào
cái xác của ai nữa. Bi kịch của ông bắt đầu từ khi ông được sống lại trong cái xác anh
hàng thịt. Như vậy, là con người ai cũng muốn là chính mình mà không muốn sống tạm
bợ, chắp vá. Trương Ba đã ý thức được vấn đề là sống như thế nào chứ không phải chỉ
được sống là đủ. Trương Ba đã dũng cảm chấp nhận cái chết để bảo vệ chân lí, bảo vệ
nhân cách, bảo vệ các giá trị nhân sinh và dù có chết cũng là cái chết bất tử. Dù là nghịch
lí nhưng đó là con đường phục hưng những giá trị nhân văn. Đó là cuộc thắng lợi của
cuộc tranh chấp muôn thuở giữa cái thánh thiện và cái phàm tục. Trương Ba đã chiến
thắng được mình và cịn chủ động phê phán khun bảo Đế Thích. Đó là chuyện phi
thường, một ơng tiên phải đuối lí trước con người. Cuối cùng phải thốt lên một câu như
vỡ lẽ ra một điều mới: “con người dưới hạ giới các ơng thật là kì lạ”. Hóa ra các lực
lượng siêu nhiên, thần thánh tuy có thể quyết định được việc sống chết của con người
nhưng không thể can thiệp vào sự tự do của con người. Lưu Quang Vũ đã thể hiện niềm
tin sâu sắc vào con người vào khả năng vươn lên mọi thực tế nghiệt ngã. Thật xúc động
khi hồn Trương Ba xuất hiện giữa màu xanh lá với lời nói thiệt thiết tha. Cái chết của
Trương Ba là cái chết bất tử, tâm hồn của ông vẫn sống mãi giữa màu xanh cây vườn. Bi
kịch của Trương Ba là một bi kịch lạc quan.



Qua bi kịch của Trương Ba nhà văn Lưu Quang Vũ muốn gửi đến người đọc những
thông điệp: Con người cần phải sống hài hòa giữa hai mặt vật chất và tinh thần. Khơng
nên kì thị những địi hỏi vật chất của con người, cần tôn trọng quyền tự do cá nhân, giúp
mỗi người phải được là mình, sống đúng với chính mình. Và phải sửa chữa những sai
lầm để xây dựng một tương lai tốt đẹp.


<b>Bài làm 2</b>


Hồn Trương Ba, da hàng thịt là một trong những vở kịch nổi tiếng nhất của Lưu Quang
Vũ. Vở kịch đặt ra nhiều vấn đề nóng bỏng của xã hội lúc đó-thời điểm những năm tám
mươi của thế kỉ XX. Lưu Quang Vũ đã khéo léo mượn lại một tích truyện dân gian cũ để
đan cài vào đó những suy nghĩ,quan niệm,triết lí nhân văn mới mẻ và sâu sắc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

trong thân xác anh hàng thịt, với những lí lẽ đầy cám dỗ của thân xác,tâm hồn thanh cao
của Trương Ba cũng có lúc bị tha hóa,phải làm những điều trái với tư tưởng, đạo lí của
mình để thỏa mãn thân xác. Đó chính là bi kịch nội tại của nhân vật.


Sống trong xác anh hàng thịt, Trương Ba nhận thấy mình ngày càng bị tha hóa và đau
khổ hơn là hồn Trương Ba khơng thể giải quyết được mâu thuẫn đó. Bi kịch được đào
sâu,tạo xung đột qua các đoạn đối thoại.


Đầu tiên là cuộc đối thoại căng thẳng, quyết liệt giữa hồn và xác. Xác-bằng những lí lẽ
đầy cám dỗ và những chứng cứ xác thực đã làm cho hồn thấy rằng sự tồn tại của nó cũng
có cái thú vị. Đó là cảm giác khát thèm xác thịt, cảm giác khát thèm miếng ăn, sự đắc
thắng trước bạo lực. Xác anh hàng thịt cũng sắc sảo không kém khi chỉ ra: “Những vị
lắm chữ nhiều sách như các ông là hay vin vào cớ tâm hồn là quý, khuyên con người
sống phải vì phần hồn, để rồi bỏ bê cho thân xác họ mãi khổ sở, nhếch nhác”. Những câu
cảm thán ngắn, dồn dập:” Khơng! Ta vẫn có một đời sống riêng: nguyên vẹn, trong
sạch,thẳng thắn! ta cần gì đến cái sức mạnh làm ta trở thành tàn bạo; Nói láo! Mày chỉ là
cái vỏ bên ngồi, khơng cs ý nghĩa gì hết,khơng có tư tưởng,khơng có cảm xúc…!



Bi kịch ấy vẫn chưa dừng lại. Tuy nhiên, qua lí lẽ của anh chàng hàng thịt, tác giả cũng
hàm ý rằng, thể xác cũng có tiếng nói riêng. Đó là tiếng nói của bản năng, của đam mê,
dục vọng đời thường. Vì thế, con người phải có khát vọng sống thanh cao nhưng cũng
không thể tách hồn khỏi xác vật chất đời thường. Đó cũng là sự mâu thuẫn giữa khát
vọng và bản năng con người.


Sau tất cả những đối thoại ấy, mỗi nhân vật bằng cách nói riêng, giọng nói riền của mình
đã khiến Hồn Trương Ba đã cảm thấy không thể chịu nổi. Và hồn đã quyết không thể
khuất phục xác được nữa. Hồn Trương Ba đã phản kháng quyết liệt:” Không cần đến cái
đời sống do mày mang lại! Khơng cần!. Đây là lời đối thoại có tính chất quyết định dẫn
đến hành động châm hương gọi Đế Thích một cách dứt khốt.


Qua bi kịch của hồn Trương Ba, nhà văn Lưu Quang Vũ muốn gửi đến những thơng điệp
đến người đọc. Đó là con người là một thể thống nhất, hồn và xác phải hài hịa. Khơng
thể có một tâm hồn thanh cao trong một thân xác phàm tục, tội lỗi. Khi con người bị chi
phối bởi những nhu cầu bản năng của thân xác thì đừng chỉ đổ tội cho thân xác, không
thể tự an ủi, vỗ về mình bằng vẻ đẹp siêu hình của tâm hồn. Tuy nhiên, tác giả cũng chỉ
ra rằng, sống thực sự cho ra con người quả không hề dễ dàng, đơn giản. Khi sống nhờ,
sống gửi, sống chắp vá, khi khơng được là mình thì cuộc sống ấy thật vơ nghĩa.


Màn kết, Trương Ba trở lại xác cho anh hàng thịt, chấp nhận cái chết để linh hồn được
trong sạch, hóa thân vào các sự vật thân thương và tồn tại vĩnh cửu bên người thân. Cuộc
sống trở lại quy luật tuần hồn của mn đời. Màn kết với chất thơ sâu lắng đã đem lại
âm hưởng thanh thoát cho một bi kịch lạc quan, đồng thời gửi đến cho người đọc thông
điệp và sự chiến thắng của cái Thiện cái Đẹp và sự sống đích thực.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

hiệu ấy đã làm nên sức hấp dẫn và nguồn sống dạt dào cho vở kịch Hồn Trương Ba, da
hàng thịt!



<b>Bài làm 3</b>


Lưu Quang Vũ là người nghệ sĩ đa tài, khơng chỉ viết văn, làm thơ mà Lưu Quang Vũ
cịn là nhà soạn kịch tài năng bậc nhất của nền văn học nghệ thuật Việt Nam. Trong
những tác phẩm kịch của mình, Lưu Quang Vũ thường hướng đến những vấn đề xã hội
nóng bỏng, qua đó thể hiện những quan niệm sâu sắc về đời người, kiếp người.Trong đó
tác phẩm “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” là vở kịch nổi tiếng nhất khi bàn đến bi kịch
của con người khi phải sống bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo.


Vở kịch xoay quanh nhân vật trung tâm là Trương Ba, vì sự tắc trách của Nam Tào, Bắc
Đẩu nên Trương Ba bị chết oan, để sửa sai Nam Tào đã nghe theo lời khuyên của Đế
Thích, để cho hồn Trương ba nhập vào xác người hàng thịt. Tuy nhiên, từ lúc sống
nương nhờ trong thân xác của người hàng thịt, Trương Ba phải đối mặt với bao bi kịch
cay đắng.


Trước hết, bi kịch của Trương Ba là bi kịch bị tha hóa. Trương Ba vốn là người làm
vườn hiền lành, tốt bụng có lối sống trong sạch nhưng từ khi sống trong xác của anh
hàng thịt Trương Ba dần thay đổi, dần trở nên bạo lực, ham vật chất và có những cảm
xúc khơng đúng đắn khi ở bên vợ người hàng thịt “tay chân run rẩy”, “hơi thở nóng rực”,
“cổ nghẹn lại”… Cũng có lúc vì q tức giận mà Trương Ba đã mượn sức của người
hàng thịt để đánh con trai đến “tóe máu mồm máu mũi”.


Trương Ba cảm thấy đau khổ hơn khi ông tự ý thức được sự thay đổi của bản thân và tự
cảm thấy xấu hổ. Trương Ba dần trở nên tha hóa vì phải sống trong môi trường xô bồ,
bát nháo, nhiều thị phi của người hàng thịt, mặt khác tuy chỉ là thể xác âm u đui mù
nhưng xác người hàng thịt lại có tính cách, nhu cầu riêng và có sức mạnh để chi phối
Trương Ba thực hiện những nhu cầu đó cho mình.


Trong cuộc đối thoại với xác người hàng thịt, Trương Ba đã vô cùng đau đớn khi phải
sống cuộc sống khơng phải của mình “Khơng. Khơng! Tơi khơng muốn sống như thế


nào mãi! Tôi chán cái chỗ ở khơng phải cho tơi lắm rồi”. Đó là sự day dứt, đau khổ của
một con người bị tha hóa và nhận thức được sự tha hóa của chính mình.


Bi kịch của Hồn Trương Ba được đẩy lên đỉnh điểm trong cuộc đối thoại với xác người
hàng thịt và với những người thân. Đó là bi kịch của con người bị từ chối. Trước những
thay đổi nhanh của Trương Ba, người vợ của ông đã vô cùng buồn bã và muốn bỏ đi để
mặc Trương Ba với mối quan hệ không rõ ràng với vợ người hàng thịt “ơng đâu cịn là
ơng đâu, đâu cịn là ơng Trương Ba làm vườn ngày xưa”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

gọi Trương Ba là lão đồ tể, xua đuổi Trương Ba với thái độ quyết liệt “ Ông xấu lắm, ác
lắm. Cút đi! Lão đồ tể, cút đi”.


Chị con dâu là người hiểu và kính trọng Trương Ba nhất cũng không tránh khỏi những
thất vọng khi thấy thầy mỗi ngày một khác đi, dù biết thầy của bây giờ khổ hơn xưa
nhiều lắm nhưng trước cảnh gia đình sắp tan hoang chị con dâu đã khơng giấu được sự
thất vọng khi … mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc,
nhịa mờ dần đi, đến nối có lúc chính con cũng không nhận ra thầy nữa…”


Bác Trưởng Hoạt cũng khơng muốn chơi cờ với Trương Ba nữa vì nếu trước đây nước
cờ của Trương ba thoáng đạt, linh hoạt thì giờ đây nước cờ của Trương Ba cũng ti tiện
như chính con người của anh hàng thịt. Trước sự thất vọng, từ chối của người thân,
Trương Ba vô cùng đau khổ và mong muốn thốt khỏi hồn cảnh chớ trêu của thực tại vì
khơng muốn sống bên ngồi một đằng, bên trong một nẻo.


Bi kịch của Trương Ba còn là bi kịch của con người không được sống là mình, phải sống
bên ngồi một đằng, bên trong một nẻo. Được tiếp tục sống bên cạnh những người
thương yêu nhưng Trương Ba phải thực hiện trách nhiệm của người hàng thịt với công
việc giết lợn, bán thịt hàng ngày. Không những thế, xác người hàng thịt có sức mạnh có
thể chi phối hành động, suy nghĩ của Trương Ba khiến cho ơng sống khơng được là
mình, dần đánh mất đi những phẩm chất tốt đẹp và làm cho những người thân xung


quanh thất vọng, buồn bã.


Đến cuối cùng, Trương Ba đã lựa chọn cái chết để được sống là mình tồn vẹn, nhường
cơ hội sống của mình cho xác người hàng thịt, trả lại cho vợ của anh ta người hàng thịt
hoàn chỉnh, mang cơ hội sống đến cho cu Tị cịn bản thân tạm biệt người thân, gia đình
để được là mình, bảo vệ được những giá trị tốt đẹp.


Thông qua cuộc đối thoại giữa hồn Trương Ba và xác người hàng thịt tác giả Lưu Quang
Vũ đã đặt ra mối trăn trờ về quan hệ giữa thể xác và linh hồn, giữa nhu cầu vật chất và
tinh thần bên trong một con người. Sự sống rất quý giá nhưng sống là mình, sống theo
những giá trị tốt đẹp mà mình theo đuổi cịn q giá hơn. Để hạnh phúc con người cần
dung hòa được những nhu cầu về vật chất và tinh thần.


<b>Bài làm 4</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

Tài năng kịch của Lưu Quang Vũ thể hiện trên nhiều phương diện, tiêu biểu nhất là tài
dựng cảnh và dựng đối thoại. Kịch tính căng ra trong những xung đột, những mâu thuẫn
bên ngồi và bên trong nhân vật. Ngơn ngữ hành động và ngôn ngữ nội tâm được diễn tả
sống động, lời thoại thấm đẫm triết lí nhân sinh.


Đoạn trích có thể gọi là “thốt ra nghịch cảnh” là cảnh cuối, đúng vào lúc xung đột trung
tâm của vở kịch lên đến đỉnh điểm, đòi hỏi phải được giải quyết dứt khốt. Sau mấy
tháng sống trong tình trạng “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”, nhân vật hồn
Trương Ba ngày càng trở nên xa lạ với bạn bè, cả những người thân trong gia đình và tự
chán ghét chính mình. Hồn Trương Ba cảm thấy khơng thể sống trong thân xác anh hàng
thịt, không thế kéo dài “nghịch cảnh” này mãi được. Hồn muốn tách ra khỏi cái thân xác
kềnh càng, thô lỗ. Nhà văn đã sáng tạo khi dựng lên đoạn đối thoại giữa hồn và xác để
rồi trước sự giễu cợt, mỉa mai của xác, hồn Trương Ba càng trở nên đau khổ, bế tắc. Tấn
bi kịch của Trương Ba bị đưa vào tình thế khó lựa chọn, có tính chất thách thức ghê
gớm.



Đúng là “nghịch cảnh” trớ trêu. Lưu Quang Vũ đã dựng lên hai cuộc đối thoại đặc sắc
(đối thoại giữa hồn và xác và đối thoại giữa hồn và Đế Thích) cùng những đối thoại hỗ
trợ khác (hồn với người vợ, với cái Gái, với chị con dâu) để đẩy xung đột nội tâm của
hồn Trương Ba lên đến tận cùng từ đó ý nghĩ tư tưởng, những triết lí nhân sinh được phát
biểu một cách sâu sắc, thấm thía, lầm nổi bậc tấn bi kịch tinh thần của hồn Trương Ba
Trước khi diễn ra cuộc đổì thoại giữa hồn và xác, nhà viết kịch đã để cho hồn Trương Ba
“ngồi ôm đầu một hồi lâu rồi vụt đứng dậy” với một lời độc thoại đầy khẩn thiết.
“Không! Không! Tôi không muốn sống như thế này mãi! Tôi chán cái chỗ ở không phải
là của tôi này lắm rồi! Cái thân thể kềnh càng, thô lỗ này, ta bắt đầu sợ mi, ta chỉ muốn
rời xa mi tức khắc! Nếu cái hồn của ta có hình thù riêng nhỉ, để nó tách ra khỏi cái xác
này, dù chỉ một lát”.


Rõ ràng, hồn Trương Ba đang ở trong tâm trạng vô cùng bức bối, đau khổ. Những câu
cảm thán ngắn, dồn dập cùng với cái ước nguyện khắc khoải của hồn đã nói lên điều đó.
Hồn bức bối bởi khơng thể nào thốt ra khỏi cái thân xác mà hồn ghê tởm. Hồn đau khổ
bởi mình khơng cịn là mình nữa. Trương Ba bây giờ đâu còn là một người làm vườn
chăm chỉ, hết lịng thương u vợ con, quan tâm tới hàng xóm láng giềng như ngày
trước. Ông Trương Ba được mọi người kính trọng đã chết rồi. Trương Ba bây giờ vụng
về, thô lỗ, phũ phàng lắm. Người đọc, người xem càng lúc càng được thấy rõ điều đó qua
các đối thoại và hồn Trương Ba càng lúc rơi vào trạng thái đau khổ, tuyệt vọng.


Trong cuộc đối thoại với xác anh hàng thịt, hồn Trương Ba ở vào thế yếu, đuối lí bởi xác
nói những điều mà dù muốn hay khơng muốn hồn vẫn phải thừa nhận. Cái đêm khi ông
đứng cạnh vợ anh hàng thịt với “tay chân run rẩy”, “hơi thở nóng rực”, “cổ nghẹn lại” và
“st nữa thì…”. Đó là cảm giác “xao xuyến” trước những món ăn mà trước đây hồn cho
là “phàm tục”. Đó là cái lần ơng tát thằng con ơng “tóe máu mồm máu mũi”, …


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

biện: “Ta vẫn có một đời sống riêng, nguyên vẹn, trong sạch, thẳng thắn”. Trong cuộc
đối thoại này, xác thắng thế nên rất hể hả tuôn ra những lời thoại dài với chất giọng khi


thì mỉa mai cười nhạo, khi thì lên mặt dạy đời, chỉ trích, châm chọc. Hồn chỉ bng
những lời thoại ngắn với giọng nhát gừng kèm theo những tiếng than, tiếng kêu. Khơng
chỉ đau khổ, hồn cịn xấu hổ trước những lời nói cơng khai của xác mà trước đó hồn đã
cảm thấy mà khơng muốn nói ra, khơng muốn thừa nhận. Những đối thoại ngắn và dần
dần là những lời thoại bỏ lửng cho thấy sự đuối lí của hồn trong cuộc đối thoại cùng xác.
Hai hình tượng hồn Trương Ba và xác hàng thịt ở đây mang ý nghĩa ẩn dụ: Một bên đại
điện cho sự trong sạch, nhân hậu và khát vọng sống thanh cao, xứng đáng với danh nghĩa
con người và một bên là sự tầm thường, dung tục. Lưu Quang Vũ đã đưa ra một vấn đề
giàu tính triết lí, thể hiện cuộc đấu tranh dai dẳng giữa hai mặt tồn tại trong một con
người. Từ đó nói lên khát vọng hướng thiện của con người và tầm quan trọng của việc tự
ý thức, tự chiến thắng bản thân. Màn đối thoại này cho thấy: Trương Ba được trả lại cuộc
sống nhưng là một cuộc sống đáng hổ thẹn vì phải sống chung với sự dung tục và bị sự
dung tục ấy đồng hố. Khơng chỉ đừng lại ở đó, tác giả cảnh báo: khi con người phải
sống trong dung tục thì tất yếu cái dung tục sẽ ngự trị, sẽ thắng thế, sẽ lấn át và sẽ tàn
phá những gì trong sạch, đẹp đẽ, cao quý trong con người. Điều này làm ta nhớ đến một
câu nói “Những thói xấu ban đầu là người khách lạ qua đường, sau đó là người bạn thân
ở chung nhà và kết cục trở thành ơng chủ khó tính”. Đó là chân lí giản đơn của cuộc
sống mà Lưu Quang Vũ đã gửi đến bạn đọc trong màn đối thoại này.


Nỗi đau khổ của Hồn Trương Ba khi tìm về những người thân trong gia đình cũng được
dàn dựng cơng phu hết sức bi đát. Gia đình ln là mái ấm, là nơi nâng đỡ con người sau
những mỏi mệt và vấp ngã của cuộc sống. Là nơi dang rộng vịng tay đón ta trở về dù
cho ngay khi mọi cánh cửa của cuộc đời đã đóng, khép. Trương Ba cũng tìm về với
những người thân yêu sau cuộc đối thoại đầy đau khổ, bế tắc với xác hàng thịt. Nhưng
càng tìm về lại càng thấy mình đi xa hơn, càng tìm về lại càng đau khổ, tuyệt vọng. Đó là
tâm trạng của hồn Trương Ba khi đối thoại với những người thân.


Người vợ mà ông rất mực vêu thương giờ đây buồn bã và cứ nhất quyết đòi bỏ đi. Với bà
“đi đâu cũng được… còn hơn là thế này”. Bà đã nói ra cái điều mà chính ơng cũng đã
cảm nhận được: “ơng đâu cịn là ơng, đâu cịn là ơng Trương Ba làm vườn ngày xưa”.


Cịn gì đau đớn hơn khi người vợ, người gần gũi nhất với ơng cũng đã chán. Bởi chính
ơng đã mang đến cho bà những đớn đau, buồn tủi. Và vì hiểu ông, thương ông nên bà đã
nhường ông cho cô vợ hàng thịt nhưng những mâu thuẫn cứ ngày một nhiều để rồi bà
nản lịng muốn bỏ đi. Điều đó càng làm Trương Ba thấy đau khổ hơn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

làm gãy nát khiến cu Tị trong cơn sốt mê man cứ khóc, cứ tiếc, cứ bắt đền. Với nó “ơng
nội đời nào, thô lỗ, phũ phàng như vậy”. Nỗi giận dữ của cái Gái đã biến thành sự xua
đuổi quyết liệt: “Ông xấu lắm, ác lắm! Cút đi! Lão đồ tể, cút đi!”.


Chị con dâu là người sâu sắc, chín chắn, hiểu điều hơn lẽ thiệt. Chị cảm thấy thương bố
chồng trong tình cảnh trớ trêu. Chị biết ơng ‘khổ lắm, khổ hơn xưa nhiều lắm”. Nhưng
nỗi buồn đau trước tình cảnh gia đình “như sắp tan hoang ra cả” khiến chị không thể bấm
bụng mà đau, chị đã thốt thành lời cái nỗi đau đó: “Thầy bảo con: Cái bên ngồi là khơng
đáng kể, chỉ có cái bên trong, nhưng thầy ơi, con sợ lắm, bởi con cảm thấy, đau đớn
thấy… Mỗi ngày thầy một đổi khác dần, mất mát dần, tất cả cứ như lệch lạc, nhòa mờ
dần đi, đến nỗi có lúc chính con cũng khơng nhận ra thầy nữa…”.


Không phải ngẫu nhiên mà tác giả không cho anh con trai thực dụng của Trương Ba vào
trong màn đối thoại với người thân. Bởi tất cả những người thân yêu đối thoại cùng hồn
Trương Ba đều nhận ra cái nghịch cảnh trớ trêu, nhận ra sự đổi thay của Trương Ba mà
họ đành bất lực. Họ đã nói ra thành lời bởi với họ cái ngày chơn xác Trương Ba xuống
đất họ đau, họ khổ nhưng “cũng không khổ bằng bây giờ”.


Sau tất cả những đối thoại ấy, mỗi nhân vật bằng cách nói riêng, giọng nói riêng của
mình đã khiến hồn Trương Ba cảm thấy khơng thể chịu nổi. Mỗi lời nói của người thân
trong gia đình như mũi dao găm vào trái tim đang đau đớn bế tắc của Trương Ba, để giờ
đây còn đẩy Trương Ba vào sự tuyệt vọng khôn cùng. Nỗi cay đắng với chính bản thân
mình cứ lớn dần… lớn dần, muốn đứt tung, muốn vọt trào. Đặc biệt sau hàng loạt câu
hỏi có vẻ tuyệt vọng của chị con dâu: “Thầy ơi, làm sao, làm sao giữ được thầy ở lại,
hiền hậu, vui vẻ tốt lành như thầy của chúng con xưa kia? Làm thế nào, thầy ơi?”. Khi


nghe hết những lời nói tự đáy lịng của chị con dâu, đương nhiên hồn không thể chịu
đựng thêm được nữa. Màn đối thoại với người thân của Trương Ba khiến mâu thuẫn bị
đẩy lên đỉnh điểm đòi hỏi phải được giải quyết. Đó là lần cuối cùng hồn Trương Ba độc
thoại nội tâm để tự mình cứu mình, quyết định tìm đường thoát khỏi tấn bi kịch cuộc đời.
Nhà viết kịch đã để cho hồn Trương Ba còn lại trơ trọi một mình với nỗi đau khổ, tuyệt
vọng lên đến đỉnh điểm, một mình với những lời độc thoại đầy chua chát nhưng cũng
đầy quyết liệt: “Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân xác không phải của ta ạ. Nhưng lẽ nào
ta lại chịu thua mày, khuất phục mày và tự đánh mất mình? “Chẳng cịn cách nào khác”!
Mày nói như thế hả? Nhưng có thật là khơng cịn cách nào khác? Có thật khơng cịn cách
nào khác? Khơng cần đến cái đời sống do mày mang lại! Không cần!”. Đây là lời độc
thoại có tính chất quyết định dẫn tới hành động châm hương gọi Đế Thích một cách dứt
khoát.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

phối bởi những nhu cầu bản năng của thân xác thì đừng đỗ lỗi cho thân xác và tự an ủi,
vỗ về mình bằng vẻ đẹp siêu hình của tâm hồn vì thể xác chính là cái bình chứa đựng
linh hồn.


Lúc đầu Đế Thích ngạc nhiên nhưng khi hiểu ra thì khuyên hồn Trương Ba nên chấp
nhận vì “thế giới vốn khơng tồn vẹn, dưới đất, trên trời đều thế cả”. Nhưng Trương Ba
khơng chấp nhận lí lẽ đó. Trương Ba thẳng thắn chỉ ra sai lầm của Đế Thích: “Sống nhờ
vào đồ đạc, của cải người khác đã là chuyện không nên nay đến cái thân tơi cũng phải
sống nhờ anh hàng thịt. Ơng chỉ nghĩ đơn giản là cho tôi sống, nhưng sống thế nào thì
ơng chẳng cần biết”. Sống thực sự cho ra con người quả không hề dễ dàng, đơn giản. Khi
sống nhờ, sống gửi, sống chắp vá, khi khơng được là mình thì cuộc sống ấy thật vơ
nghĩa.


Lịng tốt hời hợt thì chẳng đem lại điều gì thực sự có ý nghĩa cho ai mà có khi đó cịn là
sự vơ tâm, tệ hại hơn, nó đẩy người khác vào nghịch cảnh, vào bi kịch! Đế Thích đã một
lần sai khi giúp Nam Tào, Bắc Đẩu sửa lỗi mà cho hồn Trương Ba sống trong xác anh
hàng thịt. Bi kịch lại nối tiếp bi kịch khi Đế Thích định tiếp tục sửa cái sai của mình và


Tây Vương Mẫu bằng một giải pháp khác, tệ hại ít hơn(theo suy nghĩ của Đế Thích) là
cho hồn Trương Ba nhập vào xác cu Tị nhưng Trương Ba đã kiên quyết từ chối, không
chấp nhận cái cảnh sống giả tạo, mà theo ông là chỉ có lợi cho đám chức sắc, tức lão lí
trưởng và đám trương tuần, không chấp nhận cái cuộc sống mà theo ơng là cịn khổ hơn
là cái chết. “Đâu phải cái sai nào cũng sửa được” nên Trương Ba kêu gọi Đế Thích hãy
sửa sai bằng một việc làm đúng, đó là trả lại linh hồn cho bé Tị.


Đế Thích cuối cùng cũng đã thuận theo đề nghị của Trương Ba với lời nhận xét: “Con
người hạ giới các ông thật kì lạ”, thậm chí Đế Thích cịn cho Trương Ba hiểu “Ngọc
Hồng cịn khơng được sống là chính mình”, thì Trương Ba có gì phải băn khoăn về
cuộc sống hiện tại. Người đọc, người xem có thể nhận ra những ý nghĩa triết lí sâu sắc và
thấm thía qua hai lời thoại này. Thứ nhất, con người là một thể thống nhất, hồn và xác
phải hài hòa. Thứ hai, sống thực sự cho ra con người, được sống đúng với mình quả
khơng hề dễ dàng, đơn giản. Khi sống nhờ, sống gửi, sống chắp vá thì cuộc sống ấy thật
vô nghĩa. Những lời thoại của Hồn Trương Ba với Đế Thích chứng tỏ nhân vật đã ý thức
rõ về tình cảnh trớ trêu, đầy tính chất bi hài của mình, thấm thía nỗi đau khổ về tình trạng
ngày càng vênh lệch giữa hồn và xác, đồng thời càng chứng tỏ quyết tâm giải thoát nung
nấu của nhân vật trước khi đi đến quyết định.


Qua màn đối thoại, có thể thấy tác giả gửi gắm nhiều thông điệp vừa trực tiếp vừa gián
tiếp, vừa mạnh mẽ, quyết liệt vừa kín đáo và sâu sắc về thời chúng ta đang sống. Tuy
vậy, chỉ cần nhấn mạnh ở đây vẻ đẹp tâm hồn của những người lao động trong cuộc đấu
tranh chống lại sự dung tục, giả tạo để bảo vệ quyền được sống toàn vẹn, hợp với lẽ tự
nhiên cũng là sự hoàn thiện nhân cách. Chất thơ của kịch Lưu Quang Vũ cũng được bộc
lộ ở đây.


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

xin tiên Đế Thích cho cu Tị được sống lại, cho mình được chết hẳn chứ khơng nhập hồn
vào thân thể ai nữa của Trương Ba là kết quả của một q trình diễn biến hợp lí.


Hơn nữa, quyết định này cần phải đưa ra kịp thời vì cu Tị vừa mới chết. Hồn Trương Ba


thử hình dung cảnh mình lại nhập vào xác cu Tị để sống và thấy rõ “bao nhiêu sự rắc
rối”, vơ lí lại tiếp tục xảy ra. Nhận thức tỉnh táo ấy cùng tình thương mẹ con cu Tị càng
khiến hồn Trương Ba đi đến quyết định dứt khoát. Qua quyết định này, chúng ta càng
thấy Trương Ba là con người nhân hậu, sáng suốt, giàu lịng tự trọng. Đặc biệt, đó là con
người ý thức được ý nghĩa của cuộc sống.


Cái chết của cu Tị có ý nghĩa đẩy nhanh diễn biến kịch đi đến chỗ “mở nút”. Dựng tả
quá trình đi đến quyết định dứt khoát của nhân vật hồn Trương Ba, Lưu Quang Vũ đã
đảm bảo được tính tự nhiên, hợp lí của tác phẩm. Khơng chỉ có ý nghĩa triết lí về nhân
sinh, về hạnh phúc con người, với tinh thần chiến đấu thẳng thắn của một nghệ sĩ hăng
hái tham dự vào tiến trình cải cách xã hội, trong vở kịch này nói chung và đoạn kết nói
riêng, Lưu Quang Vũ muốn góp phần phê phán một số biểu hiện tiêu cực trong lối sống
lúc bấy giờ.


Thứ nhất, con người đang có nguy cơ chạy theo những ham muốn tầm thường về vật
chất, chỉ thích hường thụ đến nỗi trở nên phàm phu, thơ thiển. Nói như Chế Lan Viên
trong một bài thơ đã từng cánh báo “muốn nuôi sống xác thân đem làm thịt linh hồn”.
Thứ hai, lấy cớ tâm hồn là quý, đời sống tinh thần là đáng trọng mà chẳng chăm lo thích
đáng đến sinh hoạt vật chất, khơng phấn đấu vì hạnh phúc tồn vẹn. Thực chất đây là
biểu hiện của chủ nghĩa duy tâm chủ quan, của sự lười biếng, không tưởng. Cả hai quan
niệm, cách sống trên đều cực đoan, đáng phê phán.


Ngoài ra, vở kịch cịn đề cập đến một vấn đề cũng khơng kém phần bức xúc, đó là tình
trạng con người phải sống giả, không dám và cũng không được sống là bản thân mình.
Đấy là nguy cơ đẩy con người đến chỗ bị tha hóa do danh và lợi. Vở kịch khơng chỉ nói
đến sự hồ hợp và ý thức đạo lý về phần hồn và phần xác con ngời mà cịn đề cao cuộc
đấu tranh cho sự hồn thiện nhân cách con ngời. Qua những lời đối thoại ngắn gọn, súc
tích, các nhân vật trong thế giới dân gian xa cũ trở nên gần gũi, quen thuộc, nh đang
cùng tham dự với cuộc sống đương đại của chúng ta. Vở kịch không chỉ đề cập đến
chuyện của một thời mà cịn đề cập đến chuyện của mn đời. Đó là triết lý nhân sinh về


lẽ sống, lẽ làm ngời.


Lưu Quang Vũ đã mãi mãi ra đi trong một tai nạn giao thông đầy thương tâm. Khoảng
trống mà nhà viết kịch tài ba ấy để lại trong nền sân khấu kịch trường Việt Nam là không
thế lấp đầy. Vở kịch cuối cùng được Lưu Quang Vũ đặt tên là Chim sâm cầm khơng
chết. Với tất cả những gì để lại cho đời thì mãi mãi Lưu Quang Vũ khơng chết. Từ bấy
đến nay, “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” và gần 50 vở kịch khác của Lưu Quang Vũ vẫn
được dàn dựng và cơng diễn. Những triết lí về cuộc đời, về con người, về xã hội… đặt ra
trong các vở kịch ln có ý nghĩa với mọi người, mọi thời.


</div>

<!--links-->

×