Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

Tải Ngữ văn lớp 8: Cảm nghĩ tác phẩm vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác - Những bài văn mẫu lớp 8 hay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.87 KB, 4 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Đề bài: Em hãy nêu cảm nghĩ của em sau khi đọc bài Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác của Phan Bội</b>
<b>Châu. </b>


<b>Bài tham khảo 1</b>


Bài thơ vào nhà ngục Quảng Đơng cảm tác tỏ chí, khẳng định chí hướng, lí tưởng của mình. Câu vào bài rất tự
nhiên, pha chất tự trào, đùa tếu, biểu hiện ngay thái độ coi thường hiểm nguy, tinh thần không nao núng của tác
giả:


<i>"Vẫn là hào kiệt, vẫn phong lưu</i>
<i>Chạy mỏi chân thì hãy ở tù".</i>


Hào kiệt là kẻ tài trí hơn người. Sách Hồi Nam tử xưa nói trí hơn vạn người gọi là anh, trí hơn nghìn người gọi
là tuấn, trí hơn trăm người gọi là hào, trí hơn mười người gọi là kiệt. Phong lưu vừa có nghĩa là anh hùng, tuấn
kiệt. Câu đầu tiên có nghĩa là hồn cảnh có thay đổi, nhưng phong độ anh hùng, tư thái phong lưu vẫn không
thay đổi.


<i>"Vẫn là hào kiệt, vẫn phong lưu"</i>


Không phải là Phan Bội Châu đã thấy mọi chân, mà là giả định như một cuộc dừng chân sau chặng đường dài
mỏi mệt, coi như một việc bình thường trong cuộc sống.


Đó là cách biến việc nghiêm trọng thành việc bình thường của nhà cách mạng để tự động viên, an ủi.


Hai câu tiếp theo tự
nói về cảm nhận
thân thế của mình:


<i>"Đã khách khơng</i>
<i>nhà trong bốn biển</i>



<i>Lại người có tội</i>
<i>giữa năm châu".</i>
Người Trung Quốc
có câu thành ngữ
«Tứ hải vi giai»,


nghĩa là xem bốn biển là nhà. Tình cảnh của Phan Bội Châu cịn bi đát hơn: Ơng đ ã bỏ nhà xuất dương hoạt
động, làm khách không nhà trong bốn biển – nơi nào cũng xa lạ, khơng có chỗ dựa, cực tả nỗi phiêu bạt, lênh
đênh. Người có tội là người bị theo dõi, truy nã ráo riết, nơi nào cũng có nguy cơ bắt bớ, khơng nói nào được yên
ổn.


Đem câu này đối chiếu với hai câu trước mới thấy hết cái khí phách anh hùng của tác giả: Dù hồn cảnh khó
khăn, khắc nghiệt vẫn giữ vững chí khí, tác phong hào kiệt.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<i>Mở miệng cười tan cuộc oán thù"</i>


Hai câu luận đã bày tỏ được khát vọng mãnh liệt mà cụ Phan từng ôm ấp: Khát vọng kinh bang tế thế (lo nước
cứu đời). Hình ảnh thơ có tính chất lãng mạn kiểu anh hùng ca khiến nhân vật trữ tình dường như khơng cịn là
con người thật, con người nhỏ bé bình thường trong vũ trụ nữa mà vụt lớn lên, từ tầm vóc đến năng lực đều trở
nên hết sức lớn lao, thần thánh.


Nếu trước đây người đời đã từng ngưỡng mộ hồi bão và khí phách của nhà chí sĩ cách mạng Phan Bội Châu, thì
lúc này đây, họ càng thêm cảm phục bản lĩnh của cụ Người anh hùng ấy, dù trong cảnh tù đầy vẫn Dang tay ôm
chặt bồ kinh tế và Mở miệng cười tan cuộc oán thù.


Bài thơ khép lại bằng hai câu thơ khẳng định ý chí sắt son bất khuất:
<i>"Thân ấy vẫn còn, còn sự nghiệp</i>


<i>Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu"</i>



Một lần nữa ta cảm nhận được tư thế hiên ngang của con người đứng cao hơn cái chết. Lời thơ dõng dạc, dứt
khốt như chính ý chí gang thép của người tù cách mạng. Kẻ thù có thể giam cầm, đầy đọa, thậm chí sát hại
những người yêu nước, những người cách mạng, nhưng niềm tin sắt son của họ, ý chí chiến đấu kiên cường, bất
khuất của họ thì chúng làm sao có thể khuất phục. Đối với những người cách mạng như Phan Bội Châu, còn
sống là còn chiến đấu.


Bài thơ khép lại mà âm hưởng hào hùng của nó như cịn ngân vang mãi trong lòng độc giả. Càng đọc bài thơ, ta
càng xúc động bởi nguồn cảm xúc trữ tình mãnh liệt của tác giả đã truyền sang ta. Chính nguồn cảm xúc này đã
tạo nên vẻ đẹp kì diệu cho hình tượng thơ và tạo nên phong cách trữ tình cách mạng Phan Bội Châu. Và cũng
chính nguồn cảm xúc này đã tạo nên sức hấp dẫn, lơi cuốn khơng gì cưỡng lại được của thơ ca Phan Bội Châu


<b>Bài tham khảo 2</b>


Phan Bội Châu (1867- 1940) tên hiệu là Sào Nam, quê ở Nam Đàn, Nghệ An. Ông là chiến sĩ cách
mạng vĩ đại của dân tộc ta trong hơn hai mươi năm đầu thế kỷ XX. Ơng cịn là một nhà thơ, nhà
văn lớn để lại nhiều kiệt tác chứa chan tinh thần yêu nước chống xâm lăng. Ông sáng tác nhiều tác
phẩm bang chữ Hán, chữ Nôm, chữ Quốc ngữ, gồm có: Hải ngoại huyết thư, Sào Nam thi tập,
Ngục trung thư, Phan Bội Châu niên biểu, Trùng Quang tâm sử, Việt Nam vong quốc sử....


Năm 1913, Chính quyền Quảng Đông, Trung Quốc đã bắt giam Phan Bội Châu. Với cuộc mua bán
chính trị bẩn thỉu, chúng định trao nhà cách mạng Việt Nam cho thực dân Pháp, trong khi tịa án
Pháp ở Đơng Dương đã kết án tử hình vắng mặt Phan Bội Châu.


"Cảm tác vào nhà ngục Quảng Đông" là chùm thơ hai bài, đây là bài thơ thứ nhất được Phan Bội
Châu viết trong ngày đầu bị bắt giam.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

1. Hai câu đề nói lên một tâm thế đẹp của người chiến sĩ cách mạng: "Vẫn là hào kiệt, vẫn phong
lưu - Chạy mỏi chân thì hãy ở tù". Điệp từ "vẫn" làm cho ý thơ được khẳng định, biểu lộ lòng tự
hào về nhân cách cao đẹp: Hào kiệt, phong lưu. Một con người có tài cao,



* - chí lớn trong mưu đồ đại sự cứu nước cứu dân. Một nhà nho cao khiết, ung dung đàng hoàng.
"Chạy mỏi chân" là cách nói hóm hỉnh về sự hoạt động sơi nổi của Phan Bội Châu lúc ở Nhật, lúc
sang Thái Lan, lúc ở Trung Quốc. Bốn tiếng "thì hãy ở tù" vừa là chấp nhận cảnh ngộ tù đày, vừa
là một thách đố, thể hiện một thái độ rất bình tĩnh, rất chủ động trước tai ương hoạn nạn.


2. Hai câu thực nói về cuộc đời người chiến sĩ cách mạng: Phải xa gia đình, q hương đất nước,
bơn ba hải ngoại, phải nếm trải mọi thử thách gian truân, chịu cảnh tù tội. "Hai mươi năm lẻ đã
từng chua với xót" (Bài ca chúc tết thanh niên). "Khách không nhà" đối với "người có tội" (bị tù),
"bốn bể" đối với "năm châu" - ngôn ngữ thơ cân xứng, thể hiện một tâm hồn cao đẹp, giàu đức hy
sinh, một chí lớn tung hồnh mang tầm vóc lớn lao được đo bằng "năm ''châu" và "bốn bể". Giọng
thơ thanh thoát, phơi phới:


<i>"Đã khách khơng nhà trong bốn biển</i>
<i>Lại người có tội gi la năm châu".</i>


Sau này, trong bài thơ "Từ giã bạn bè lần cuối" viết năm 1940 trước lúc qua đời, ý thơ trên được
tác giả nhắc lại:


<i>"Những ước anh em đầy bốn biển,</i>
<i>Nào ngờ trăng gió nhốt ba gian".</i>


3. Luận: Hai câu 5, 6 đối nhau, ngôn ngữ trang trọng diễn tả một ý chí hiên ngang, một chí lớn phi
thường của người anh hùng muốn làm nên sự nghiệp vĩ đại. Thơ mang cốt cách anh hùng:


<i>"Bủa tay ôm chặt bồ kinh tế</i>
<i>Mở miệng cười tan cuộc oán thù”</i>


"Bủa tay", "ơm chặt" nói lên một tư thế hào hùng, một quyết tâm khơng gì lay chuyển nổi, một lý
tưởng sáng ngời" giúp đời cứu nước! "Cuộc oán thù" là cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và
bè lũ tay sai bán nước. Hai chữ "cười tan" thể hiện một ý chí, nung nấu căm thù. Giọng thơ hào


hùng. Nghệ thuật được sử dụng đặc sắc: Hình ảnh, thậm xưng kỳ vĩ, các động từ gợi tả mạnh mẽ
(ôm chặt, cười tan) đã dựng lên hình ảnh một đấng nam nhi, một trang anh hùng, một bậc trượng
phu, hào kiệt, ... trong tù đày vẫn lạc quan, bất khuất, ngạo nghễ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

cứu nước, cứu dân là con đường vinh quang sáng ngời chính nghĩa. Con đường chiến đấu vì chính
nghĩa đang mở rộng phía trước. Câu thơ thứ 8 nói lên một chấp nhận, một thách thức, một tinh
thần coi thường những nguy hiểm, gian truân:


<i>"Thân ấy hãy cịn, cịn sự nghiệp</i>
<i>Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu!".</i>


Vần thơ mang tính hướng nội vang lên như một lời động viên, khích lệ mình. Nó biểu hiện một
dũng khí hiên ngang của người chiến sĩ cách mạng vĩ đại: "uy vũ bất năng khuất". Đó là niềm tự
tin,


lạc quan, bất khuất, tự làm chủ hoàn cảnh, mang cốt cách hào kiệt, phong lưu,


</div>

<!--links-->

×