Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

Tải Phân tích bài thơ Hai chữ nước nhà của Á Nam Trần Tuấn Khải - Phân tích Ngữ văn lớp 8 bài thơ Hai chữ nước nhà

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.16 KB, 10 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Phân tích bài thơ Hai chữ nước nhà của Á Nam Trần Tuấn Khải</b>
<b>Bài tham khảo 1</b>


Trần Tuấn Khải thường mượn những chuyện lịch sử để giãi bày tấm lịng u nước, nỗi đau mất
nước, qua đó mà thức tỉnh tinh thần của đồng bào. Ở những năm đầu thế kỉ XX, ông là một trong
những gương mặt thơ tiêu biểu với giọng điệu bi tráng, thống thiết. Hai chữ nước nhà là tác phẩm
tiêu biểu của ông. Dưới hình thức song thất lục bát, bài thơ Hai chữ nước nhà để lại một ấn tượng
mạnh mẽ, sâu sắc trong lòng người đọc. "Tâm trạng xã hội khoảng 1926 uất ức, bi tráng, điệu lục
bát du dương êm hịa khơng đủ, mà địi hỏi một điệu thơ song thất lục bát để toát, để thoát, xé nỗi
niềm u uất đè nặng tâm hồn" (Xuân Diệu).


Cuộc chia tay cảm động giữa hai cha con Phi Khanh và Nguyễn Trãi trong bối cảnh nước mất nhà
tan trong bài thơ là những khoảnh khắc đặc biệt, có sức lay động lớn đã được Trần Tuấn Khải sử
dụng để kí thác tâm trạng, cảm xúc hiện tại, thực của mình. Lời trăng trối của người cha đối với
con khi vĩnh biệt trĩu nặng ân tình, nhuốm đậm những đau thương. Tiếng lịng sầu thảm, ai ốn kia
khi thì trùng điệp dồn nén, khi thì da diết xót xa. Tác giả quả là đã không uổng công chút nào khi
lựa chọn âm điệu phong phú của thể thơ song thất lục bát để dồn tả những tiếng lịng ấy.


Có thể hình dung bố cục của văn bản trích Hai chữ nước nhà thành ba phần. Phần 1 (8 câu thơ
đầu): Diễn tả tâm trạng của người cha trong cảnh ngộ éo le, đau lịng; phần 2 (20 câu tiếp): Phác
họa tình cảnh đau thương tang tóc của đất nước; phần 3 (8 câu thơ cịn lại): Xót phận mình bất lực,
người cha trao gửi cho con tâm nguyện cứu nước. Đi vào tìm hiểu từng phần ta sẽ cảm nhận được
mạch xúc cảm thống thiết, chân thành của bài thơ.


Ở 8 câu thơ đầu, tác giả gợi ra bối cảnh không gian biên ải ảm đạm, hun hút và tâm trạng của nhân
vật trữ tình. Bốn câu đầu là khơng gian chia li:


<i>Chốn ải Bắc mây sầu ảm đạm,</i>
<i>Cõi giời nam gió thảm đìu hiu.</i>


<i>Bốn bề hổ thét chim kêu,</i>



<i>Đối nom phong cảnh như khêu bất bình.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<i>Hạt máu nóng thấm quanh hồn nước,</i>
<i>Chút thân tài lần bước dặm khơi,</i>


<i>Trông con tầm tã châu rơi,</i>
<i>Con ơi, con nhớ lấy lời cha khuyên.</i>


Giờ phút này đây, cha sẽ ra đi mà chẳng bao giờ về nữa. Đất nước lầm than, cha con li biệt, tình
đất nước lớn lao hịa trong tình phụ tử sâu nặng Nguyễn Phi Khanh bị giải sang Tàu. Để làm tròn
đạo hiếu với cha già, Nguyễn Trãi muốn đi theo để phụng dưỡng. Nhưng Phi Khanh gạt tình riêng,
dằn lịng khun con trở lại để trả thù nhà, đền nợ nước. Người sắp ra đi vĩnh viễn thường nói
những lời gan ruột, những lời mà người cịn sống phải khắc cốt ghi xương.


Tấm lòng đối với đất nước của người cha thật cảm động. Ở những câu thơ tiếp theo trong phần 2
tác giả đã hóa thân vào người trong cuộc li tan để phác ra tình cảnh đau thương của đất nước lầm
than nô lệ. Trong đó tác giả sử dụng cả tự sự và miêu tả xen lẫn những lời cảm thán để làm nổi bật
nỗi đau mất nước nhà tan, tất cả đang chìm ngập trong thảm họa "xương rừng máu sông"; uất hận
sầu đau đang ngùn ngụt ngút trời:


<i>Thảm vong quốc kể sao xiết kể,</i>
<i>Trông cơ đổ nhường xé tâm can,</i>


<i>Ngậm ngùi đất khóc giời than,</i>
<i>Thương tâm nịi giống lầm than nỗi này!</i>


Nỗi đau ở đây là một nỗi đau lớn, vượt lên nỗi đau riêng để thành nỗi đau cao cả, thiêng liêng của
cả đất nước, giống nòi. Sự lớn lao ấy được diễn tả bằng hàng loạt các hình ảnh mang tầm vóc vĩ
mơ: Vong quốc, cơ đồ, đất khóc, giời than, nòi giống. Dòng xúc cảm mãnh liệt thống thiết biểu


hiện qua những từ ngữ diễn tả tình cảm ở cung bậc mạnh, bi thiết: Kể sao kể xiết, xé tâm can,
ngậm ngùi, khóc than, thương tâm. Mỗi dịng thơ là một tiếng kêu than đứt ruột, đầy những hờn
căm, bi phẫn. Chẳng đủ nước mắt để khóc than cho những đớn đau đang tràn ngập giang sơn, đắng
cay đành nuốt sâu trong dạ, người cha nhắn nhủ tâm huyết lại cho con:


<i>Cha xót phận tuổi già sức yếu,</i>
<i>Lỡ sa cơ đành chịu bó tay,</i>
<i>Thân lươn bao quản vũng lầy,</i>
<i>Giang sơn gánh vác sau này cậy con.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<i>Đã từng phen vì nước gian lao.</i>
<i>Bắc Nam bờ cõi phân mao,</i>
<i>Ngọn cờ độc lập máu đào cịn đây...</i>


Nói phận mình bất lực để ủy thác tất cả cho con, cha "tuổi già sức yếu", lại gặp cơn nguy nan,
đành uất hận, tủi hờn mà bó tay. Khơi gợi lại truyền thống kiên cường bất khuất của tổ tiên, người
cha muốn thắp lên trong người con tin yêu của mình ngọn lửa căm thù xâm lăng, ngọn lửa ý chí
quyết tâm khôi phục cơ đồ nước nhà và là cả niềm hi vọng lớn vào con trước khi đi mãi. Lời trao
gửi nặng tựa Thái sơn. Nước mất thì nhà cũng tan, thù nhà chỉ có thể trả được khi thù nước đã rửa
sạch. Nguyễn Phi Khanh muốn con mình biến nỗi đau mất cha thành nỗi hận mất nước.


Mượn xưa để nói nay, mượn người để nói ta vốn là thủ pháp có từ lâu đời trong truyền thống văn
học. Trần Tuấn Khải đã rất thành công khi lựa chọn chuyện chia li giữa hai cha con Nguyễn Phi
Khanh và Nguyễn Trãi để gửi gắm tâm sự, nỗi đau mất nước nhằm khơi gợi tinh thần yêu nước
thương nòi khi non sơng đang bị giày xéo bởi gót giày thực dân. Bằng tình cảm sâu đậm, mãnh
liệt, với một giọng điệu thống thiết, thán ca, tác giả của Hai chữ nước nhà đã thực hiện bổn phận,
sứ mệnh cao cả của người nghệ sĩ yêu nước. Thơ ông thôi thúc lịng người, khích lệ mọi người
tranh đấu cho giang sơn độc lập, tự do.


<b>Bài tham khảo 2</b>



Trong rất nhiều những sáng tác văn chương được lưu hành công khai trên văn đàn hợp pháp ba
mươi năm đầu thế kỉ XX, bài thơ: Hai chữ nước nhà nhận được sự đón chào nồng nhiệt của công
chúng độc giả. Bởi lẽ sáng tác đó đã nói hộ tấm lịng và trái tim yêu nước của người dân Việt Nam
lúc bấy giờ.


Là người có trái tim u nước sơi nổi, thiết tha, Trần Tuấn Khải xót xa tận đáy lịng trước hiện tình
đau thương của đất nước. Để giãi bày tâm sự của mình, ơng hóa thân vào các nhân vật lịch sử.
Tâm trạng phẫn uất, đau thương của các nhân vật lịch sử trước cảnh nước mất nhà tan cũng chính
là tâm trạng của ơng. Tình cảm ấy đã trở thành nguồn cảm hứng chân thành và xúc động cho mạch
thơ yêu nước của Trần Tuấn Khải tn chảy vào lịng người.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Tâm trạng phẫn uất đau thương cùng với lời trăng trối thấm máu và lệ được nhà thơ diễn tả bằng
một lời thơ lâm li, thống thiết của thể song thất lục bát nên có sức rung động và truyền cảm mạnh
mẽ.


Cuộc chia li của hai cha con diễn ra ở chốn ải Bắc, nơi tận cùng của đất nước. Người cha li biệt gia
đình, quê hương xứ sở để lê tấm thân tàn tới chốn lưu đày biệt xứ. Người con quay trở lại quê
hương đất nước mình nhưng tình cảnh cũng chua xót khơng kém cha: Cũng chỉ là một nạn nhân
vong quốc! Trong tâm trạng u uất của hai cha con, cảnh vật nhuốm một màu thê lương, tang tóc:


<i>Chốn ải Bắc mây sầu ảm đạm,</i>
<i>Cõi giời Nam gió thổi đìu hiu,</i>


<i>Bốn bề hổ thét chim kêu</i>


Và cảnh vật thê lương tang tóc càng làm tăng thêm nỗi sầu muộn, buồn đau trong lịng người:
<i>Đối nom phong cảnh như khêu bất bình.</i>


Bốn câu song thất lục bát với những từ ngữ, hình ảnh cũ mịn, ước lệ mà lại có sức gợi cảm, tạo


được khơng khí đau thương của cả thời xưa và nay!


Trong khơng khí tang tóc đau thương của đất nước, tình cảnh của hai cha con càng éo le, chua xót:
Người con những muốn đi theo cha để làm tròn đạo hiếu, người cha phải dằn lòng khuyên con
quay trở lại để lo tính việc trả thù nhà, đền nợ nước. Tình cha con tuy thật da diết, nhưng nghĩa
nước còn sâu đậm hơn nhiều! Tình nhà nghĩa nước giằng xé, khiến cả hai cha con đều tột cùng đau
đớn, xót xa:


<i>Hạt máu nóng thấm quanh hồn nước,</i>
<i>Chút thân tàn lần bước dặm khơi,</i>


<i>Trông con tầm tã châu rơi </i>
<i>Con ơi, con nhớ lấy lời cha khuyên</i>


Trong bối cảnh không gian và tâm trạng như thế, lời trăng trối của người cha thật thiêng liêng, xúc
động và có sức truyền cảm mạnh mẽ, khiến người con phải khắc cốt ghi xương.


Để lời trăng trơi của mình tăng thêm sức mạnh, người cha chỉ ra cho người con tội ác tày trời của
quân giặc và hiện tình bi thảm của đất nước:


<i>Than vận nước gặp khi biến đổi,</i>
<i>Để quân Minh thừa hội xâm lăng,</i>


<i>Bốn phương khối lửa bừng bừng</i>
<i>Xiết bao thảm họa xương rừng máu sông!</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<i>Làm cho xiêu tán hao mịn,</i>
<i>Lạ gì khác giống dễ cịn thương đâu!</i>


Lời thơ tràn đầy sự phẫn uất và xót đau da diết, làm xúc động tận tâm can người đọc. Người đọc


những năm 20 của thế kỉ XX cũng là những nạn nhân vong quốc, dễ dàng cảm nhận nỗi đau của
cha con ơng Nguyễn Phi Khanh như chính nỗi đau của mình.


Sau khi miêu tả hiện tình đất nước và tội ác của quân giặc, người cha trực tiếp bày tỏ nỗi lịng của
mình:


<i>Thảm vong quốc kể sao xiết kể,</i>
<i>Trơng cơ đồ nhường xé tâm can,</i>


<i>Ngậm ngùi đất khóc giời than,</i>
<i>Thương tâm nòi giống lầm than nỗi này!</i>


<i>Khối Nùng Lĩnh như xây khối uất,</i>
<i>Sông Hồng Giang nhường uất cơn sầu,</i>


<i>Con ơi! Càng nói càng đau </i>
<i>Lấy ai té độ đàn sau đó mà?</i>


Tám câu song thất lục bát cũng là tám câu cảm thán với những từ ngữ, hình ảnh đầy cảm xúc: Kể
sao kể xiết, xé tâm can, ngậm ngùi, khóc, than, thương tâm… đã có tác dụng diễn tả sâu sắc, mạnh
mẽ nỗi đau đớn, xót xa trong tâm trạng người cha.


Dường như người cha đã quên đi nỗi đau và số phận của bản thân mình, ơng chỉ nghĩ đến nỗi đau
thương và số phận của cả đất nước, dân tộc. Một tấm lòng như thế, thật xiết bao cảm phục! Từ
trong đau thương, nhân vật trữ tình vụt lớn lên. Và lịng nhiệt tình u nước của ơng cịn làm rung
động cả ngàn đời sau.


Nhiệt tình ấy được kí thác vào lời trao gửi cho con, cho cả thế hệ sau:
<i>Con ơi! Con nhớ lấy lời cha khuyên.</i>



Câu chuyện của người cha xưa hay chính nỗi lịng của nhà thơ luôn trăn trở về đất nước? Sự trăn
trở ấy đã làm nên một giọng thơ tâm huyết đầy bi phẫn có tác dụng rung vào dây đàn yêu nước
thương nòi của mọi lòng người, (Xuân Diệu).


<b>Bài tham khảo 3</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

nước của đồng bào. Thơ Trần Tuấn Khải được truyền tụng rộng rãi trong giai đoạn đầu thế kỉ XX,
nổi tiếng nhất là những bài hát theo làn điệu dân ca như Gánh nước đêm, Anh đi anh nhớ, Hai chữ
nước nhà được viết dưới hình thức thơ lục bát và song thất lục bát.


Hai chữ nước nhà là bài thơ mở đầu tập Bút quan hoài I, quyển thứ nhất, sáng tác vào năm 1924.
Mượn đề tài lịch sử thời quân Minh xâm lược nước ta, Nguyễn Phi Khanh, một viên quan tài giỏi
của triều đình phong kiến đương thời bị giặc bắt đem sang Trung Quốc. Nguyễn Trãi định đi theo
để chăm sóc cha nhưng tới biên giới phía Bắc, Nguyễn Phi Khanh đã khuyên con nên quay về để
mưu tính việc trả thù nhà, đền nợ nước.


Đoạn trích trong sách giáo khoa gồm 36 câu là phần mỗ đầu của bài thơ dài 101 câu, nội dung kể
lại cuộc chia tay đầy ý nghĩa của cha con Nguyễn Trãi đã được ghi vào lịch sử chống ngoại xâm
đau thương và oanh liệt của dân tộc. Trong cảnh ngộ đau thương, Nguyễn Phi Khanh gạt lệ
khuyên con trai bao điều hữu ích. Đất nước thịnh suy là lẽ thường tình. Làm trai phải biết nuốt
hận, chờ thời cơ để trả nợ nước, báo thù nhà. Người cha già lực bất tòng tâm, đành gửi trọn niềm
tin vào con trai, mong con nối chí lớn của mình, tiếp tục sự nghiệp đánh đuổi ngoại xâm, giải
phóng đất nước.


Đoạn trích có thể chia làm ba phần:


Phần 1: Từ đầu… đến lời cha khuyên: Tâm trạng đau đớn của người cha trong cảnh ngộ éo le;
Phần 2: Tiếp theo… đến sau đó mà: Hiện tình đất nước trong cảnh đau thương, tang tóc.
Phần cịn lại: Sự bất lực của người cha và lời trao gửi tâm huyết dành cho con.



Tại sao tác giả lại lấy Hai chữ nước nhà làm tựa đề của bài thơ? Tựa đề đó gắn với tư tưởng chung
của bài thơ như thế nào?


Nước và nhà vốn là hai khái niệm, nhưng trong hoàn cảnh riêng của hai cha con Nguyễn Trãi thời
xưa (thế kỉ XV) và hoàn cảnh chung của đất nước ta vào những năm đầu thế kỉ XX thì hai khái
niệm đó lại có mối liên quan khơng thể tách rời. Nước mất thì nhà tan. Thù nhà chỉ có thể trả được
khi thù nước đã rửa. Bởi thế Nguyễn Phi Khanh muốn nhắc nhở con là hãy lấy nước làm nhà, lấy
cái nghĩa với nước thay cho chữ hiếu với cha, như thế là vẹn cả đôi đường.


Sức truyền cảm mạnh mẽ của bài thơ toát lên từ nội dung yêu nước. Tác giả đã tái hiện khá đầy đủ
khung cảnh buổi chia li và tâm trạng đau thương, khắc khoải cua hai cha con Nguyễn trãi. Điều đó
giống như “gảy đúng vào dây đàn yêu nước thương nòi của mọi lòng người”. (Xuân Diệu).


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Thể thơ song thất lục bát rất phù hợp với việc diễn tả tâm trạng nặng trĩu buồn thương của nhân
vật.


Nội dung bài thơ khơng chỉ đơn thuần mang tính chất hồi cổ mà nó chất chứa tâm sự phẫn uất,
đau thương của tác giả trước tình cảnh nước mất, nhà tan trong hiện tại. Vì vậy, nó làm rung động
lịng người và được truyền tụng rộng rãi, đặc biệt là trong tầng lớp trí thức, thanh niên và học sinh
yêu nước.


Đốn câu thơ đầu là khung cảnh cuộc chia li:


<i>Chốn ải Bắc mây sầu ảm đạm,</i>
<i>Cõi giời Nam gió thảm đìu hiu.</i>


<i>Bốn bề hổ thét chim kêu,</i>


<i>Đoái nom phong cảnh như khêu bất bình.</i>



Cuộc chia tay giữa hai cha con diễn ra ở biên ải phía Bắc vốn là nơi ảm đạm, heo hút, bốn bề rừng
núi trập trùng, mây sâu, gió thảm, hổ thốt, chim kêu… Đối với cuộc ra đi khơng có ngày trở lại
của Nguyễn Phi Khanh thì đây tựa điểm dừng chân cuối cùng để rồi vĩnh viễn xa lìa Tổ quốc, quê
hương và những người ruột thịt. Tấm trạng đau đớn của kẻ bị lưu đày biệt xứ đã phủ lên cảnh vật
một màu tang tóc, thê lương và ngược lại, cảnh vật ấy càng như giục Cơn sầu trong lịng người
vốn nặng tình non nước.


Tình cảm yêu nước của tác giả đã biến những hình ảnh ước lệ và từ ngữ sáo mòn trong thơ cổ điển
thành chân thực và cảm động. Dường như tác giả được trực tiếp chứng kiến cuộc chia tay đau đớn
ấy và hóa thân vào cả kẻ ở lẫn người đi để thấu hiểu, đồng cảm với tâm trạng nhân vật, từ đó viết
nên những dịng thơ máu hịa nước mắt:


<i>Hạt máu nóng thấm quanh hồn nước,</i>
<i>Chút thân tàn lần bước dặm khơi,</i>


<i>Trông con tầm tã châu rơi,</i>
<i>Con ơi, con nhớ lấy lời cha khuyên.</i>
<i>Giống Hồng Lạc hoàng thiên đã định,</i>


<i>Mấy ngàn năm suy thịnh đổi thay.</i>
<i>Giời Nam riêng một cõi này,</i>
<i>Anh hùng hiệp hữ xưa nay kém gì!</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Trước cảnh nước mất, nhà tan, cha con li biệt, nỗi đau đớn xót xa trong lịng họ càng tăng lên gấp
bội.


Nguyễn Phi Khanh khuyên con những điều tâm huyết. Trước hết, ơng nhắc nhở con về dịng giống
cao q của dân tộc Việt : Giống Hồng Lạc hoàng thiên đã định. Sau đó phân tích cho con hiểu về
quy luật của lịch sử là các triều đại phong kiến ắt phải trải qua các giai đoạn hưng thịnh và suy
vong nhưng gương anh hùng, hiệp nữ cứu nước thì xưa nay khơng hiếm và khơng kém gì những


gương sáng trong lịch sử phong kiến phương Bắc. Để bảo vệ đất nước, người phụ nữ còn làm
nghĩa hiệp, huống chi các bậc nam nhi?!


Nguyễn Phi Khanh lấy bốn chữ Giang sơn làm trọng để giải thích cho Nguyễn Trãi – người con
mà ông yêu quý và tin tưởng nhất. Trong hoàn cảnh và tâm trạng như thế, lời khuyên của người
cha có ý nghĩa như một lời trăng trối. Nó thiêng liêng, xúc động vô cùng, khiến người con phải
khắc cốt ghi xương.


Tác giả hóa thân vào Nguyễn Phi Khanh, người bị biệt xứ lưu đày, tâm tư trĩu nặng nỗi lo đời để
miêu tả tình hình bi thảm của đất nước và lên án tội ác trời không dung đất không tha của quân
xâm lược:


<i>Thân vận nước gặp khi biến đổi, </i>
<i>Để quân Minh thừa hội xâm lăng,</i>
<i>Bốn phương khói lửa bừng bừng,</i>
<i>Xiết bao thảm họa xương rừng máu sông!</i>


<i>Nơi đô thị thành tung quách vỡ,</i>
<i>Chốn nhân gian bỏ vợ lìa con, </i>


<i>Làm cho xiêu tán hao mịn,</i>
<i>Lạ gì khác giống dễ cịn thương đâu!</i>


Những câu thơ này xoáy mạnh vào nỗi nhục mất nước trong tâm can người đọc đương thời. Giặc
Pháp bây giờ nào có khác chi giặc Minh thuở ấy, cũng đang gây ra bao cảnh đau thương tang tóc
trên đất nước ta.


Xen giữa những dịng tâm tư đắng cay, chua xót là những lời cảm thán ngậm ngùi, bi thương:
<i>Thảm vong quốc kể sao xiết kể,</i>



<i>Trông cơ đồ nhường xé tâm can,</i>
<i>Ngậm ngùi đất khóc giời than,</i>
<i>Thương tâm nịi giống lầm than nỗi này!</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Ngậm ngùi đất khóc giời than, quả là “tình cảnh cảm sầu, kể sao cho xiết” đúng như nhận định của
nhà chí sĩ Phan Bội Châu.


Tâm sự đau đớn của Nguyễn Phi Khanh được thể hiện trong bài thơ là nỗi đau lớn lao, vượt lên số
phận cá nhân, trở thành nỗi đau non nước. Mỗi lời nhắn nhủ con là một tiếng than, tiếng nấc nghẹn
ngào, cay đắng. Giọng thơ bi phẫn vốn là sở trường của Trần Tuấn Khải rất phù hợp với việc diễn
tả tâm trạng khắc khoải, buồn thương của nhần vật Nguyễn Phi Khanh. Do đó bài thơ có sức lay
động lòng người, nhất là đối với những tâm hồn đồng điệu đương thời.


Trong những giây phút cuối cùng được sống bên con, Nguyễn Phi Khanh đã đặt ra cho Nguyễn
Trãi một câu hỏi lớn, cũng là nỗi niềm băn khoăn khơng lúc nào ngi trong lịng ơng:


<i>Khói Nùng Lĩnh như xây khối uất,</i>
<i>Sông Hồng Giang nhường vật cơn sầu,</i>


<i>Con ơi! Càng nói càng đau,</i>
<i>Lấy ai tế độ đàn sau đó mà?</i>


Tác già mượn hình ảnh khói núi Nùng, sóng sơng Nhị (sơng Hồng cịn gọi là Nhị Hà) biểu tượng
của kinh đô nước Đại Việt để thể hiện mức độ căm giận quân xâm lược của mình, cơ nghiệp lớn
lao vững chắc của ông cha, tổ tiên gây dựng tự bao đời, nay con cháu há lại để rơi vào tay giặc dữ?
Nói đến tình cảnh “lực bất tịng tâm” của Nguyễn Phi Khanh, ngòi bút tác giả như đẫm nước mắt:


<i>Cha xót phận tuổi già sức yếu,</i>
<i>Lỡ sa cơ đành chịu bó tay,</i>
<i>Thân lươn bao quản vũng lầy,</i>


<i>Giang sơn gánh vác sau này cậy con.</i>


<i>Con nên nhớ tổ tông khi trước,</i>
<i>Đã từng phen vì nước gian lao.</i>
<i>Bắc Nam bờ cõi phân mao,</i>
<i>Ngọn cờ độc lập máu đào còn đây…</i>


Tất cả những lời nói trên của Nguyễn Phi Khanh đều là lời gan ruột, tâm huyết trao lại cho con.
Gánh nặng sơn hà, xã tắc đã uỷ thác cho thế hệ sau với tất cả niềm tin tưởng và hi vọng. Lời
khuyên của cha kích thích, hun đúc chí nam nhi của con, động viên con hãy tỏ ra xứng đáng với sự
nghiệp oanh liệt của tổ tông đã bao phen vì nước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10></div>

<!--links-->

×