Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

Tải Phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ - Văn mẫu lớp 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.63 KB, 5 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn</b>
<b>Dữ</b>


<b>Bài tham khảo 1</b>


Tinh thần nhân đạo đã trở thành linh hồn của nhiều tác phẩm văn học. Nội dung ấy được thể hiện
dưới nhiều màu sắc, hình thức. Trong văn học trung đại, một trong những biểu hiện của tinh thần
nhân đạo là tấm lòng nhân ái đối với số phận mong manh, nhiều bất hạnh của người phụ nữ. Qua
tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ, nội dung đó được thể hiện qua
tấm lịng trân trọng của tác giả đối với những vẻ đẹp dung dị, cao cả của người phụ nữ cũng như
đồng cảm với những bất hạnh mà cuộc đời họ phải hứng chịu.


Người phụ nữ Việt Nam muôn đời nay được ngợi ca bởi vẻ đẹp dịu dàng, kín đáo và tâm hồn đôn
hậu bao dung. Người phụ nữ hiện lên trong “Chuyện người con gái Nam Xương” cũng vậy. Đó là
nàng Vũ Nương đẹp nết đẹp người và đầy tự trọng.


Nàng có một “tư dung tốt đẹp" nức tiếng xa gần. Chẳng vậy mà Trương Sinh - một người “con nhà
hào phú” phải xin mẹ trăm lạng vàng rước nàng về làm vợ. Chẳng những vậy, nàng còn là người
phụ nữ hiền hậu nết na, người vợ hiền, dâu thảo, người mẹ thương con.


Trong mối quan hệ vợ chồng hằng ngày, biết chồng “có tính đa nghi, đối với vợ phịng ngừa q
sức”. Vũ Nương đã “giữ gìn khn phép, khơng lần nào vợ chồng phải đến nỗi bất hoà”. Hai vợ
chồng chia li, Vũ Nương một lòng nghĩ đến sự an nguy của chồng “Chàng đi chuyến này, thiếp
chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo
được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi. [...] Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải
xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú! Dù có thư tín nghìn hàng,
cũng sợ khơng có cánh hồng bay bổng”. Như vậy là nàng không hề nghĩ đến vinh hoa phú quý, chỉ
nghĩ đến chân thành với tình vợ chồng keo sơn. Xa chồng, Vũ Nương thuỷ chung, tấm lịng ln
tha thiết hướng về chồng: “Ngày qua tháng lại, thoắt đã nửa năm, mỗi khi thấy bướm lượn đầy
vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời khơng thể nào ngăn được".



Trương Sinh trở về, nghi cho Vũ Nương một cái oan thảm khốc; dùng những lời lẽ tàn nhẫn mà
nhiếc móc nàng. Nhưng ngay cả khi ấy, Vũ Nương vẫn nói năng đúng mực, tha thiết bày tỏ nỗi
niềm và ước mong về cuộc sống gia đình hạnh phúc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

vẫn lưu truyền câu nói “mẹ chồng con dâu” để chỉ mối quan hệ vốn không yên ấm giữa hai đối
tượng này nhưng qua thái độ của người mẹ chồng đối với Vũ Nương người đọc thấu hiểu tấm lòng
chân thành, sâu sắc đối với mẹ chồng của nàng.


Với con, Vũ Nương đã hết sức nuôi dạy, bảo ban, thương yêu và chiều chuộng con (để đến nỗi
một trong những hành động vô tư của nàng đã trở thành nguyên nhân buộc nàng tự vẫn...).


Không chỉ vậy, với tư cách là một cá nhân trong xã hội, ở Vũ Nương còn nổi bật lên lòng tự trọng
đầy cảm động. Bị chồng hiểu lầm, bị hàm oan tức tưởi, dẫu vẫn còn khao khát hạnh phúc trần gian
nhưng Vũ Nương đã chọn cái chết để chứng minh phẩm tiết trong sạch của mình. Hành động này
cho thấy lịng tự trọng, ý thức giữ gìn danh dự, tiết hạnh ở người phụ nữ đáng trân trọng này.
Ngợi ca vẻ đẹp của “người con gái Nam Xương”, Nguyễn Dữ đã góp tiếng nói chung vào cảm
hứng ngợi ca người phụ nữ đầy nhân văn của văn học trung đại. Bên cạnh Vũ Nương của Nguyễn
Dữ ta cịn có thể kể đến chị em Thúy Kiều, Thúy Vân của Nguyễn Du, người chinh phụ trong thơ
của Đặng Trần Cơn và Đồn Thị Điểm,…


Nhưng trong xã hội phong kiến thời kì suy sụp, thối nát, cái đẹp thường đi liền với nỗi bất hạnh và
những tai họa khôn lường: “Chữ tài liền với chữ tai một vần”. Khi ấy, văn học lại cất lên tiếng nói
đồng cảm với những thân phận bị “gió dập sóng vùi” chẳng biết “tấp vào đâu”.


Nàng Vũ Nương của Nguyễn Dữ cũng phải hứng chịu nhiều bất hạnh


Trước hết, nàng có một cuộc hơn nhân khơng được lựa chọn. Với vẻ đẹp vốn có, đáng ra nàng
phải được kén một tấm chồng đức tài tương xứng. Nhưng đáng tiếc thay, cuộc đời lại chỉ dành cho
nàng một gã Trương Sinh. Đó là một kẻ vơ học nhưng giàu có “con nhà hào phú” “xin mẹ trăm
lạng vàng” lấy nàng về làm vợ. Người phụ nữ vẹn toàn này khơng có quyền lựa chọn cho mình


một người chồng tương xứng. Cuộc hôn nhân của nàng do vàng bạc mở đường, đó như một cuộc
trao đổi, mua bán đầy tính thương mại.


Về đến nhà chồng, Vũ Nương phải hết sức giữ gìn trước con người rất mực đa nghi của Trương
Sinh: “Đối với vợ phòng ngừa quá sức”. Nhưng hạnh phúc phải do cả hai bên vợ chồng cùng đắp
vun gìn giữ. Sau mấy năm dài đằng đẵng mong ngóng chồng về, cái giá Vũ Nương nhận được thật
quá chua xót.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Rồi hồ đồ, độc đốn khơng đếm xỉa đến những lời thanh minh của vợ, đối xử tệ bạc, vũ phu với
Vũ Nương: “Chỉ lấy chuyện bóng gió này nọ mà mắng nhiếc nàng, và đánh đuổi đi”.


Trước nỗi oan khơng gì giãi bày được (vì Trương Sinh khơng nói rõ ngun cớ việc nổi giận của
mình), cuộc đời Vũ Nương bế tắc: Nếu sống thì phải mang cái tiếng phản chồng đầy ô nhục. Bởi
vậy, dẫu vẫn còn khao khát vương vấn hạnh phúc trần gian, nàng đành chấp nhận cái chết, trầm
mình xuống sơng Hoàng Giang.


Thân phận nhỏ nhoi, bèo bọt của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến là vậy, họ không được làm
chủ cuộc sống của mình, ln ln là kẻ bị động, hứng chịu những oan khiên, cay đắng. Số phận
bất hạnh của Vũ Nương gợi đến bao phong ba bão táp đã đi qua cuộc đời của những Đạm Tiên,
Thúy Kiều, Tiểu Thanh, người cung nữ, người chinh phụ,... trong văn học trung đại.


Nhưng nếu chỉ dừng lại ở đó, tác phẩm của Nguyễn Dữ khơng tiến xa hơn câu chuyện dân gian là
mấy. Nguyễn Dữ đã vô cùng trăn trở với số phận của người con gái đa đoan trong tác phẩm của
mình. Tin tưởng và yêu mến nhân vật, nhà văn đã để nàng gửi mình chốn cung mây dưới nước của
Linh Phi. Chốn ấy dẫu chẳng được sum vầy cùng con trẻ, người thân song vẫn là nơi biết trọng
những tâm hồn trong đẹp. Vũ Nương trở về nhân gian trong ánh sáng lung linh kì ảo của ánh nến,
mặt nước diệu kì.


“Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ đã góp một tiếng nói nhân ái, nhân đạo để
đòi quyền được sống, được hưởng hạnh phúc của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến


suy tàn. Chính cảm hứng nhân đạo trong tác phẩm đã giúp “Chuyện người con gái Nam Xương”
của ông đi suốt những năm tháng lịch sử thăng trầm của dân tộc.


<b>Bài tham khảo 2</b>


Nguyễn Dữ là nhà văn lỗi lạc của đất nước ta trong thế kỷ XVI, vốn là học trị giỏi của Trạng Trình - Nguyễn
Bỉnh Khiêm. Ngồi thơ, ơng cịn để lại tập văn xi viết bằng chữ Hán, gồm có 20 truyện ghi chép những mẩu
chuyện hoang đường lưu truyền trong dân gian; cuối mỗi truyện thường có lời bình của tác giả. Đằng sau mỗi
câu chuyện thần kỳ, Truyền kì mạn lục chứa đựng nội dung phê phán những hiện thực xã hội đương thời được
nhìn dưới con mắt nhân đạo của tác giả.


Chuyện người con gái Nam Xương trích trong Truyền kì mạn lục ghi lại cuộc đời thảm thương của Vũ Nương,
quê ở Nam Xương thuộc tỉnh Nam Hà ngày nay.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

chỉ mong ngày đoàn tụ, chồng trở về “được hai chữ bình n”.


2. Cũng như số đơng người phụ nữ ngày xưa, cuộc đời của Vũ Nương là những trang buồn đầy
nước mắt. Năm tháng trôi qua, giặc tan, Trương Sinh trở về, con thơ vừa học nói. Tưởng rằng
hạnh phúc sẽ mỉm cười với đôi vợ chồng trẻ. Nhưng rồi chuyện “cái bóng” từ miệng đứa con thơ
đã làm cho Trương Sinh ngờ vực, “đinh ninh là vợ hư, mối nghi ngờ ngày càng sâu, khơng có gì
gỡ ra được”. Vốn tính hay ghen, lại gia trưởng, vũ phu, ít được học hành, Trương Sinh đã đối xử
với vợ hết sức tàn nhẫn. Giấu biệt lời con nói, Trương Sinh đã “mắng nhiếc nàng và đánh đuổi đi”.
Vợ phân trần, khơng tin; hàng xóm khun can cũng chẳng ăn thua gì cả! Chính chồng và con
-những người thân yêu nhất của Vũ Nương đã xô đẩy nàng đến bên bờ vực thẳm. Thời chiến tranh
loạn lạc, nàng đã trải qua những năm tháng cô đơn, giờ đây đứng trước nỗi oan, nàng chỉ biết nuốt
nước mắt vào lịng... Vũ Nương chỉ có một con đường để bảo tồn danh tiết: Nhảy xuống sơng
Hồng Giang tự tử để làm sáng ngời "ngọc Mị Nương”, toả hương “cỏ Ngu mĩ”.


Vũ Nương tuy không phải “làm mồi cho tôm cá, được các nàng tiên trong thủy cung của Linh Phi
cứu thoát”. Thế nhưng, hạnh phúc của nàng ở trần thế bị tan vỡ, "trâm gãy bình rơi”. Nàng tuy


được hầu hạ Linh Phi, nhưng quyền làm mẹ, làm vợ của nàng vĩnh viễn khơng cịn nữa. Đó là nỗi
đau đớn lớn nhất của một người phụ nữ. Gần ngàn năm đã trơi qua, miếu vợ chàng Trương vẫn
cịn đó, đêm ngày “nghi ngút đẩu ghềnh toả khói hương” (Lê Thánh Tông), nhưng lời nguyền về
cái chết của Vũ Nương vẫn cịn để lại nhiều ám ảnh, nỗi xót thương trong lòng người. Nguyễn Dữ
đã ghi lại câu chuyện cảm động thương tâm này với tất cả tấm lòng nhân đạo. Cái chết đau thương
của Vũ Nương cịn có giá trị tố cáo hiện thực sâu sắc. Nó lên án chiến tranh phong kiến đã làm cho
lứa đôi phải ly biệt, người vợ trẻ sống vất vả, cô đơn; lên án lễ giáo phong kiến khắt khe với tệ gia
trưởng độc đốn, gây nên bi kịch gia đình, làm tan vỡ hạnh phúc. Vì lẽ đó mà Chuyện người con
gái Nam Xương có giá trị nhân bản sâu sắc.


3. Phần hai của truyện đầy ắp những tình tiết hoang đường: Phan Lang nằm mộng rồi có người
đem biếu con rùa xanh; Phan Lang chạy giặc, bị chết đuối, được Linh Phi cứu sống đặng trả ơn;
Phan Lang gặp người làng là Vũ Nương trong bữa tiệc nơi cung nước; Vũ Nương gởi đôi hoa vàng
về cho chồng. Trương Sinh lập đàn trên bến Hoàng Giang, đợi gặp vợ, nhưng chỉ thấy bóng Vũ
Nương với năm mươi chiếc xe cờ tán, võng lọng rực rỡ đầy sông, lúc ẩn lúc hiện v. v…


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Nguyễn Dữ là một trong những cây bút mở đầu nền văn xuôi dân tộc viết bằng chữ Hán. Ông đã đi
tiếp con đường của thầy mình: Treo ấn từ quan, lui về q nhà “đóng cửa, viết sách”. Ơng là nhà
văn giàu tình thương u con người, trân trọng nền văn hồ dân tộc.


Truyền kì mạn lục là kiệt tác của nền văn học cổ Việt Nam, xứng đáng là “thiên cổ kỳ bút”. Người
đọc mãi mãi thương cảm Vũ Nương, thương cảm những người phụ nữ tài hoa bạc mệnh. Chuyện
người con gái Nam Xương tố cáo hiện thực xã hội phong kiến Việt Nam trong thế kỷ XVI, nêu bật
thân phận và hạnh phúc người phụ nữ trong bi kịch gia đình.


Gần 500 năm sau, Chuyện người con gái Nam Xương mà nỗi xót thương đối với số phận bi thảm
của người vợ, người mẹ như được nhân lên nhiều lần khi ta đọc bài thơ “Lại bài viếng Vũ Thị” của
vua Lê Thánh Tơng:


<i>“Nghi ngút đầu ghềnh toả khói hương,</i>


<i>Miếu ai như miếu vợ chàng Trương.</i>


<i>Bóng đèn dầu nhẫn đừng nghe trẻ,</i>
<i>Cung nước chi cho lụy đến nàng.</i>
<i>Chứng quả đã đôi vầng nhật nguyệt</i>


</div>

<!--links-->

×