Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

Tải Phân tích tác phẩm Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi - Tài liệu học tập môn Ngữ văn lớp 10

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (240.34 KB, 37 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

PHÂN TÍCH TÁC PHẨM BÌNH NGƠ ĐẠI CÁO



<i>Bình Ngơ đại cáo của Nguyễn Trãi là ánh văn bất hủ trong lịch sử dân tộc Việt Nam .</i>
<i>Đề yêu cầu phân tích tác phẩm để làm sáng tỏ nhận định là một “thiên cổ hùng văn”,</i>
<i>tức là yêu cầu một sự phân tích theo hướng, khơng phải là sự phân tích chung chung .Vì</i>
<i>vậy, cần làm rõ về hoàn cảnh sáng tác, bố cục, thể loại, chủ đề của tác phẩm khi phân</i>
<i>tích.</i>


1. Hồn cảnh sáng tác:


<i> Sau 10 năm kháng chiến gian khổ và quyết liệt, thang 1 năm 1428, nhân dân ta dưới</i>
<i>ngọn cờ của Lê Lợi, đã đánh đuổi giặc Minh ra khỏi đất nước.Sau chiến thắng ,Lê Lợi</i>
<i>tổ chức phong thưởng cho tướng lĩnh và chính thức lên ngơi hồng đế. Nguyễn Trãi</i>
<i>thay mặt nhà vua viết Bình Ngơ đại cáo (Đại cáo bình Ngơ) để tun bố cho tồn dân</i>
<i>biết rõ cơng cuộc cứu nước, trải qua nhiều nguy nan đã thắng lợi, từ đây dân tộc bước</i>
<i>vào một kỷ ngun mới, kỷ ngun hồ bình, thơng nhất.</i>


<i><b>2. Tựa đề:</b></i>


<i> Tác phẩm của Nguyễn Trãi có tên là Đại cáo binh Ngơ, nghĩa là tun cáo rộng rãi</i>
<i>về việc dẹp n giặc Ngơ. Tên Bình Ngô đại cáo là cách đảo lại tựa đề cho ngắn gọn,</i>
<i>chứ chưa hẳn là dịch. Chữ Ngô ở đây là cách gọi của người Việt xưa đối với thế lực</i>
<i>phong kiến phương bắc,với sắc thái coi khinh. Trong tác phẩm, qn Ngơ chính là giặc</i>
<i>Minh.</i>


<i><b>3. Thể loại:</b></i>


<i> - Bài văn được viết theo thể cáo, thể văn biền ngẫu, thường ra đời nhằm công bố sự</i>
<i>kiện trọng đại của quốc gia hoặc sau một cuộc kháng chiến lâu dài. Đây là văn kiện</i>
<i>chính luận , khơng phải lúc nào ngưòi ta cũng dùng.</i>



<i> - Kiểu câu trong văn biển ngẫu: Tứ tự, bát tự, song quan, cách cú, gối hạc.</i>


<i><b>4. Bố cục:</b></i>


<i> - Phần 1 (từ đầu đến chứng cớ còn ghi): nêu chính nghĩa của cuộc kháng chiến.</i>
<i> - Phần 2 (Vừa rồi … chịu được): Tố cáo tội ác của giặc Minh</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<i> + Tiểu đoạn 1 (Ta đây … lấy ít địch nhiều): Lược thuật những chiến thắng vang dội</i>
<i>của nghĩa quân Lam Sơn.</i>


<i> - Phần 4 (Xã tắc …Ai nấy đều hay): Tuyên bố kết thúc chiến tranh mở ra kỷ ngun</i>
<i>hồ bình , khẳng định địa vị,tư thế của đất nước.</i>


<i><b>5. Phân tích:</b></i>


<i><b>5.1. Nêu lập trường chính nghĩa của cuộc kháng chiến:</b></i>
<i> - Tư tưởng nhân nghĩa:</i>


<i> Việc nhân dân nghĩa cốt ở yên dân</i>
<i> Quân điếu phạt trước lo trừ bạo</i>
<i> Đập lại luận điệu của quân Minh</i>


<i> Cuộc chiến của ta vì dân -> nội dung khác , cụ thể hơn (liên hệ ) </i>
<i> Giải thích -> chiến đấu vì trừ bạo -> quân Minh , bọn tay sai.</i>


<i>=>Quan niệm nhân nghĩa ở Nguyễn Trãi khơng cịn là quan niệm đạo đức hạn hẹp mà</i>
<i>là một lý tưởng xã hội phải chăm lo cho dân được sống có hạnh phúc , yên bình .</i>


<i> - Từ cách độc lập của dân tộc.</i>



<i>+Biểu hiện: tên đất nước, nền văn hố riêng, bờ cõi, phong tục, nền chính trị, nhân tài.</i>
<i>=>Khái niệm khá hoàn chỉnh về quốc gia (so với các tác phẩm trước Nam quốc sơn hà,</i>
<i>Hịch tướng sĩ).</i>


<i> +Giọng văn : Sảng khoái , tự hào.</i>


<i> +Cách viết :câu văn biền ngẫu “Từ Triệu , Đình , Lý , Trần ... Cùng Hán, Đường ,</i>
<i>Tống , Nguyên ..” -> Bình đẳng , ngang hàng (đế).</i>


<i>=>Cuộc chiến đấu của ta là chính nghĩa.</i>


<i><b>5.2.Tố cáo tội ác của giặc Minh:</b></i>
<i> - Liệt kê hàng loạt:</i>


<i> Khủng bố (thui sống , chôn sống) ,bóc lột (thuế má: nặng thuế khố; phu phen: những</i>
<i>nỗi phu phen nay xây ma đập đất ...; dâng nạp: dịng lưng mị ngọc, đãi cát tìm vang,</i>
<i>bắt dị chim trả, bắt bẫy hươu đen...; diệt sản xuất: tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ;</i>
<i>diệt sự sống: Nheo nhóc thay kẻ gố bụa khốn cùng...</i>


<i> - Tội ác man rợ nhất của giặc Minh được miêu tả trong câu : </i>
<i> Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn</i>


<i> Vùi con đỏ xuống hầm tai vạ. </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<i> =>Lột tả tội ác tày trời của giặc, làm rõ sự bất nhân phi nghĩa của bọn chúng. Đó</i>
<i>cũng là lý do vì sao nhân dân ta phải kháng chiến.</i>


<i><b>5.3 Lược thuật cuộc kháng chiến:</b></i>
<i>5.3.1 Buổi đầu dựng cờ khởi nghĩa.</i>



<i> - Hình tượng trung tâm là anh hùng Lê Lợi (Ta đây ).</i>


<i> +Tập trung miêu tả về nội tâm: ngẫm, đau lịng nhức óc, nếm mật nằm gai, giận, suy</i>
<i>xét , đắn đo, trằn trọc, băn khoăn.</i>


<i>=>Chân dung tâm trạng Lê Lợi :lòng yêu nước, căm thù giặc, quyết tâm cao , nung nấu</i>
<i>nghiền ngẫm chí lớn, là người nhìn xa trơng rộng.</i>


<i> +Hình tượng Lê Lợi có sự gởi gắm tâm trạng của Nguyễn Trãi, của toàn dân -> chân</i>
<i>thực , xúc động.</i>


<i> - Khó khăn trong buổi đầu kháng chiến:</i>


<i> +Chênh lệch về lực lượng: ta yếu, địch mạnh.</i>
<i> +Thiếu thốn về vật chất .</i>


<i> +Hiếm nhân tài.</i>
<i> </i>


<i> - Vì sao vượt qua được?</i>


<i> +Ý chí, tấm lịng cầu hiền.</i>


<i> +Có chiến lược, chiến thuật đúng đắn, đánh bất ngờ, đánh nhanh.</i>
<i> +Dựa vào sức mạnh nhân dân .</i>


<i> +Lấy nhân nghĩa làm cơ sở.</i>
<i> - Giọng điệu: trầm lắng , suy tư.</i>


<i>5.3.2.Lược thuật chiến thắng: </i>



<i> - Diễn tả của trận đánh qua 3 bước </i>
<i> +Phản công :</i>


<i> Bô Đằng – Trà Lân -> bất ngờ ; câu văn ngắn , chắc , hình ảnh bất ngờ : Sấm</i>
<i>vang chớp giật ,Trúc chẻ tro bay. </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<i> +Tiến công :</i>


<i> Tây Kinh , Đông Đô -> nơi đầu lão của giặc .</i>


<i> Trận chiến ác liệt -> hình ảnh máu chẩy thành sông , thây chất đầy nội, giặc thất</i>
<i>bại thảm hại.</i>


<i> Mưu phạt tâm cơng dùng ngọn cờ chính nghĩa , dùng mưu trí và thu phục lịng</i>
<i>người .</i>


<i> +Đánh quân cầu viện:</i>


<i> Giặc tiến sang rầm rộ ( câu văn dài ) 2 mũi tiến cơng từ Khâu Ơn và Vân Nam .</i>
<i> Ta : đánh bất ngờ , dứt khoát :chặt , tuyệt. </i>


<i> Nhịp văn ngắt bất ngờ.</i>


<i> Liệt kê -> chiến thắng dồn dập.</i>
<i> Hình ảnh đối lập giữa ta và giặc .</i>


<i>=>Khắc hoạ sự thất bại thảm hại của kẻ thù và sức mạnh , khí thế của quân ta.</i>
<i> Giọng điệu : sảng khoái , hào hùng khi khắc hoạ tư thế của người chiến thắng.</i>
<i> - Thái độ nhân nghĩa u chuộng hồ bình :</i>



<i> Giọng văn chẫm rãi , khoan thai.</i>


<i> Tha chết cho kẻ thù , cấp ngựa và thuyền dẻ về nước.</i>
<i> Muốn nhân dân nghỉ sức.</i>


<i> Tính kế lâu dài.</i>


<i><b>5.4 Tuyên bố hồ bình: </b></i>


<i> - Giọng văn hả hê , vui mừng tin tưởng vào hồ bình lâu dài ( Giang sơn từ đây đổi</i>
<i>mới ... Ngàn thu vết nhục nhã sạch làu ).</i>


<i> - Một loạt các từ tả vũ trụ -> cảm hứng độc lập dân tộc được nâng lên gắn liền với</i>
<i>cảm hứng vũ trụ bao la vĩnh hằng .Mặt khác thể hiện ý thức về sự thiêng liêng tơn kính</i>
<i>lịch sử.</i>


<i><b>6. Chủ đề:</b></i>


<i> Bình Ngơ đại cáo là bản tổng kết về cuộc kháng chiến vĩ đại, nêu cao lòng tự hào,</i>
<i>niềm hân hoan vơ hạn trước thắng lợi của chính nghĩa, ca ngợi tài năng lãnh đạo cà khí</i>
<i>phách hào hùng của dân tộc.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<i> - Bình Ngơ đại cáo tràn ngập nguồn cảm hứng trữ tình và mang tính chất hào hùng</i>
<i>hiếm có nên được mãi mãi là thiên cổ hùng văn.</i>


<i> - Bài cáo thể hiện năng lực cấu trúc tác phẩm nghệ thuật đạt dến trình độ hồn</i>
<i>chỉnh năng lực duy hình tượng sắc sảo, biến hoá, hấp dẫn phù hợp với cảm hứng chủ</i>
<i>đạo của tác phẩm. </i>



<b>Phân tích Đại cáo bình ngơ mẫu 1</b>


Vua Lê Thánh Tơng đã từng đề cao: “Ức Trai tâm thượng quang Khuê Tảo”. Trong suốt
bao năm qua, Nguyễn Trãi được nhớ tới, đánh giá như một nhà văn, nhà thơ vĩ đại của
non sông Việt Nam, một nhà tư tưởng, một nhà chính trị đại tài của dân tộc Việt Nam
thế kỉ XV. Các tác phẩm là sự kết hợp hài hoà của tư tưởng chính nghĩa, lịng u nước
với lập luận sắc sảo, chặt chẽ, giọng văn hùng hồn, đầy tính thuyết phục với tư tưởng lấy
dân làm gốc. Một trong số tác phẩm của ông thể hiện rõ điều này là tác phẩm <i>Bình Ngơ</i>
<i>đại cáo.</i>


Tác phẩm ra đời khi Lê Lợi lên ngơi Hồng Đế đặt tên hiệu là Thuận Thiên (hợp lòng
trời) và cử Nguyễn Trãi soạn bài cáo để tuyên bố cho toàn dân biết cuộc kháng chiến
chống giặc Minh đã thắng lợi rực rỡ, đất nước ta chuyển sang một giai đoạn xây dựng
hồ bình. Bình Ngơ đại cáo là một luận văn chính trị tổng kết chặt chẽ, súc tích- về cuộc
khởi nghĩa Lam Sơn, dựa trên tư tưởng yêu nước thiết tha và sự nhận thức sâu sắc, mới
mẻ về nhân dân và dân tộc. Bao trùm bài cáo là niềm tự hào vô biên trước thắng lợi vĩ
đại của cuộc kháng chiến, của khí phách của dân tộc Việt Nam.


Ngay từ đầu, Nguyễn Trãi đã khẳng định sự đấu tranh này là vì lợi ích của nhân dân:
<i>Từng nghe: Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân.</i>


<i>Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

sâu sắc. Trong những cuộc kháng chiến thì nhân dân đóng vai trò quan trọng đối với sự
thắng bại của cuộc chiến đó. Nếu dân mạnh, lịng dân n thì ắt hẳn sẽ đánh bay hết sự
tàn bạo của quân thù.


Quan niệm nhân nghĩa ở Nguyễn Trãi khơng cịn là quan niệm đạo đức hạn hẹp mà là
một lý tưởng xã hội. Điều quan trọng hơn là ở đây, Nguyễn Trãi nâng lý tưởng, nỗi
niềm ấy lên thành một chân lí. Ơng khơng nói đến nhân nghĩa một cách chung chung mà


chỉ bằng một hai câu ngắn gọn tác giả đi vào khẳng định hạt nhân cơ bản, cốt lõi và có
giá trị nhất. Khơng những thế, nhân nghĩa cịn gắn liền với việc bảo vệ chủ quyền đất
nước, khẳng định chủ quyền quốc gia, tinh thần độc lập dân tộc:


<i>Như nước Đại Việt ta từ trước</i>
<i>Vốn xưng nền văn hiến đã lâu</i>
<i>Núi sông bờ cõi đã chia</i>


<i>Phong tục Bắc Nam cũng khác</i>


<i>Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập</i>


<i>Đến Hán, Đường, Tống Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.</i>
<i>Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,</i>


<i>Song hào kiệt đời nào cũng có.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

những kẻ nào, nước nào muốn thơn tính Đại Việt.


Để làm tăng sức thuyết phục lên gấp bội, Nguyễn Trãi đã sử dụng nhiều từ ngữ chỉ tính
chất hiển nhiên vốn có khi nêu rõ sự tồn tại của Đại Việt: “từ trước”, “đã lâu”,“đã chia”,
“cũng khác”. Nghệ thuật thành công nhất của đoạn một – cũng như là bài cáo – chính là
thể văn biền ngẫu được nhà thơ khai thác triệt để. Khẳng định nền độc lập và tư tưởng
của mình, ơng nêu ra các cuộc chiến trước đây với phương Bắc trong lịch sử mà chúng
đều thất bại:


<i>Vậy nên:</i>


<i>Lưu Cung tham công nên thất bại</i>
<i>Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong</i>


<i>Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đơ</i>
<i>Sơng Bạch Đằng giết tươi Ơ Mã</i>
<i>Việc xưa xem xét</i>


<i>Chứng cứ còn ghi.</i>


Ở đoạn thơ này, Nguyễn Trãi đã cho ta thấy những chiến công oanh liệt của dân tộc
trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, giữ gìn tự do của Tổ quốc. Cách nêu dẫn
chứng rõ ràng, cụ thể bằng những lời lẽ chắc chắn, hào hùng, thể hiện niềm tự hào, tự
tôn dân tộc. Nội dung được diễn đạt bằng những vế rất đăng đối. Tuy vậy nếu để ý ta
thấy tư thế cân bằng, tác giả dường như ngày càng muôn đặt nặng đồng cân hơn về phía
Đại Việt với từng chiến công oanh liệt của quân và dân ta: “Hàm Tử”, “Bạch
Đằng”,..thêm vào đó là sự xem thường, căm ghét đối với sự thất bại của những kẻ xâm
lược không biết tự lượng sức: “Lưu Cung... tham cơng”, “Triệu Tiết... thích lớn”, Toa
Đơ, Ơ Mã, tất cả chúng đều phải chết thảm. Đoạn thơ đã một lần nữa khẳng định rằng:
Đại Việt là một quốc gia có độc lập, tự chủ, có nhân tài, có tướng giỏi, chẳng thua kém
gì bất cứ một quốc gia nào. Tất cả những trang sử hào hùng, vẻ vang ấy, đều đã được sử
sách ta cẩn thận ghi lại, không thể chối cãi, và không ai có thể thay đổi.


Trong suốt tồn bài Đại cáo bình Ngơ, ngịi bút của Nguyễn Trãi dã tỏ rõ lịng ưu ái đối
với dân. Vì thương dân, ơng đã xót xa trước những thảm cảnh mà quân cuồng Minh
thừa cơ gây hoạ do bọn gian tà còn bán nước cầu vinh. Chúng đã:


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

<i>Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ</i>
<i>Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế</i>
<i>Gây thù kết oán trải mấy mươi năm</i>
<i>Bại nhân nghĩa nát cả đất trời.</i>
<i>Nặng thuế khố sạch khơng đầm núi.</i>


<i>Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng</i>


<i>luồng.</i>


<i>Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc.</i>
<i>Vét sản vật, bắt dò chim sả, chốn chốn lưới chăng.</i>


<i>Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.</i>
<i>Tàn hại cả giống cơn trùng cây cỏ,</i>


<i>Nheo nhóc thay kẻ gố bụa khốn cùng.</i>


<i>Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán,</i>
<i>Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa?</i>
<i>Nặng nề những nổi phu phen</i>


<i>Tan tác cả nghề canh cửi.</i>


<i>Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,</i>
<i>Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi!</i>
<i>Lẽ nào trời đất dung tha? Ai bảo thần dân chịu được?</i>


Lợi dụng việc chính trị rối ren, giặc Minh cấu kết với bọn Việt gian bán nước, điên
cuồng sang cướp nước ta, xâm phạm chủ quyền dân tộc, còn gây ra bao tội ác tày trời:


<i>Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn</i>
<i>Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

<i>Ta đây:</i>


<i>Núi Lam Sơn dấy nghĩa</i>
<i>Chốn hoang dã nương mình</i>


<i>Ngẫm thù lớn há đội trời chung</i>
<i>Căm giặc nước thề khơng cùng sống</i>


<i>Đau lịng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời</i>
<i>Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.</i>
<i>Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,</i>
<i>Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ.</i>
<i>Những trằn trọc trong cơn mộng mị,</i>


<i>Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi</i>
<i>Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,</i>
<i>Chính lúc quân thù đang mạnh.</i>


Tập trung miêu tả hình ảnh Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã khái qt tồn vẹn nưng phẩm chất
tiêu biểu nhất của con người yêu nước ở thế kỷ XV. Những đặc điểm của con người yêu
nước trong văn học thời kỳ này thường có đặc điểm sau: Xuất thân bình thường; Khởi
đầu gặp nhiều khó khăn nhưng ln có tinh thần vượt khó, kiên trì; Biết tập hợp, đồn
kết tồn dân; Biết sử dụng chiến lược, chiến thuật tài tình; Biết nêu cao ngọn cờ nhân
nghĩa trong mọi hoạt động. Có thể nói, Lê Lợi chính là hình ảnh tiêu biểu của những con
người yêu nước dám hy sinh quên mình đứng dậy chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập tự
do của dân tộc.


<i>Lại ngặt vì:</i>


<i>Tuấn kiệt như sao buổi sớm,</i>
<i>Nhân tài như lá mùa thu,</i>
<i>Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần,</i>
<i>Nơi duy ác hiếm người bàn bạc,</i>


<i>Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về Đông,</i>


<i>Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chắm cịn dành phía tả.</i>
<i>Thế mà:</i>


<i>Trơng người, người càng vắng bóng, mịt mù như nhìn chốn bể khơi.</i>
<i>Tự ta, ta phải dốc lòng, vội vã hơn cứu người chết đuối.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

<i>Trời thử lịng trao cho mệnh lớn</i>
<i>Ta gắng trí khắc phục gian nan.</i>


<i>Nhân dân bốn cỏi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới</i>
<i>Tướng sĩ một lòng phụ tử, hồ nước sơng chén rượu ngọt ngào.</i>
<i>Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh,</i>


<i>Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.</i>


Tinh thần và lòng quyết tâm đã dâng cao như núi nhưng buổi đầu của cuộc khởi nghĩa
thật là đầy khó khăn: qn giặc thì đang hùng mạnh, mà chúng ta mới có ít người, nhân
tài thiếu thốn như sao buổi sớm, như lá mùa thu. Có lúc bị bao vây, lương thực cạn kiệt,
quân sĩ chẳng con mấy người (khi Linh Sơn, lương hết mấy tuần – khi Khôi Huyện quân
không một đội)... Tuy vậy, nhờ bền gan vững chí khắc phục gian nan, nhờ sự chung
lưng đấu cật của tướng sĩ, nhờ sự đoàn kết của toàn dân và chiến lược, chiến thuật đứng
đắn..., chúng ta đã dần dần xây dựng được lực lượng vững mạnh dẫn tới chiến thắng.
Đoạn tiếp theo, Nguyễn Trãi tập trung lược thuật quá trình chiến thắng. Điều đáng lưu ý,
trên thực tế, từ khi dựng cờ khởi nghĩa đến khi toàn thắng, nghĩa quân Lam Sơn đã chiến
thắng nhiều trận. Nhưng ở đây, Nguyễn Trãi chỉ tập trung nói đến một số trận tiêu biểu
nhất của từng giai đoạn. Ở giai đoạn mở màn đánh lớn, tác giả nói đến hai trận chiến ác
liệt xảy ra tại Bồ Đằng và Trà Lân. Quân giặc hoàn toàn bị bất ngờ, thua chạy liểng
xiểng; quân ta chiến thắng nhanh chóng. Ở đây, Nguyễn Trãi có cách miêu tả rất ngắn
gọn nhưng vẫn làm nổi bật lên được cái cốt lõi của hai trận đánh là sự bất ngờ trong việc
dừng quân. Do đó, giặc thì hoảng sợ, hoang mang, quân ta thi càng đánh càng mạnh:



<i>Sĩ khí đã hăng</i>


<i>Quân Thanh càng mạnh</i>


<i>Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,</i>
<i>Lí An, Phương Chinh nín thở cầu thốt thân.</i>


Ở giai đoạn hai, qn ta mở chiến dịch Thanh Nghệ để tiến quân ra Bắc. Nguyễn Trãi
nói đến hai trận có ý nghĩa chiến lược và đã diễn ra vô cùng ác liệt là trận Ninh Kiều và
trận Tốt Động. Giặc thì huy động tổng lục sống chết cố thủ, ta thì quyết chiến quyết
thắng; do đó, trận chiến trở nên cực kì dữ dội. Bằng cách nói cường điệu, Nguyễn Trãi
đã khiến người đọc có ấn tượng sâu sắc về sự ác liệt của trận chiến, sự thất bại nhục nhã
của giặc Minh:


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

<i>Phúc âm quân giặc: Trần Hiệp đã phải bêu đầu.</i>
<i>Mọt gian kẻ thù: Lí Lượng củng đành bỏ mạng.</i>


Ở giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến, Nguyễn Trãi tập trung bút lực kể về chiến dịch
Chi Lăng – Xương Giang. Đây là bản hùng ca vang dội nhất của cuộc kháng chiến
trường kì.


<i>Đinh Mùi tháng chín, Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại,</i>
<i>Năm ấy tháng mười, Mộc Thạch chia đường từ Vân Nam tiến sang.</i>


<i>Nhưng ta đã có sự bố phịng chu đáo. Hai gọng kìm của giặc liên tiếp bị</i>
<i>bẻ gãy:</i>


<i>Ta trước điều bỉnh thủ hiểm, chặt mũi tên phong.</i>
<i>Sau lại sai tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực.</i>



Sau đó là những chiến thắng dồn dập. Hơi văn hăm hở như có nhịp thở của người viết,
mạch văn dồn đuổi như cố theo kịp bước hành quân thần tốc và những đòn đánh cấp tập
của nghĩa quân:


<i>Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế,</i>
<i>Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu.</i>
<i>Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong.</i>
<i>Ngày hai tám, Thượng thư Lí Khánh cùng kế tự vẫn.</i>


Tiếp đó, bài cáo chuyển sang tiếp cận cụ thể cảnh trận mạc. Câu vãn đúc lại, ngắn gọn,
đầy hình ảnh thâm xưng phóng đại nhằm cực tả sức mạnh vĩ đại, khí thế áp đảo của
quân ta:


<i>Sĩ tốt kén tay hùng hổ,</i>
<i>Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh,</i>
<i>Gươm mài đá, đá núi cũng mịn</i>
<i>Voi uống nước, nước sơng phải cạn,</i>
<i>Đánh một trận, sạch khơng kình ngạc</i>
<i>Đánh hai trận, tan tác chim mng</i>


Hình ảnh quân ta lúc này hiện lên với lực lượng đơng đảo, ý chí mạnh mẽ kiên cường,
tầm vóc lồng lộng nơi vũ trụ. Khi đánh giặc, càng đánh càng hăng, khí thế ngập đất trời
bởi trái tim ln tràn trề tình yêu nước. Bởi thế nên quân ta mới đánh bại quân giặc. Lúc
này, quân giặc hiện lên trong thật đáng thương, thảm hại:


<i>Cơn gió to trút sạch lá khô,</i>
<i>Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

<i>Thần vũ chẳng giết hại thể lòng trời ta mở đường hiến sinh,</i>



<i>Mã Kì, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền ra đến bể vẫn hồn</i>
<i>bay phách lạc.</i>


<i>Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa về đến nước mà vẫn</i>
<i>tim đập chân run.</i>


Những cái “danh” không thể giấu nổi sự hèn nhát và nhục nhã: Trần Trí, Sơn Thọ, Lí
An, Phương Chính, Vương Thơng, Mã Anh... Tất cả làm nên một khung cảnh chiến
trường tuy hỗn độn nhưng thế chủ động hồn tồn đã thuộc về phe chính nghĩa. Quân
giặc nhốn nháo, hãi hùng, mỗi tên mỗi vẻ vơ cùng thảm hại. Nhưng nhân dân ta vốn ưa
hồ bình, khơng thích cảnh binh đao:


<i>Họ đã tham sống sợ chết, mà hồ hiếu thực lịng</i>
<i>Ta lấy tồn qn là hơn, để nhân dân nghỉ sức.</i>


Quân giặc đã “tham sống sợ chết”, ta cũng chẳng cạn tình. Quan điểm “dĩ chí nhân nhi
dịch cường bạo” của Nguyễn Trãi chính được biểu hiện ở đây. Theo ơng, binh đao khói
lửa chỉ là chuyện bất đắc dĩ, vì làm hao tổn sinh mạng, ơng ln mưu phạt tâm cơng,
dùng áng văn chính luận có sức mạnh hơn 10 binh để tránh đổ máu mà thu phục được
lòng người. Với quân tướng bại trận của giặc, ông đã tha bổng và giúp cho về nước,
khơng giết hại: thể lịng trời, ta mở đường hiếu sinh để giữ vẹn hoà hiếu. Ta thấy
Nguyễn Trãi quả là một con người nhân nghĩa, với tấm lòng nhân hậu, bác ái và thanh
cao tuyệt vời!


 Thuyết minh Bình Ngơ đại cáo


Bài cáo kết thúc. Câu văn chuyển sang nhịp khoan thai, dàn trải, trang trọng. Giọng văn
hiền hoà tươi vui



<i>Xã tắc từ đây vững bền</i>
<i>Giang sơn từ đây đổi mới.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

thanh bình, ban chiếu duy tân khắp chốn”.


Bài cáo còn viết với nghệ thuật xuất sắc: lời văn biền ngẫu hùng tráng, hơi văn cuồn
cuộn như bão giơng, như sóng lớn, từ ngữ sắc bén như những nhát dao chém thẳng vào
quân xâm lược, phép đối kết hợp với cấu trúc câu của loại phú cận thể tạo nên tiết tấu
mạnh mẽ thể hiện được tất cả các cảm xúc hào sảng bừng bừng trong huyết quản của tác
giả ngay trong những ngày nghĩa quân Lam Sơn thắng trận giòn giã. Bài cáo đã ghi lại
một thời kì đau thương mà oanh liệt của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống quân
Minh với những chiến thuật hết sức đúng đắn và sáng tạo đã đem lại những trận đánh
long trời lở đất làm cho quân thù phải khiếp sợ, đẩy chúng đến sự thất bại tồn diện và
nhục nhã. Bình Ngơ đại cáo xứng đáng là “thiên cổ hùng văn”, là bản tuyên ngôn độc
lập thứ hai của nước nhà.


Tóm lại, tác phẩm Bình Ngơ đại cáo tràn ngập nguồn cảm hứng trữ tình và mang tính
chất hào hùng hiếm có. Chính vì vậy, đoạn trích có giá trị rất sâu sắc đối với nước ta,
khẳng định nhân dân ta có tinh thần nhân nghĩa và nền độc lập riêng của mình. Đoạn thơ
giúp ta hiểu rõ chủ quyền lãnh thổ, độc lập dân tộc cũng như lịch sử đấu tranh hào hùng
của cha ơng ta ngày trước, qua đó bồi dưỡng lịng u nước, tự hào tự tôn dân tộc, quyết
tâm xây dựng, bảo vệ và củng cố độc lập chủ quyền nước nhà.


<b>Phân tích Đại cáo bình ngơ mẫu 2</b>


Sau khi qn ta đại thắng, tiêu diệt và làm tan rã mười lăm vạn viện binh của giặc Minh,
tướng giặc Vương Thông buộc phải giảng hoà, chấp nhận rút quân về nước. Cuộc kháng
chiến thần thánh của nhân dân ta đã hoàn toàn thắng lợi, chấm dứt hai mươi năm thảm
khốc dưới ách đô hộ của giặc Minh, mở ra kỉ nguyên hồ bình lâu dài cho dân tộc.
Nguyễn Trãi thừa lệnh chủ sối Lê Lợi viết Đại cáo bình Ngơ. Đây là một bản tổng kết


về cuộc kháng chiến vĩ đại để báo cáo rộng rãi cho toàn dân được biết. Đại cáo bình
Ngơ được coi là “bản tun ngơn độc lập thứ hai" sau Thơ Thần của Lí Thường Kiệt,
xứng đáng là áng “thiên cổ hùng văn” trong lịch sử văn chương nước ta.


Với nghệ thuật chính luận chặt chẽ và cảm hứng trữ tình sâu sắc, tác giả đã tố cáo tội ác
tày trời của kẻ thù xâm lược, đồng thời ca ngợi sức mạnh thần kì của cuộc khởi nghĩa
Lam Sơn. Tồn bộ nội dung Đại cáo bình Ngô được triển khai trên cơ sở tư tưởng nhân
nghĩa và chân lí về chủ quyền độc lập của nước Đại Việt.


<b>Bố cục của bài Đại cáo bình Ngơ gồm 5 đoạn:</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

Đoạn 2: Từ "Vừa rồi... đến Ai bảo thần nhân chịu được?": Tố cáo và kết án tội ác tày
trời của giặc Minh.


Đoạn 3: Từ "Ta đây... đến Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều": Hình ảnh của vị lãnh
tụ nghĩa quân Lam Sơn và những khó khăn trong buổi đầu dấy nghiệp.


Đoạn 4: Từ Trọn hay... Cũng là chưa thấy xưa nay: Quá trình mười năm kháng chiến và
thắng lợi vẻ vang.


Đoạn 5: Phần còn lại: Khẳng định ý nghĩa to lớn của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và lời
tun bố hồ bình.


Có một chi tiết xưa nay ít ai để ý nhưng thật ra nó rất có ý nghĩa, đó là tại sao Nguyễn
Trãi lại gọi quân xâm lược nhà Minh là giặc Ngơ và viết Đại cáo bình Ngơ? Từ Ngơ
xuất hiện từ khi nhà Ngô đời Tam Quốc xâm chiếm và cai trị nước ta hết sức tàn ác. Sau
đó, từ Ngô nhập vào vốn ngôn ngữ dân gian của Đại Việt và trải qua hàng nghìn năm,
nó được dùng để chỉ quân giặc phương Bắc nói chung với thái độ khinh bỉ. Như vậy là
Nguyễn Trãi đã cố ý dùng cách gọi mà nhân dân quen gọi để bày tỏ thái độ căm phẫn và
coi thường của mình.



<b>Đoạn 1: Đạo lí nhân nghĩa của Nguyễn Trãi.</b>


Nguyễn Trãi mở đầu bài cáo bằng đạo lí nhân nghĩa được xây dựng trên nền tảng là tư
tưởng thân dân mà ông rất coi trọng:


<i>Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,</i>
<i>Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.</i>


Nhân nghĩa là mối quan hệ giữa con người với con người được xây dựng bằng tình
thương yêu và đạo lí. Điều đáng nói hơn nữa là Nguyễn Trãi đã đưa vào tư tưởng nhân
nghĩa một nội dung mới rút ra từ thực tiễn của lịch sử dân tộc. Theo ông, yên dân trước
hết là phải trừ bạo để cho dân được sống yên lành, hạnh phúc trong một đất nước độc
lập, hồ bình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

Nhân nghĩa khơng cịn hạn hẹp trong phạm vi đạo đức mà đã là một lí tưởng xã hội, một
đường lối chính trị lấy dân làm gốc (dân vi bản) làm chỗ dựa. Vì thế phải chăm lo cho
dân chúng được no ấm, bình yên.


Tư tưởng nhân nghĩa gắn liền với sự nghiệp chống xâm lược. Nhân nghĩa là chống xâm
lược, chống xâm lược là nhân nghĩa. Như vậy là Nguyễn Trãi đã bóc trần luận điệu nhân
nghĩa xảo trá của địch và phân định rạch rịi ta là chính nghĩa, giặc là phi nghĩa.


Dân tộc ta vùng lên chiến đấu chống xâm lược là phù hợp với đạo lí nhân nghĩa, cho nên
sự tồn tại có chủ quyền độc lập của quốc gia Đại Việt cũng là một chân lí khách quan.
Sau đó, Nguyễn Trãi viết tiếp bằng giọng văn hào hùng, thể hiện lịng tự hào, tự tơn về
đất nước có một nền văn hiến lâu đời:


<i>Như nước Đại Việt ta từ trước,</i>
<i>Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.</i>


<i>Núi sông bờ cõi đã chia,</i>


<i>Phong tục Bắc Nam cũng khác.</i>


<i>Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập,</i>


<i>Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương</i>
<i>Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,</i>


<i>So hào hào kiệt đời nào cũng có</i>


Đại Việt là một đất nước có cương vực, ranh giới rõ ràng (Tiệt nhiên định phận tại thiên
thư - Thơ Thần), từ lâu đời đã song song tồn tại cùng các quốc gia phương Bắc. Phong
tục tập quán cũng khác hẳn phương Bắc. Các triều đại vua Nam xưng đế, hùng cứ một
phương, chứ không phải là chư hầu. Truyền thống văn hiến có tự ngàn năm cùng với
hào kiệt đời nào cũng có đã khẳng định Đại Việt là quốc gia có chủ quyền độc lập, tự
do.


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

nhưng không viện đến quy định của trời mà nói đến truyền thống văn hiến, tức nói đến
nền văn hố của con người sống trên bờ cõi đó, có nghĩa là nói đến một dân tộc với đầy
đủ tư cách độc lập. Như vậy, chủ quyền của quốc gia Đại Việt là một chân lí tất nhiên,
khơng có bạo lực nào xâm phạm nổi. Tác giả đã chứng minh cho đạo lí nhân nghĩa bằng
chính những chứng cứ cịn ghi trong lịch sử:


<i>Vậy nên:</i>


<i>Lưu Cung tham cơng nên thất bại,</i>
<i>Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.</i>
<i>Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đơ,</i>
<i>Sơng Bạch Đằng giết tươi Ơ Mã.</i>


<i>Việc xưa xem xét,</i>


<i>Chứng cớ còn ghi.</i>


Sự thất bại thảm hại của Triệu Tiết, Toa Đơ, Ơ Mã Nhi được tác giả đưa ra để nhấn
mạnh ý: Những thế lực phi nghĩa ắt phải tiêu vong, đồng thời khẳng định chiến thắng
ln đứng về phía những người đấu tranh cho chính nghĩa. Cách lập luận của Nguyễn
Trãi trong đoạn này thật hùng hồn và sắc sảo.


<b>Đoạn 2: Tố cáo tội ác dã man của giặc Minh.</b>


Chỉ bằng hai mươi bốn câu, với những chi tiết cụ thể và nhận định khái quát, tác giả đã
vẽ ra thảm cảnh của dân tộc Đại Việt dưới ách đô hộ của giặc Minh. Cả đất nước chỗ
nào thịt da cũng như rướm máu, chỗ nào cũng vang lên tiếng thét căm giận, oán than.
Nguyễn Trãi đã viết nên một bản cáo trạng đanh thép kết tội bọn bán nước và quân cướp
nước.


Trước hết, tác giả vạch trần âm mưu xâm lược, sau đó lên án chủ trương cai trị thâm độc
và cuối cùng là tố cáo mạnh mẽ những hành động tội ác của giặc Minh:


<i>Vừa rồi:</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

Nguyễn Trãi vạch trần âm mưu cướp nước Đại Việt của giặc Minh đã có từ lầu, đồng
thời vạch trần luận điệu bịp bợm "phù Trần diệt Hồ”, để “mượn gió bẻ măng” của
chúng. Việc nhà Hồ cướp ngôi nhà Trần chỉ là một nguyên nhân, đúng hơn chỉ là một
cái cớ để giặc Minh thừa cơ gây hoạ. Những từ như nhân (nhân dịp), thừa cơ đã góp
phần phơi bày luận điệu giả nhân giả nghĩa của chúng. Điều đáng lưu ý là khi vạch rõ
âm mưu xâm lược của nhà Minh, Nguyễn Trãi đã đứng trên lập trường dân tộc, nhưng
khi tố cáo chủ trương cai trị thâm độc và tội ác của giặc thì Nguyễn Trãi đứng trên lập
trường nhân nghĩa:



<i>Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,</i>
<i>Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.</i>


Ông đã tố cáo tội ác của chúng bằng hai hình ảnh rất ấn tượng: nướng dân đen, vùi con
đỏ, vừa diễn tả một cách rất cụ thể tội ác man rợ kiểu trung cổ của lũ giặc, vừa mang
tính khái quát như khắc vào bia căm thù để muôn đời người dân nước Việt nguyền rủa
quân xâm lược bạo tàn.


Ở Đại cáo bình Ngơ, Nguyễn Trãi khơng đi sâu vào việc tố cáo chủ trương đồng hoá
thâm độc mà tố cáo những chủ trương cai trị phản nhân đạo của giặc Minh. Chúng
không chỉ vơ vét hết các sản vật q báu mà cịn bóc lột sức người, sức của bằng thuế
má, phu phen, dâng nạp cống vật và huỷ hoại cả môi trường sống, tàn sát dân chúng vô
tội không biết ghê tay. Người dân nước Nam sống trong tình cảnh bi đát đến cùng cực.
Cái chết đợi họ trên rừng, dưới biển, đúng như lời bài cáo đã nêu:


<i>Dối trời lừa dân đủ mn nghìn kế,</i>
<i>Gây binh kết oán trải hai mươi năm.</i>
<i>Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,</i>
<i>Nặng thuế khố sạch khơng đầm núi.</i>


<i>Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng.</i>
<i>Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc.</i>


<i>Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng,</i>
<i>Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.</i>
<i>Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

Đối lập với thảm cảnh của người dân vơ tội là hình ảnh kẻ thù xâm lược hung hãn, man
rợ: Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán. Câu văn đã khắc hoạ


bộ mặt quỷ sứ khát máu của quân xâm lược.


Để diễn tả tội ác chất chồng của giặc và khối căm hờn sôi sục của nhân dân ta, Nguyễn
Trãi đã kết thúc bản cáo trạng bằng hai câu văn mang ý nghĩa khái quát rất cao:


<i>Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,</i>
<i>Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.</i>


Tác giả đã lấy cái vô hạn (trúc Nam Sơn) để so sánh với cái vô hạn (tội ác của giặc),
dùng cái vô cùng (nước Đơng Hải) để nói cái vơ cùng (sự dơ bẩn của kẻ thù). Câu văn
đầy hình tượng ấy đã giúp chúng ta cảm nhận sâu sắc tội ác của giặc Minh xâm lược.
Dân tộc ta chỉ còn con đường duy nhất là đứng lên hành động:


<i>Lẽ nào trời đất dung tha,</i>
<i>Ai bảo thần nhân chịu được?</i>


Lời văn trong bản cáo trạng vừa hùng hồn, vừa thống thiết. Khi thì uất hận trào sơi, khi
thì cảm thương da diết; lúc muốn thét thật to, lúc nghẹn ngào, căm tức. Tất cả cùng một
lúc diễn tả những cung bậc khác nhau trong tâm tư tình cảm của Nguyễn Trãi. Đại cáo
bình Ngơ chứa đựng những nội dung thiết yếu của một bản "tun ngơn độc lập" bởi
chính những nội dung đã phân tích ở trên.


<b>Đoạn 3: Hình ảnh của vị lãnh tụ nghĩa quân Lam Sơn và những khó khăn trong buổi</b>
đầu dấy nghiệp.


Nguyễn Trãi đã phản ánh chân thực giai đoạn đầu của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn bằng
bút pháp tự sự kết hợp với trữ tình. Tác giả đã khắc hoạ thành cơng hình tượng Lê Lợi
trong buổi đầu dấy nghiệp đầy gian khổ:


<i>Ta đây:</i>



<i>Núi Lam Sơn dấy nghĩa,</i>
<i>Chốn hoang dã nương mình.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

<i>Ngẫm thù lớn há đội trời chung,</i>
<i>Căm giặc nước thề khơng cùng sống.</i>


<i>Đau lịng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời;</i>
<i>Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.</i>
<i>Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh;</i>
<i>Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kĩ.</i>
<i>Những trằn trọc trong cơn mộng mị,</i>


<i>Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi.</i>


Ngẫm thù lớn há đội trời chung, căm giặc nước thề không cùng sống là thái độ và chí
hướng của lãnh tụ. Đau lịng nhức óc, nếm mật nằm gai, qn ăn vì giận... là sự rèn
luyện, thử thách đối với bản thân, từ trái tim đến khối óc. Khơng phải một sớm một
chiều mà là suốt mười mấy năm trời. Bởi vì trong tâm trí lúc nào cũng canh cánh mối lo
toan cứu nước, cứu dân cho nên Lê Lợi luôn ở trọng tâm trạng: Chỉ băn khoăn một nỗi
đồ hồi. Qua hình tượng Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã nói lên được tính chất nhân dân của
cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.


Lúc đầu, so sánh tương quan lực lượng giữa hai bên thì ta yếu hơn giặc rất nhiều:
<i>Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,</i>


<i>Chính lúc quân thù đương mạnh.</i>


Buổi đầu của cuộc khởi nghĩa vô cùng gian nan, thiếu thốn. Lê Lợi và nghĩa qn đã
phải vượt qua mn ngàn khó khăn, gian khổ: Tuấn kiệt như sao buổi sớm, Nhân tài như


lá mùa thu. Thiếu quân, thiếu lương nhưng nhờ tấm lòng cứu nước, nhờ tướng sĩ một
lòng phụ tử mà cuộc khởi nghĩa đã vượt qua những khó khăn thử thách và ngày càng lớn
mạnh, đủ sức tổng phản công giành thắng lợi.


Vậy sức mạnh nào đã giúp nghĩa quân Lam Sơn vượt qua những khó khăn nói trên?
Trước hết, nghĩa quân có sức mạnh của tư tưởng nhân nghĩa, của ý thức dân tộc, của
mục đích chiến đấu là nhằm mưu cầu hạnh phúc cho nhân dân, bảo vệ nền độc lập và
truyền thống văn hiến lâu đời của quốc gia Đại Việt. Sau đó, yếu tố quan trọng quyết
định thắng lợi của cuộc khởi nghĩa là tài trí mưu lược, phẩm chất anh hùng của Lê Lợi.
Ông thể hiện rất rõ vai trò của một bậc minh chủ: căm thù giặc sâu sắc, tự tin, tự nguyện
đặt vận mệnh của quốc gia, dân tộc lên vai mình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

Nguyễn Trãi (1380-1942), hiệu là Ức Trai, là một nhà chính trị, qn sự tài ba và lỗi lạc,
ơng tham gia tích cực và đóng góp nhiều nhiều cơng lao to lớn trong cuộc kháng chiến
chống quân Minh của Lê Lợi với vai trò là một quân sư. Với những cơng trạng vĩ đại
của mình trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Nguyễn Trãi đã trở thành bậc
khai quốc công thần đời đầu của nhà Hậu Lê. Tuy nhiên, việc tham gia sâu rộng vào
chính trị và có nhiều đóng góp to lớn đã khiến ơng trở thành cái gai trong mắt của nhiều
thế lực đối lập, cuối cùng bản thân ơng và gia đình phải chịu án oan thảm khốc tru di
tam tộc (thảm án Lệ Chi viên), khiến người đời khơng khỏi đau xót, tiếc thương. Ngồi
là một nhà chính trị, qn sự tài ba, Nguyễn Trãi còn được biết đến là một nhà văn chính
luận kiệt xuất, với số lượng tác phẩm tuy ít nhưng bài nào cũng để lại tiếng vang đến
muôn đời có thể kể đến hai tác phẩm tiêu biểu là Qn trung từ mệnh tập và Bình ngơ
đại cáo. Ơng là một người chịu ảnh hưởng sâu sắc của nền Nho giáo thế nhưng theo như
lời của Trần Đình Hựu thì “Về hệ thống, tư tưởng nhân sinh của Nguyễn Trãi vẫn thuộc
Nho giáo nhưng là một Nho giáo khoáng đạt, rộng rãi, khơng câu nệ và vì vậy khơng chỉ
là gần gũi mà còn là phong phú hơn, cao hơn lối sống thuộc dân tộc trước đó”. Có thể
thấy, tư tưởng của Nguyễn Trãi gồm có ba điểm chính thứ nhất là tư tưởng nhân nghĩa,
thứ hai là tư tưởng phụng mệnh trời và cuối cùng là tư tưởng nhân dân, tiến bộ hẳn so
với các danh nhân, nghĩa sĩ cùng thời. Và hệ thống tư tưởng này ta có thể nhận thấy rõ


trong tác phẩm nổi tiếng nhất của ơng là Bình ngơ đại cáo, tác phẩm được xem là bản
tuyên ngôn độc lập thứ 2 của dân tộc sau Nam quốc sơn hà.


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

pháp luật của Đại Việt, có giá trị, ý nghĩa tương đương với văn kiện pháp luật của nhà
Minh, khẳng định nền độc lập của dân tộc.


Mở đầu bài cáo Nguyễn Trãi đã nêu ra các luận đề chính nghĩa với mục đích làm cơ sở,
căn cứ xác đáng để triển khai toàn bộ nội dung bài cáo.


<i>“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,</i>
<i>Quân điếu phạt trước lo trừ bạo;</i>
<i>Như nước Đại Việt ta từ trước,</i>
<i>Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,</i>
<i>Núi sông bờ cõi đã chia,</i>


<i>Phong tục Bắc Nam cũng khác;</i>


<i>Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập</i>


<i>Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương;</i>
<i>Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,</i>


<i>Song hào kiệt thời nào cũng có</i>
Cho nên:


<i>Lưu Cung tham cơng nên thất bại;</i>
<i>Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong;</i>
<i>Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đơ</i>
<i>Sơng Bạch Đằng giết tươi Ơ Mã</i>
<i>Việc xưa xem xét, chứng cứ còn ghi”</i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

Triệu, Đinh, Lý, Trần những triều đại đã bao lần gây nền độc lập. Truyền thống lịch sử
riêng này còn được cụ thể hóa trong những câu thơ “Tuy mạnh yếu có lúc khác
nhau/Song hào kiệt thời nào cũng có”, khẳng định đời nào, triều đại nào chúng ta cũng
có những anh hùng vang danh sử sách, lập nên những chiến công vĩ đại để bảo vệ nền
độc lập dân tộc của chúng ta, khiến kẻ thù biết bao phen thất bại, khốn đốn. Vậy nên
mới có những chuyện như “Lưu Cung tham cơng nên thất bại; Triệu Tiết thích lớn phải
tiêu vong; Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô; Sông Bạch Đằng giết tươi Ơ Mã”, đó đã là
những chứng cứ, những sự thực minh bạch không thể chối cãi, in hằn trong từng trang
sử sách của nước Đại Việt ta bao đời nay. Và cuối cùng kết lại những yếu tố trên là lời
khẳng định chủ quyền độc lập riêng của dân tộc trong ý thơ “mỗi bên xưng đế một
phương” thể hiện phong thái tự tin, mạnh mẽ, ý thức tự cường dân tộc của Nguyễn Trãi
trong việc khẳng định nền độc lập, bờ cõi của đất nước. Rằng vua nước Nam chỉ xưng
“đế”, chứ không xưng “vương” theo cái kiểu mạt sát, khinh thường của nước phương
Bắc, xem chúng ta là nước chư hầu, phụ thuộc vào “thiên triều” của chúng. Mà ta có thể
thấy rõ ở bài cáo này Nguyễn Trãi đã hoàn toàn phủ nhận cái quan điểm ngạo mạn ấy,
khẳng định sự tách biệt giữa hai quốc gia dân tộc trên tất cả các lĩnh vực bao gồm địa lý,
lịch sử, văn hóa, phong tục tập quán, chủ quyền lãnh thổ tạo nên một hệ thống lý luận,
căn cứ vững chắc để triển khai tiếp các luận đề phía sau. Có thể nói rằng Nguyễn Trãi đã
rất tinh tế khi xây dựng một khái niệm về quốc gia dân tộc dựa trên 5 yếu tố trên, đây là
một bước tiến rất lớn, hoàn thiện định nghĩa về tổ quốc so với bản tuyên ngôn độc lập
lần thứ nhất chỉ bao gồm 2 yếu tố lãnh thổ và chủ quyền riêng, thể hiện tài năng lý luận
và tầm tư duy của một nhân tài kiệt xuất đi trước thời đại. Thêm vào đó ngồi nội dung
chính của luận đề, sự thuyết phục của quan điểm trên còn nằm ở cái cách mà tác giả
Nguyễn Trãi sử dụng các từ ngữ như: từ trước, đã lâu, đã chia, cũng khác. Mà tất cả
những từ ngữ này lại thuộc cùng một trường khẳng định sự hiển nhiên, vốn có, lâu đời
của chân lý mà tác giả đã nêu ra.


Sau khi nêu ra hai luận đề chính nghĩa, Nguyễn Trãi đã tiến hành nêu ra các tội ác của
giặc Minh đã gây ra đối với nhân dân ta. Tác giả đã đứng trên hai lập trường là lập


trường của dân tộc và lập trường nhân nghĩa nhân bản để tố cáo tội ác của kẻ thù. Trước
hết là trên lập trường dân tộc, ông đã tố cáo, nhận diện rõ ràng âm mưu cướp nước của
giặc Minh thông qua mấy câu thơ sau:


<i>“Vừa rồi:</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

Dùng các từ ngữ “nhân”, “thừa cơ” để vạch trần luận điệu bịp bợm của nhà Minh kéo
quân sang nước ta với danh nghĩa “phù Trần diệt Hồ”, nhưng thực tế là thừa dịp xâm
lược Đại Việt. Vịn vào việc Hồ Quý Ly lên ngơi khơng danh chính ngơn thuận, khơng
được lịng dân để lấy được sự ủng hộ của nhân dân Đại Việt nhằm thực hiện mưu hèn kế
bẩn mà chúng đã ấp ủ bấy lâu nay.


</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

Tiếp tục soi chân lý vào thực tiễn, Nguyễn Trãi đã nói về tính chất chính nghĩa của cuộc
khởi nghĩa Lam Sơn, kể lại quá trình chinh phạt gian khổ và niềm tin tất thắng của cuộc
khởi nghĩa. Trong giai đoạn đầu, “vạn sự khởi đầu nan” cuộc khởi nghĩa của chủ tướng
Lê Lợi gặp rất nhiều khó khăn, đầu tiên Nguyễn Trãi đã tái hiện lại sự tương quan giữa
ta và địch. Về phía địch, khi cờ khởi nghĩa của ta vừa dấy lên, thì cũng chính là lúc
“qn thù đang mạnh”, giặc Minh được thế giở thói “hung đồ ngang dọc” thả sức tác oai
tác quái, phô trương thanh thế đàn áp nhân dân. Trái lại về phía ta thì lại gặp vơ vàn khó
khăn trắc trở “tuấn kiệt như sao buổi sớm, nhân tài như lá màu thu”, vốn đã thiếu người,
thiếu lực lượng và thiếu nhất là những người tài chịu đứng ra giúp nước phò tá Lê Lợi,
trong việc bôn tẩu, bàn bạc kế sách chống quân thù. “Trơng người người càng vắng
bóng, mịt mù như chốn bể khơi” người thiếu, lực mỏng và con đường khởi nghĩa cũng
còn quá mơ hồ, bởi so với địch thực sự thế lực của ta chẳng thể chống đỡ được quá lâu.
Một nỗi lo khác nữa ấy là ngoài thiếu nhân lực ta cịn thiếu cả vật lực “Vận nước khó
khăn/Linh Sơn lương hết mấy tuần/Khôi huyện quân không một đội”, thiếu thốn lương
thực, vũ khí, khơng có nguồn tiếp tế khiến nghĩa quân nhiều lần lao đao, khốn khó trong
việc duy trì tinh thần qn lính. Có thể thấy rõ rằng, tương quan lực lượng giữa ta và
địch là hoàn toàn chênh lệch với cái thế yếu thuộc về nghĩa quân Lam Sơn. Và để vượt
qua tất cả những khó khăn trên, lật ngược ván cờ làm nên chiến thắng lừng lẫy trước kẻ


thù phải kể đến yếu tố tiên quyết đó là sự lãnh đạo xuất sắc của vị lãnh tụ đứng đầu
nghĩa quân - Lê Lợi. Ở Lê Lợi hội tụ đầy đủ những yếu tố của một nhà lãnh tụ vĩ đại: Có
lịng căm thù giặc sâu sắc, quyết tâm cao độ trong việc thực hiện lý tưởng cao đẹp khôi
phục giang sơn, nền độc lập của dân tộc “Đau lịng nhức óc, chốc đà mười mấy năm
trời...Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi”. Ông cũng là người rất biết coi trọng nhân tài “Cỗ
xe cầu hiền thường chăm chăm cịn dành phía tả”, biết coi trọng vai trò của nhân dân,
biết tập hợp sức mạnh của nhân dân vốn là yếu tố tiên quyết để quyết định chiến thắng
của khởi nghĩa. Thêm vào đó ở Lê Lợi cịn có khả năng thu phục lịng người tạo nên
khối đại đoàn kết vững mạnh trong toàn quân, quân sĩ trên dưới một lòng chống giặc
“Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới/Tướng sĩ một lịng phụ tử,
hồ nước sơng chén rượu ngọt ngào”. Cuối cùng một yếu tố không thể thiếu ở người
lãnh đạo ấy là sự tài trí mưu lược, giỏi bày binh bố trận của Lê Lợi “Thế trận xuất kỳ,
lấy yếu chống mạnh/Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

Bồ Đằng sấm vang chớp giật/Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay/Sĩ khí đã hăng/Qn thanh
càng mạnh”, cịn lũ địch nhát gan chỉ được nước “Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất
vía/Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân”. Quân ta liên tiếp giành lại những
thành trì, vùng đất đã rơi vào tay giặc như Tây Kinh, Đông Đô, Tốt Động, Ninh Kiều,
khiến quân giặc nghe hơi mà mất vía, trái lại về phía địch thì tồn nhận lại những trận
thảm bại, “máu chảy thành sơng”, “thây chất đầy nội”, tướng lĩnh kẻ bêu đầu, đứa tử
trận, Vương Thông, Mã Anh dù cố cứu nguy nhưng kết quả cũng đành “Bó tay để đợi
bại vong, giặc đã trí cùng lực kiệt”. Cuối cùng cái mà kẻ mưu đồ cướp nước nhận lại là
là nỗi nhục đến muôn ngàn sau “Tham công danh một lúc, để cười cho tất cả thế gian”.
Tổng kết lại, kẻ thù hiện lên với bộ dáng hết sức thảm bại, nhục nhã, còn quân dân ta là
sự vẻ vang rong chiến thắng sáng ngời tư tưởng nhân nghĩa “Tham công danh một lúc,
để cười cho tất cả thế gian”, “Chẳng đánh mà người chịu khuất, ta đây mưu phạt tâm
công”, làm nên chiến thắng vô cùng đáng trân trọng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

địch thì được diễn tả bằng những câu văn dài thể hiện tính chất khơn cùng, khơng sao kể
hết được.



Cuối cùng Nguyễn Trãi chuyển sang tuyên bố chiến quả, khẳng định sự nghiệp chính
nghĩa của nghĩa quân Lam Sơn. “Xã tắc từ đây vững bền/Giang sơn từ đây đổi mới”,
tuyên bố chiến thắng, mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập cho dân tộc, xây
dựng nhà nước Đại Việt tự chủ và thịnh vượng dưới triều vua mới. Sau là rút ra những
bài học lịch sử sâu sắc, từ quy luật của trời đất và tự nhiên, “Càn khôn bĩ rồi lại
thái/Nhật nguyệt hối rồi lại minh” thể hiện sự tin tưởng vào vận mệnh mới của dân tộc,
sau khi đã trải qua cơn bĩ cực của lịch sử. Thứ hai là chiến thắng của chúng ta được tạo
nên nhờ sự kết hợp của sức mạnh thời đại “Một cỗ nhung y chiến thắng/Nên công oanh
liệt ngàn năm”, và yếu tố thứ hai chính là sức mạnh của truyền thống “Âu cũng nhờ trời
đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm phù trợ”.


Bình Ngơ đại cáo đã tố cáo tội ác của kẻ thù xâm lược, ca ngợi cuộc khởi nghĩa Lam
Sơn, tác phẩm được coi là bản tuyên ngôn độc lập, tuyên bố về nên độc lập của dân tộc
là áng thiên cổ hùng văn còn mãi giá trị nghìn đời sau của đất nước ta. Về nghệ thuật, đó
là sự kết hợp hài hịa giữa yếu tố chính luận, thể hiện ở kết cấu lý luận chặt chẽ, lập luận
sắc bén, lời văn đanh thép, hùng hồn, và chất văn chương nghệ thuật thể hiện ở lời văn
rất giàu cảm xúc, câu văn giàu hình tượng.


<b>Phân tích Đại cáo bình ngơ mẫu 4</b>


Nếu bài thơ "Nam quốc sơn hà" có giá trị như một bản tun ngơn độc lập đầu tiên của
dân tộc thì "Bình Ngơ đại cáo" của Nguyễn Trãi được coi là "áng thiên cổ hùng văn", là
bản tuyên ngôn độc lập chủ quyền thứ hai của đất nước ta. Đây là tác phẩm mang những
đặc điểm cơ bản của thể loại cáo nói chung, bên cạnh đó cũng mang những đặc điểm
sáng tạo riêng của tác giả.


</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

giả; nội dung chính của phần hai là những tội ác không thể dung tha của giặc Minh; ở
phần ba, tác giả đã kể lại công cuộc chiến đấu và sự chiến thắng của quân ta và phần
bốn là lời tuyên bố chiến thắng, lời khẳng định chủ quyền, vị thế của dân tộc.



Quân xâm lược nước ta là quân Minh nhưng nhan đề bài cáo lại là "Bình Ngơ đại cáo"
đã thể hiện ý đồ và dụng ý nghệ thuật của tác giả. "Ngô" là từ chỉ Chu Nguyên Chương
lúc đầu xưng là Ngô Quốc Công, dấy binh ở Giang Tô, đồng thời cũng chỉ nhà Ngô thời
Tam Quốc, triều đại phương Bắc sang xâm lược nước ta. Nhân dân ta gọi chúng là giặc
Ngô với thái độ khinh ghét, căm thù. Nhan đề "Bình Ngơ đại cáo" mang ý nghĩa tun
bố về việc dẹp yên giặc Ngô và tâm thế chiến thắng của toàn dân tộc ta trước kẻ thù tàn
ác.


Bài cáo được mở đầu bằng một tư tưởng nhân nghĩa có ảnh hưởng sâu sắc từ Nho giáo:
<i>"Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,</i>


<i>Quân điếu phạt trước lo trừ bạo".</i>


"Nhân nghĩa" là tư tưởng, hành động vì con người, đấu tranh cho lẽ phải để bảo vệ cho
đời sống của con người. Đời sống nhân dân no ấm, hạnh phúc thì đất nước mới có thể
phát triển bền vững được. Vì vậy, những người đứng đầu đất nước phải lo việc "yên
dân", "trừ bạo", dẹp yên được bọn xâm lược và cả bè lũ tay sai của chúng ở trong nước
để bảo vệ cuộc sống của nhân dân. Tư tưởng nhân nghĩa được Nguyễn Trãi nhắc đến là
tư tưởng vì nhân dân mà diệt trừ cái ác đang ngự trị, chiến đấu quyết liệt để bảo vệ bỡ
cõi lãnh thổ, bởi:


<i>"Như nước Đại Việt ta từ trước</i>
<i>Vốn xưng nền văn hiến đã lâu</i>
<i>Núi sông bờ cõi đã chia</i>


<i>Phong tục Bắc Nam cũng khác</i>


<i>Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập</i>



<i>Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương</i>
<i>Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau</i>


<i>Song hào kiệt thời nào cũng có".</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(28)</span><div class='page_container' data-page=28>

nhiên khơng thể chối cãi. Điều đó khiến chúng ta tự hào về chính dân tộc của mình
-một đất nước được dựng xây bởi những con người hiền lành, cần cù, chất phác, có lòng
yêu nước sâu sắc. Tuy rằng, các triều đại lịch sử có lúc mạnh, lúc yếu nhưng các anh
hùng hào kiệt, các anh hùng phò vua giúp nước thời nào cũng có. Nhờ có họ mà quân
xâm lược phải chuốc lấy bao thất bại nặng nề:


<i>"Lưu Cung tham công nên thất bại,</i>
<i>Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong,</i>
<i>Cửa Hàm tử bắt sống Toa Đơ</i>
<i>Sơng Bạch Đằng giết tươi Ơ Mã</i>
<i>Việc xưa xem xét,</i>


<i>Chứng cớ còn ghi".</i>


Các tướng của phương Bắc đều bị anh hùng hào kiệt nước ta "giết tươi", "bắt sống" và
nhận lấy kết cục bi thảm. Những cuộc chiến ấy đã được ghi vào sử sách để làm chứng
cớ đến mn đời sau. Qn xâm lược "thích lớn", "tham cơng", muốn thâu tóm nước ta
nhanh gọn nên bị "tiêu vong" cũng là điều tất yếu. Sức mạnh của quân và dân ta đã tiêu
diệt được bọn xâm lược gian tà, hung ác. Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi được
bộc lộ bằng giọng điệu hào hùng, các vế đối hài hịa đã thể hiện niềm tự tơn dân tộc,
niềm tin vào sức mạnh của dân tộc nhỏ bé nhưng vô cùng kiên cường.


Những tội ác của giặc Minh đã được tác giả nêu lên thành một bản cáo trạng với những
dẫn chứng xác thực, hùng hồn. Giặc Minh đã lợi dụng tình thế nhà Hồ lúc bấy giờ để
"thừa nước đục thả câu", thực hiện âm mưu xảo quyệt của mình:



<i>"Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,</i>
<i>Để trong nước lịng dân ốn hận.</i>
<i>Qn cuồng Minh thừa cơ gây hoạ,</i>
<i>Bọn gian tà bán nước cầu vinh".</i>


Triều chính nhà Hồ rối ren, lục đục, vua quan không chăm lo đến đời sống của nhân dân
khiến "lịng dân ốn hận". Lợi dụng điều đó, quân Minh tràn vào xâm lược nước ta, bọn
gian tà trong nước thì mưu đồ bán nước để cầu vinh hoa phú quý mà hèn nhát không
đứng lên chống giặc.


Quân Minh đã bắt nhân dân ta phải sống trong cảnh lầm than, cơ cực với những hiểm
nguy ln đe dọa đến sự sống cịn:


</div>
<span class='text_page_counter'>(29)</span><div class='page_container' data-page=29>

<i>Gây binh kết oán trải hai mươi năm.</i>
<i>Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,</i>
<i>Nặng thuế khố sạch khơng đầm núi.</i>


<i>Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.</i>
<i>Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu, nước độc.</i>


<i>Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng,</i>
<i>Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.</i>
<i>Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,</i>


<i>Nheo nhóc thay kẻ gố bụa khốn cùng.</i>


<i>Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán</i>
<i>Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa.</i>
<i>Nặng nề những núi phu phen,</i>



<i>Tan tác cả nghề canh cửi".</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(30)</span><div class='page_container' data-page=30>

Trước sự xâm chiếm của kẻ địch, vị anh hùng Lê Lợi đã "dấy nghĩa", lãnh đạo cuộc
khởi nghĩa Lam Sơn:


<i>"Ngẫm thù lớn há đội trời chung</i>
<i>Căm giặc nước thề không cùng sống".</i>


Không thể chung sống dưới một bầu trời cũng kẻ thù, Lê Lợi đã phất cờ khởi nghĩa
chiến dấu vì đất nước, vì sự no ấm của nhân dân. Nhưng lúc "cờ nghĩa dấy lên" lại đúng
lúc "quân thù đang mạnh". Hơn nữa:


<i>"Tuấn kiệt như sao buổi sớm,</i>
<i>Nhân tài như lá mùa thu,</i>
<i>Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần,</i>
<i>Nơi duy ác hiếm người bàn bạc".</i>


Buổi đầu dấy nghĩa, người anh hùng Lê Lợi gặp khơng ít khó khăn khi kẻ thù đang
trong lúc mạnh, tuấn kiệt, nhân tài khơng có nhiều, sách lược chiến đấu thiếu người bàn
bạc, đỡ đần. Số lượng nhân tài, binh lính thì ít người, lương thực cũng cạn kiệt. Khó
khăn chồng chất khó khăn nhưng vị chủ tướng vẫn "gắng chí khắc phục gian nan", chỉ
cần sự đồng tâm, đồng lịng của nhân dân bốn cõi thì cuộc khởi nghĩa nhất định sẽ giành
thắng lợi. Khơng có cờ, nhân dân ta lấy cần trúc làm cờ, khơng có nhiều rượu để khao
quân, Lê Lợi đã đổ rượu xuống sơng để các tướng sĩ chung sức đồng lịng uống cùng
nhau "chén rượu ngọt ngào".


Lê Lợi không những tập hợp, đồn kết được tồn dân ta mà cịn biết sử dụng chiến lược
để chiến đấu với kẻ thù, "lấy yếu chống mạnh", "lấy ít địch nhiều". Nhưng điều quan
trọng hơn cả là Lê Lợi luôn giương cao tư tưởng nhân nghĩa:



<i>"Đem nhân nghĩa để thắng hung tàn</i>
<i>Lấy chí nhân để thay cường bạo".</i>


Nhờ vào ý chí quật cường, khắc phục mọi khó khăn và tinh thần chiến đấu quyết liệt mà
nghĩa quân đã giành được những chiến thằng vang dội:


<i>"Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,</i>
<i>Lấy chí nhân để thay cường bạo.</i>
<i>Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,</i>
<i>Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay.</i>
<i>Sĩ khí đã hăng</i>


<i>Quân thanh càng mạnh.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(31)</span><div class='page_container' data-page=31>

<i>Thừa thắng đuổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,</i>
<i>Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.</i>
<i>Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm</i>
<i>Tuỵ Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.</i>
<i>Phúc tâm quân giặc Trần Hiệp đã phải bêu đầu</i>
<i>Mọt gian kẻ thù Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.</i>


<i>Vương Thông gỡ thế nguy, mà đám lửa cháy lại càng cháy</i>
<i>Mã Anh cứu trận đánh mà quân ta hăng lại càng hăng".</i>


Quân ta chiến đấu với sức mạnh và khí thế quyết liệt khiến quân giặc tan tác dễ dàng,
nhanh chóng như chẻ tre, tro bay. Bốn viên tướng Trần Trí, Sơn Thọ, Lí An, Phương
Chính của nhà Minh thấy vậy mà "mất vía", "nín thở cầu thốt thân", các tướng khác thì
bỏ mạng, đầu hàng. Các trận đánh ở Chi Lăng, Mã An, Cần Trạm,...đã khiến các tướng
quân Minh phải tự vẫn, tử vong, "trói tay xin hàng", "xéo lên nhau chạy để thoát thân".


Tinh thần chiến đấu của nghĩa quân được Nguyễn Trãi khắc họa qua hai câu văn:


<i>"Đánh một trận, sạch khơng kình ngạc,</i>
<i>Đánh hai trận tan tác chim mng".</i>


Sức mạnh ấy đã khiến "Thượng thư Hồng Phúc trói tay để tự xin hàng", đơ đốc Thơi
Tụ thì "dâng tờ tạ tội". Sự chiến thắng của quân ta đã làm "sắc phong vân phải đổi",
"ánh nhật nguyệt phải mờ", thây của quân giặc "chất đầy đường", máu của quân giặc thì
"trơi đỏ nước". Qn ta đã có được chiến thắng đáng nể phục và oai hùng biết nhường
nào. Từ một người bình thường xuất thân ở "chốn hoang dã", người anh hùng áo vải Lê
Lợi đã trở thành một vị chủ tướng tài giỏi với các chiến lược dùng binh đánh giặc. Đặc
biệt, vị chủ tướng ấy còn khiến chúng ta khâm phục bởi ý chí sắt đá, khắc phục mọi khó
khăn và hành động nhân nghĩa của ơng khi cấp cho Mã Kì, Phương Chính năm trăm
chiếc thuyền ra bể, phát cho Vương Thơng, Mã Anh vài nghìn cỗ ngựa để về nước mà
bọn chúng vẫn "hồn bay phách lạc", "tim đập chân run". Chúng không thể tin được rằng
người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa nước ta lại mở cho chúng một con đường sống, một con
đường để thoát thân về nước. Đó là "mưu kế kì diệu" của Lê Lợi để nhân dân ta được
"nghỉ sức" và cũng là để giữ hịa khí giữa hai nước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(32)</span><div class='page_container' data-page=32>

Phần cuối cùng của bài cáo là lời tuyên bố, khẳng định nền độc lập của dân tộc:
<i>"Xã tắc từ đây vững bền</i>


<i>Giang sơn từ đây đổi mới</i>
<i>Càn khôn bĩ rồi lại thái</i>
<i>Nhật nguyệt hối rồi lại minh</i>
<i>Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu</i>
<i>Mn thuở nền thái bình vững chắc</i>


<i>Âu cũng nhờ trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm phù trợ;</i>
<i>Than ôi!</i>



<i>Một cỗ nhung y chiến thắng, nên cơng oanh liệt ngàn năm</i>
<i>Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân khắp chốn.</i>
<i>Xa gần bá cáo,</i>


<i>Ai nấy đều hay".</i>


Dẹp yên giặc Minh, đất nước ta bắt đầu công cuộc đổi mới, bế tắc rồi lại thông suốt,
nhật nguyệt tối rồi lại sáng. Đó là quy luật vận động tất yếu của lịch sử, quy luật phát
triển thịnh - suy của mỗi quốc gia. Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn giành thắng lợi đã mở ra
một kỉ nguyên mới để dựng xây đất nước Đại Việt ngày càng hung thịnh dưới triều vua
Lê Lợi. Nhờ "trời đất tổ tong khơn thiêng ngầm giúp đỡ" nên mới có chiến thắng vẻ
vang đến như vậy. Sức mạnh, sự phù trợ của đấng linh thiêng cùng sức mạnh của nghĩa
quân Lam Sơn đã đánh đuổi được giặc Minh làm cho đất nước sạch bóng quân thù. Một
đất nước sẽ phát triển bền vững nếu có các chính sách chăm lo đến đời sống dân chúng
một cách phù hợp.


Với bố cục chặt chẽ, sự đăng đối hài hòa ở các câu văn và giọng điệu chính luận tài tình,
"Bình Ngơ đại cáo" khơng chỉ tố cáo tội ác của quân Minh mà còn ngợi ca sự chiến
thắng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và người anh hùng Lê Lợi. Nguyễn Trãi đã đề cao
tư tưởng nhân nghĩa "yên dân", "trừ bạo" và tư tưởng lấy dân làm gốc để phát triển dân
tộc ngày càng hưng thịnh.


<b>Phân tích Đại cáo bình ngơ mẫu 5</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(33)</span><div class='page_container' data-page=33>

“Bình Ngơ đại cáo” của Nguyễn Trãi được viết theo thể cáo - một thể loại văn học cổ có
nguồn gốc từ Trung Quốc với bố cục, kết cấu chặt chẽ. Mở đầu bài cáo, tác giả Nguyễn
Trãi đã nêu lên luận đề chính nghĩa làm nền tảng tư tưởng cho tồn bộ bài cáo của mình.
<i>Từng nghe: việc nhân nghĩa cốt ở yên dân</i>



<i>Quân điếu phạt trước lo trừ bạo</i>


Chỉ với hai câu mở đầu bài cáo của mình, tác giả đã nêu lên tư tưởng xuyên suốt bài cáo
đó chính là nhân nghĩa - một phạm trù tư tưởng có nguồn gốc từ Nho giáo, dùng để thể
hiện cách ứng xử và những mối quan hệ tốt đẹp giữa con người với con người. Và với
Nguyễn Trãi, tư tưởng nhân nghĩa đó bắt nguồn từ tư tưởng “n dân”, “trừ bạo’. Có thể
nói, đây chính là cơ sở nền tảng xuyên suốt bài cáo, xuất phát từ quan điểm lấy dân làm
gốc, từ lòng yêu thương nhân dân và vì nhân dân mà diệt bạo, mà đánh đuổi các thế lực
xâm lược. Đồng thời, cũng trong phần mở đầu của bài cáo, tác giả Nguyễn Trãi cịn nêu
lên những chân lí độc lập khách quan, làm sơ sở lí luận vững chắc để khẳng định độc lập
dân tộc cũng như nêu lên tư tưởng của bài cáo.


<i>Như nước Đại Việt ta từ trước</i>
<i>Vốn xưng nền văn hiến đã lâu</i>
<i>Núi sông bờ cõi đã chia</i>


<i>Phong tục Bắc Nam cũng khác</i>


<i>Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập</i>


<i>Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương</i>
<i>Dù mạnh yếu từng lúc khác nhau</i>


<i>Song hào kiệt đời nào cũng có.</i>


Chỉ với một đoạn văn ngắn nhưng dường như tác giả Nguyễn Trãi đã tái hiện lại một
cách chân thực và rõ nét những truyền thống vẻ vang từ ngàn đời nay của dân tộc. Trước
hơn hết, nước ta có một nền văn hiến, phong tục Bắc Nam từ ngàn đời nay. Đồng thời,
nước ta còn là nước có bờ cõi, lãnh thổ riêng, được mọi người thừa nhận. Đặc biệt hơn
cả, thông qua việc so sánh các triều đại phong kiến của nước ta với các triều đại phong


kiến phương Bắc, tác giả đã đặt các triều đại của ta, dân tộc ta ngang hàng với các triều
đại phong kiến phương Bắc, điều đó khơng chỉ là cơ sở cho nền độc lập mà còn thể hiện
lịng tự hào, tự tơn dân tộc của tác giả Nguyễn Trãi. Khơng dừng lại ở đó, để nêu lên
chân lí khách quan cho nền độc lập của nước ta, tác giả còn tái hiện lại những trang sử
vẻ vang, hào hùng với những chiếc thắng vang dội khắp non sông của quân và dân ta
trong suốt chặng đường lịch sử trước đó.


</div>
<span class='text_page_counter'>(34)</span><div class='page_container' data-page=34>

<i>Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đơ</i>
<i>Sơng Bạch Đằng giết tươi Ơ Mã</i>
<i>Việc xưa xem xét</i>


<i>Chứng cớ cịn ghi.</i>


Thêm vào đó, từ cơ sở luận đề chính nghĩa đã nêu, trong phần tiếp theo của bài cáo, tác
giả Nguyễn Trãi đã đi sâu vạch rõ những tội trạng man rợ, gian ác của kẻ thủ. Trước hết,
tác giả đã vạch rõ âm mưu xâm lược của giặc Minh đối với nước ta.


<i>Nhân họ Hồ chính sự phiền hà</i>
<i>Để trong nước lịng dân ốn hận</i>
<i>Qn cuồng Minh thừa cơ gây họa</i>
<i>Bọn gian tà bán nước cầu vinh.</i>


Như vậy, chỉ với bốn câu văn song tác giả đã vạch rõ cho người đọc âm mưu xâm lược
của giặc Minh. Quân Minh đã lợi dụng tình hình rối ren ở trong nước ta dưới thời nhà
Hồ, với luận điệu xảo trá “phù Trần diệt Hồ”, bọn chúng đã tiến vào và thực hiện âm
mưu xâm lược nước ta. Hơn thế nữa, không chỉ vạch rõ âm mưu xâm lược của giặc
Minh, tác giả Nguyễn Trãi còn tố cáo, vạch rõ những hành động, những tội ác dã man
của bọn giặc trên hầu khắp tất cả các lĩnh vực bằng những hình ảnh, những từ ngữ độc
đáo. Tội ác đầu tiên của giặc Minh đã được tác giả Nguyễn Trãi kể ra đó chính là tàn
sát, giết hại những người dân vô tội.



<i>Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn</i>
<i>Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ</i>


Với nghệ thuật đảo ngữ cùng với việc sử dụng những hình ảnh giàu ý nghĩa biểu tượng,
tác giả đã vạch rõ hành động giết người mạn rợn, tàn ác của giặc. Ngay đến cả những
“dân đen’, “con đỏ” - những người vô tội, chúng cũng không nương tay. Tất cả những
điều đó đã cho thấy hành vi giết người khơng ghê tay của bọn giặc. Thêm vào đó, chúng
cịn tàn sát những người dân vô tội bằng cách đẩy những người dân đen kia vào những
nơi rừng thiêng, nước độc với đầy rẫy những hiểm nguy, những nơi mà khi đã bước vào
đấy sẽ khơng biết có ngày trở lại hay khơng.


<i>Người bị ép xuống biển dịng lưng mị ngọc, ngán thay cá mập, thuồng luồng</i>
<i>Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng thiêng nước độc.</i>


Đồng thời, tội ác của bọn giặc còn được thể hiện ở những chính sách thuế khóa nặng nề
và hết sức vơ lí cùng với những chính sách hủy hoại mơi trường sống, cảnh quan tự
nhiên, tiêu diệt sự sống của vạn vật trên đất nước ta.


</div>
<span class='text_page_counter'>(35)</span><div class='page_container' data-page=35>

<i>....</i>


<i>Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới giăng</i>
<i>Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt</i>
<i>Tàn hại cả giống côn trùng, cây cỏ.</i>


Như vậy, với hàng loạt các hình ảnh chân thực, giàu tính biểu tượng, đoạn hai của bài
cáo như một bản cáo trạng đanh thép mà ở đó, tác giả Nguyễn Trãi đã vạch rõ những tội
ác, những hành động man rợn, ghê người của bọn giặc minh xâm lược. Và để rồi, tất cả
những tội ác ấy được tác giả khái quát lại trong câu thơ giàu tính khái quát và biểu
tượng. Đồng thời, qua những lời thơ ấy cũng giúp chúng ta thấy được thái độ căm phẫn


đến tột cùng của tác giả.


<i>Độc ác thay trúc Nam Sơn không ghi hết tội</i>
<i>Độc ác thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi</i>
<i>Lẽ nào trời đất dung tha</i>


<i>Ai bảo thần dân chịu được?</i>


Không chỉ dừng lại ở vạch rõ những tội ác của kẻ thù, “Bình Ngơ đại cáo” của Nguyễn
Trãi còn tái hiện lại một cách chân thực và sâu sắc quá trình kháng chiến và giành chiến
thắng của quân và dân ta. Mở đầu cho đoạn văn chính là hình ảnh vị chủ tướng, người
anh hùng Lê Lợi:


Ta đây:


<i>Núi Lam Sơn dấy nghĩa</i>
<i>Chốn hoang dã nương mình</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(36)</span><div class='page_container' data-page=36>

hạn chế, “nhân tài như lá mùa thu”, “việc bôn tẩu lại thiếu kẻ đỡ đần”,... Thế nhưng, với
tất cả ý chí, lịng quyết tâm và với một đường lối đấu tranh đúng đắn, kiên định “Đem
đại nghĩa để thắng hung tàn”, “lấy chí nhân để thay cường bạo”, nghĩa quân của ta đã
vượt qua muôn vàn những khó khăn thử thách ấy để đạt được nhiều thắng lợi vang dội.
Tác giả đã kết thúc đoạn ba của bài cáo với một giọng văn đầy từ hào khi tái hiện lại
những thắng lợi vẻ vang, liên tiếp của nghĩa quân trong cuộc kháng chiến chống quân
Minh xâm lược. Mở đầu của những chiến công ấy là chiến thắng Bồ Đằng, Trà Lân, rồi
đến cả vùng Trần Trí, Sơn Thọ, Lí An,... và hàng loạt, hàng loạt những chiến thắng cứ
thế liên tiếp nhau diễn ra.


<i>Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế</i>
<i>Ngày hai mươi, trận Mã An, Liễu Thăng cụt đầu</i>


<i>Ngày hai lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong</i>
<i>Ngày hăm tám, thượng thư Lí Khanh cùng kế tự vẫn.</i>


Như vậy, trong phần ba của bài cáo, tác giả Nguyễn Trãi đã tái hiện lại một cách chân
thực và sâu sắc hình tướng vị chủ tướng Lê Lợi cùng những khó khăn mà nghĩa quân
của ta gặp phải trong buổi đầu kháng chiến và đặc biệt hơn cả là những chiến thắng
vang dội của quân và dân ta trong cuộc chiến đầy khó khăn ấy. Đặc biệt, sau khi chiến
thắng, nghĩa quân của ta còn cấp ngựa, thuyền và lương thực cho bọn giặc để chúng con
đường lui. Những hành động này của quân ta thêm một lần nữa chứng minh cho tư
tưởng, luận đề chính nghĩa mà nghĩa quân của ta trọn đời theo đuổi. Và để rồi, trên cơ sở
lí luận và cơ sở thực tiễn đã được nêu lên, phần cuối của bài cáo chính là lời tun bố
độc lập, hịa bình cho dân tộc.


<i>Xã tắc từ đây vững bền</i>
<i>Giang sơn từ đây đổi mới</i>
<i>…</i>


<i>Xa gần bá cáo</i>
<i>Ai nấy đều hay</i>


Với giọng văn hùng hồn, đanh thép, lời tuyên ngôn của Nguyễn Trãi được tuyên bố rộng
rãi tới tất cả mọi người. Lời tuyên ngôn ấy không chỉ là lời khẳng định về nền độc lập,
hịa bình, thống nhất của dân tộc mà qua đó cịn thể hiện thái độ ngợi ca và niềm tin vào
một ngày mai tươi sáng, tốt đẹp hơn của đất nước, của dân tộc khi bước vào một thời kì
mới.


</div>
<span class='text_page_counter'>(37)</span><div class='page_container' data-page=37>

luận và yếu tố trữ tình. Trải qua chiều dài phát triển của lịch sử dân tộc nhưng giá trị, ý
nghĩa to lớn của bài cáo vẫn cịn vẹn ngun cho đến ngày hơm nay.


Trên đây chúng tơi đã giới thiệu bài Phân tích tác phẩm Bình Ngơ đại cáo, bên cạnh đó


để hiểu hết giá trị của áng bình Ngơ, các bạn có thể tham khảo thêm: Cảm nhận bài Bình
Ngơ đại cáo, Phân tích đoạn 1, 2 Bình Ngơ Đại Cáo, Phân tích tư tưởng nhân đạo của
Nguyễn Trãi trong Bình Ngơ đại cáo, Phân tích tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Trãi
trong Bình Ngơ đại cáo.


Mời các bạn xem tiếp tài liệu tại: /> Soạn văn 10 bài: Đại cáo bình Ngơ


 Phân tích tác phẩm Bình Ngơ đại cáo của Nguyễn Trãi
 Thuyết minh về tác giả Nguyễn Trãi


</div>

<!--links-->

×