Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (67.41 KB, 4 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>Đề bài: Thơ văn Nguyễn Trãi phản ánh tâm hồn trong sáng của tác giả</b>
<b>cũng như thiên nhiên tươi đẹp của đất nước ta.</b>
<b>Bài làm</b>
Nhớ Nguyễn Trãi là chúng ta nhớ đến người anh hùng dân tộc, nhà chỉ huy
quân sự tài ba, nhà văn, nhà thơ lỗi lạc của nền văn học dân tộc Việt Nam. Ông
là tinh hoa, là khí phách của dân tộc. Những tác phẩm của ông, từ những bức
thư địch vận gửi tướng tá quân xâm lược, mềm dẻo mà đanh thép như “lạt mềm
buộc chặt”, “Cáo bình Ngơ” đến những bài thơ chữ Hán, chữ Nôm gồm nhiều
thể, tất cả đều đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật, đều hay và đẹp đến lạ
lùng.Dường như Nguyễn Trãi là con người của thơ ca và thơ là người bạn tâm
tình của ông. “Thơ văn Nguyễn Trãi đã phản ánh tâm hồn trong sáng của tác
giả cũng như thiên nhiên tươi đẹp của đất nước ta”.
Nguyễn Trãi đã mượn thơ văn để bày tỏ tấm lịng, tâm hồn trong sáng của
mình. Trước hết ông là người yêu nước thương dân tha thiết.
Nguyễn Trãi luôn tự hào về đất nước với phong tục tập quán, biên giới lãnh
thổ, với nền văn hiến lâu đời, với chủ quyền độc lập của dân tộc và lịch sử
chiến đấu chống giặc ngoại xâm oai hùng (Cáo bình Ngơ). Với cái nhìn tiến bộ
và đầy trách nhiệm của một bậc hào kiệt, một con người nghĩa hiệp, ông quan
niệm nước gắn liền với dân. Dân là “dân đen con đỏ” – những người “côi cút
làm ăn, toan lo nghèo khó” (Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc – Nguyễn Đình Chiểu),
bảo vệ đất nước là bảo vệ cuộc sống ấm no thanh bình cho nhân dân. Cũng vì
u nước thương dân mà ơng căm thù bọn cướp nước giày xéo lên cuộc sống
của nhân dân – những người ơng u thương hết lịng hết dạ. Ơng “đau lịng
nhức óc chốc đã mười mấy năm trời, Nếm mật nằm gai há phải một hai sớm
tối”. Trăn trở, day dứt trước vận mệnh đất nước, mọi sinh hoạt hàng ngàycủa
con người nghĩa hiệp này bị đảo lộn: “Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét
đã tinh”. Với ngọn lửa yêu nước thương dân luôn cháy trong tim và ý chí xả
Vườn quỳnh dù chim kêu hót
Cõi trần có trúc đứng ngăn
Ơng khẳng định ý chí của mình:
Nguyệt xun há dễ thấu lịng trúc
Nước chảy âu khơn xiết bóng non
Ánh trăng sáng đến đâu cũng khơng soi thấu được lịng cây trúc, nước chảy
mãi cũng khơng làm mịn được bóng núi in xuống lịng sơng.
Bao giờ nhà dựng đầu non
Pha trà nước suối gối hòn đá ngơi.
(Sau loạn đến Côn Sơn cảm tác)
Tuy xa lánh bụi trần nhưng Nguyễn Trãi khơng hồn tồn là một ẩn sĩ chỉ biết
“say mùi đạo, trà ba chén, rửa lòng phiền, thơ bốn câu”. Ông vẫn yêu đời tha
thiết, vẫn lắng nghe tiếng vọng của cuộc đời, mặc dù “Suốt ngày nhàn nhã khép
phịng văn, Khách tục khơng ai bén mảng gần” (Cuối xuân tức sự). Như một
bông sen “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”, phẩm chất trong sáng của
Bui có một lịng trung với hiếu
Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen
Tâm hồn trong sáng của Nguyễn Trãi vốn đã đáng quý, nhưng khi đặt vào hoàn
cảnh xã hội đen tối với những kẻ xấu xa thâm hiểm mà có lần ơng đã phải thốt
lên đầy xót xa mai mỉa.
Ngồi chưng mọi chốn đều thơng hết
Bui một lịng người cực hiểm thay
thì lại càng đáng q bội phần.
Ngồi việc gửi gắm những tâm sự của mình vào trong thơ văn, Nguyễn Trãi
cịn gửi gắm vào đó những bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp. Khi cịnở triều
đình, cịn tung hồnh giữa cuộc đời, Nguyễn Trãi đã có những câu thơ rất hay
về thiên nhiên:
Một mâm lam biếc lắng gương trong
Muôn hộc xanh om mái tóc rủ
(Cảnh Vân Đồn)
hay:
Ngạc chặt kình băm non lởm chởm
Giáo chìm gươm gãy bãi dăng dăng
(Cửa biển Bạch Đằng)
Đến khi về ở ẩn, ông càng gắn bó với thiên nhiên bội phần. Là người đã viết
những câu văn “trúc chẻ tro bay”, “có sức mạnh như mười vạn binh” thì cũng
chính ơng lại viết những câu văn mượt mà uyển chuyển về thiên nhiên quê
hương.
Thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi vô cùng dân dã và sống động. Ơng nâng niu
từng bơng hoa rụng, từng ánh trăng ngần. Thiên nhiên trong thơ ông rất quen
thuộc và gần gũi với đời sống hàng ngày nhưng lúc nào cũng có sức cuốn hút,
sự mới mẻ lạ kì. Có khi thiên nhiên chỉ là một quãng đồng vắng, một con đò
nhỏ hay một cơn mưa, một vạt cỏ xanh tươi. Đây là bức tranh “Bến đò xuân
đầu trại”'.
Cỏ xanh như khói bến xuân tươi
Lại có mưa xuân nước vỗ trời
trời” hay “Một vùng cỏ mọc xanh rì” như trong thơ Nguyễn Du. Cỏ lúc
nàychắc hẳn ở thời kì phát triển nhất, xanh tươi nhất. Những lá cỏ đã đua dài,
mập mạp và mỡ màng vươn lên đón mưa xuân – những giọt rượu của đất trời
ban phát cho cỏ cây. Một màu xanh thắm trải dài như khói đầy sức sống.
Dường như bức tranh cịn có một sự chuyển động rất tinh tế, khơng khí lâng
lâng bay bổng mơ màng như cảnh thần tiên. Mưa xuân như dềnh lên vỗ vào
nền trời. Mưa ý nhị và duyên dáng giao duyên cho trời và đất. Cảnh vô cùng
đơn sơ, dân dã mà thắm đượm tình người.
Cũng có khi thiên nhiên rất xinh đẹp, hữu tình. Nguyễn Trãi đã thổi linh hồn
vào cảnh vật khiến cho cảnh cũng như con người:
Tình thư một bức phong cịn kín
(Cây chuối)
Cây chuối như một người con gái e lệ và duyên dáng ôm ấp bức thư – bức
thông điệp của tình u, rồi gió nhẹ nhàng bay đến, mở xem. Thiênnhiên hữu
tình, tình tứ như con người vậy. Cái nhìn của Nguyễn Trãi lúc này thật trẻ
trung.
Bên cạnh vẻ đẹp mặn mà duyên dáng với những đường nét mềm mại uyển
chuyển, thiên nhiên còn mang một vẻ đẹp hùng vĩ với những đường nét sắc
gọn, khoẻ khoắn. Dưới con mắt của Nguyễn Trãi, cảnh cửa biển Bạch Đằng
hiện lên kì vĩ và chống ngợp:
Ngạc chặt kình băm non lởm chởm
Giáo chim gươm gãy bãi dăng dăng
Cảnh kì vĩ, sừng sững, gắn với chiến công oai hùng của dân tộc ta. Trăm nghìn
núi sơng kì vĩ và mĩ lệ của Tổ quốc ta được khắc hoạ bằng những bài thơ nên
hoạ nên tình. Nguyễn Trãi với tài thể hiện của mình đã tạc vào thơ văn những
danh lam thắng cảnh, những di tích lịch sử của đất nước. Đó là cảnh Vân Đồn,
là chùa Yên Tử với vẻ đẹp hoang sơ cổ kính của những măng tre rậm rạp…
Với tình yêu thương rộng lớn, với cái nhìn tinh tế, quán xuyến, với “túi thơ”
dạt dào muôn dặm, Nguyễn Trãi đã nâng cuộc sống của thiên nhiên lên, đem sự
sống đến với thiên nhiên. Đối với ơng, thiên nhiên gắn bó gần gũi như những
người thân: Nguyễn Trãi “đón trăng vào nhà”, “gối đầu lên mây”, “ngày xem
hoa nở”, “tối rước chim về”. Ơng sống giữa lịng thiên nhiên, được thiên nhiên
ơm ấp, Nguyễn Trãi như muốn dang rộng vịng tay u thương ơm ấp thiên
nhiên vào lịng. Non xanh nước biếc, cỏ cây hoa lá đối với ông đều là bạn:
Đàn cầm suối trong tai dội
Cao cả hơn, thắm thiết hơn, thiên nhiên là những người thân, là anh em ruột
thịt:
Núi láng giềng, chim bầu hạn
Mây khách khứa, nguyệt anh tam
thậm chí là tình mẹ con, máu mủ ruột rà:
Cò nằm hạc lặn nên bầu bạn
Ấp ủ cùng ta làm cái con