Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Luận văn tốt nghiệp “Hiệp định thương mại Việt- Mỹ với vấn đề xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang Mỹ”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (897.55 KB, 89 trang )



LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP


Hiệp định thương mại Việt- Mỹ với
vấn đề xuất khẩu hàng hoá của Việt
Nam sang Mỹ
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG







KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP

ĐỀ TÀI: HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI VIỆT - MỸ VỚI VẤN
ĐỀ
XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ CỦA VIỆT NAM SANG MỸ



NGƯỜI THỰC HIỆN : TRẦN LƯU HOÀNG
LỚP A1CN9
KHOA KINH TẾ NGOẠI
THƯƠNG
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN : THS. PHẠM THU
HƯƠNG





HÀ NỘI 2003


2
LỜI NÓI ĐẦU
Ngày nay, xu thế quốc tế hoá và toàn cầu hoá là xu thế chung của các nước, các
khu vực và toàn thế giới. Các nước ngày càng phát triển thì càng phụ thuộc lẫn
nhau nhiều hơn trên tinh thần hợp tác bình đẳng, tôn trọng chủ quyền và cùng có
lợi.
Việt Nam từ khi mở cửa kinh tế đến nay đã thu được nhiều thành công, mà thành
công trong phát triển kinh tế là rất quan trọng. Cán cân thương mại giữa Việt Nam
và các nước ngày càng lớn. Trên con đường h
ội nhập vào xu thế quốc tế hoá của
kinh tế thế giới, quan hệ xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam với các nước là
vô cùng quan trọng. Cho đến nay Việt Nam đã có quan hệ buôn bán với trên 120
nước, đã ký Hiệp định thương mại với trên 60 nước và thoả thuận về quy chế tối
huệ quốc với hơn 70 nước và vùng lãnh thổ, trong đó quan hệ thương mại với Hoa
Kỳ là r
ất quan trọng.
Quan hệ ngoại giao Việt Nam - Hoa Kỳ được thiết lập năm 1995 đã giúp cho
thương mại giữa hai nước ngày càng được cải thiện. Tiến trình bình thường hoá
quan hệ kinh tế đã được cụ thể hoá bằng Hiệp định thương mại Việt - Mỹ ngày
13/7/2000, trong đó hai bên cam kết dành cho nhau qui chế tối huệ quốc ngay lập
tức và vô điều kiện.
Hiệp định thương mạ
i giữa hai nước đã là tiền đề quan trọng cho hàng hoá của
Việt Nam sang thị trường Mỹ, một thị trường lớn có nhiều phân đoạn. Tuy nhiên

với trình độ sản xuất còn hạn chế, hàng Việt Nam gặp không ít thách thức khi vào
thị trường này.
Do đó, Việt Nam cần phải đưa ra được những định hướng, chủ trương kịp thời để
thực hiện Hiệp định thươ
ng mại hiệu quả góp phần phát triển tốt kinh tế đất nước.
Hiểu được tầm quan trọng của Hiệp định thương mại đối với hoạt động xuất nhập
khẩu của đất nước, em chọn đề tài:
“Hiệp định thương mại Việt- Mỹ với vấn đề xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam
sang Mỹ”.
Nội dung của khoá luận tố
t nghiệp được trình bày trong 3 chương :

3
Chương I: Tổng quan về Hiệp định thương mại Việt- Mỹ và nhu cầu của thị
trường Mỹ.
Chương II: Hiệp định thương mại Việt – Mỹ và cơ hội - thách thức đối với việc
xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang Mỹ
Chương III: Đánh giá việc thực hiện Hiệp định thương mại Việt - Mỹ và các giải
pháp đẩy mạ
nh việc xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang Mỹ
Em đã cố gắng thu thập, xử lý thông tin và đem những kiến thức đã học được ở
trường Đại học Ngoại thương để hoàn thành khoá luận này. Tuy nhiên, do trình độ
và thời gian nghiên cứu có hạn nên không tránh khỏi những thiếu xót. Em rất
mong nhận được sự đóng góp ý kiến và chỉ bảo của thày cô và bạn bè để khoá
luận được hoàn thiện hơ
n.
Cuối cùng em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo Phạm Thu Hương, THS,
Giảng viên trường Đại học Ngoại thương, đã hướng dẫn em hoàn thành khoá luận
này.

















4
CHƯƠNG I.
TỔNG QUAN VỀ HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI VIỆT- MỸ
VÀ NHU CẦU CỦA THỊ TRƯỜNG MỸ.
I. Tổng quan về Hiệp định thương mại Việt-Mỹ
1. Bối cảnh cuộc đàm phán thương mại Việt - Mỹ
1.1 Bối cảnh chung
Xu hướng phát triển kinh tế thế giới hiện nay là toàn cầu hoá. Toàn cầu hoá và hội
nhập kinh tế quốc tế tác động m
ạnh mẽ đến sự phát triển thương mại trên phạm vi
toàn thế giới. Toàn cầu hoá là hướng tới một nền kinh tế toàn cầu thống nhất
không còn biên giới quốc gia về kinh tế.
Đó là, quá trình liên kết hợp nhất của các nền kinh tế quốc gia vào kinh tế thế giới
trên tất cả các lĩnh vực: sản xuất, thương mại, đầu tư, tài chính, thông tin, vận tải,
bảo hiểm, dị

ch vụ … Trình độ phát triển ngày càng cao, hình thành các hệ thống
sản xuất, phân phối tài chính, các mạng lưới thông tin liên lạc, giao thông vận tải
toàn cầu, hình thành các công ty xuyên quốc gia, các hệ thống tài chính quốc tế và
các trung tâm kinh tế thế giới quan trọng.
Những vấn đề kinh tế toàn cầu ngày càng xuất hiện nhiều, trở nên bức xúc, đòi hỏi
phải có sự phối hợp toàn cầu của các quốc gia. Chúng ta có thể thấy hàng loạt các
vấn đề nóng b
ỏng toàn cầu như: Thương mại, đầu tư, tiền tệ, dân số, lương thực,
năng lượng, môi trường… Môi trường toàn cầu ngày càng bị phá hoại, các nguồn
tài nguyên thiên nhiên ngày càng cạn kiệt; Dân số thế giới tăng nhanh trở thành
một thách thức lớn; Các dòng vốn toàn cầu vận động tự do không có sự phối hợp
điều tiết đã làm nảy sinh các cuộc khủng hoảng liên tiếp ở Châu âu, Châu Mỹ, và
Châu á trong các thập kỷ cuối thể kỷ vừa qua. Điều cần thiết là phải có sự phối
hợp toàn cầu để đối phó với các thách thức đó. Chính sách của từng chính phủ chỉ
tác động ở từng quốc gia riêng lẻ. Còn trên bình diện thế giới chưa có một “bàn
tay hữu hình” chung làm chức năng điều tiết toàn cầu. Mà sau khi chấm dứt chiến

5
tranh lạnh, chấm dứt sự đối đầu giữa các cường quốc thì thời kỳ hoà bình, hợp tác
và phát triển đã làm cho kinh tế thế giới sôi động hơn. Các nước trao đổi buôn bán
với nhau nhiều hơn.
Toàn cầu hoá là một quá trình tất yếu, là hệ quả của quá trình phát triển của lực
lượng sản xuất, của các phương tiện khoa học công nghệ. Toàn cầu hoá, khu vực
hoá dẫn đến hội nh
ập quốc tế. Trong xu hướng đó, các nước ngày càng tuỳ thuộc
lẫn nhau, tạo điều kiện đẩy lùi nguy cơ chiến tranh thế giới. Duy trì môi trường
hoà bình ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế quốc gia, khu vực và thế giới
ngày càng phát triển.
Tự do hoá thương mại, xoá dần đi các hàng rào thuế quan, phi thuế quan, các phân
biệt đối xử trong quan hệ buôn bán quốc tế. Buôn bán quốc tế chuy

ển sang một
thời kỳ mới đó là mở rộng tự do buôn bán được cụ thể hoá bằng việc ra đời WTO
và những ưu đãi thương mại trong khuôn khổ hợp tác cùng có lợi.
1.2. Việt Nam trước yêu cầu hội nhập kinh tế khu vực và trên thế giới.
Trong bối cảnh toàn cầu hoá như vậy, vấn đề hội nhập để phát triển theo kịp thế
giới đối với Vi
ệt Nam là một tất yếu khách quan. Con đường thích hợp với Việt
Nam là hội nhập để kết nối thị trường trong nước với khu vực và trên thế giới, tạo
ra môi trường kinh doanh có khả năng cạnh tranh cao. Với đường lối đối ngoại
rộng mở Việt Nam sẵn sàng làm bạn với tất cả các nước, sẵn sàng mở rộng hợp
tác, quan hệ hữu nghị với các nước trên thế
giới, thực hiện thành công sự nghiệp
công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
Hội nhập là quá trình tham gia vào cạnh tranh quốc tế cũng như cạnh tranh ở thị
trường nội địa. Hội nhập tốt thì sản phẩm của Việt Nam sẽ có khả năng cạnh tranh
cao trên thị trường quốc tế, các nguồn đầu vào của sản xuất và kinh doanh trong
nước ngày càng phong phú, dễ lựa chọn nhữ
ng loại hàng hoá có chất lượng cao
mở rộng tiêu dùng trong nước, kích thích nhu cầu, tăng đầu tư và đưa ra những sản
phẩm có chất lượng cao ngang tầm quốc tế. Khi thực hiện tự do hoá thương mại,
Việt Nam tham gia nhanh chóng vào hệ thống phân công lao động quốc tế hiện
đại.

6
Hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới giúp Việt Nam phát triển kinh tế nhanh,
rút ngắn khoảng cách với các nước khác trong khu vực và thế giới. Kinh tế Việt
Nam chuyển đổi nhanh sang kinh tế thị trường với định hướng mạnh vào xuất
khẩu đưa kinh tế Việt Nam mở rộng về quy mô và trình độ.
Quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam đã diễn ra ở nhiều cấp độ
khác nhau:

Song phương, tiểu khu vực, liên khu vực và toàn cầu. Đáng kể là, trong thời gian
vừa qua, tiếp theo việc bình thường hoá quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Mỹ,
hai bên đã tiến hành nhiều vòng đàm phán để ký kết các Hiệp định kinh tế song
phương. Từng bước bình thường hoá quan hệ kinh tế thương mại. Trong khi đó ở
khu vực, từ khi là thành viên của ASEAN, Việt Nam ngày càng nỗ lực thực hiện
các chương trình hợp tác kinh tế,
đặc biệt là chương trình khu vực mậu dịch tự do
AFTA. Sau một thời gian chuẩn bị, Việt Nam đã là thành viên APEC năm 1998.
Đối với tiến trình hợp tác Á - Âu (ASEM) chúng ta đã cùng các nước Châu á khác
tham gia tích cực hội nghị cấp cao ASEM – 3 ở Seoul (Hàn quốc). Việt Nam cũng
tích cực chuẩn bị đàm phán để gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) một
tổ chức kinh tế thương mại toàn cầu thể hiệ
n sự hội nhập với kinh tế thế giới.
Ngoài ra Việt Nam cũng hợp tác với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế như Ngân
hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ thế giới (IMF) để phục vụ tốt cho tiến trình phát
triển kinh tế và hội nhập quốc tế.
Việt Nam là một nước đang phát triển, có nền kinh tế chuyển đổi, tham gia hội
nhập vớ
i xuất phát điểm tương đối thấp so với các nước trong khu vực. Do đó, hội
nhập kinh tế đem đến nhiều cơ hội phát triển nhưng cũng có không ít khó khăn.
Để hội nhập có hiệu quả, chúng ta phải phát huy tối đa nội lực, thực hiện nhiều cải
cách, điều chỉnh hợp lý cơ chế, chính sách, luật lệ, tập quán kinh doanh, cơ cấu lại
kinh tế
trong nước phù hợp với phát triển kinh tế quốc tế. Cải cách bên trong sẽ hỗ
trợ hội nhập nhanh và hiệu quả. Ngược lại hội nhập kinh tế sẽ đẩy nhanh tiến trình
cải cách trong nước hiệu quả hơn.
2. Tiến trình đàm phán ký kết Hiệp định thương mại Việt – Mỹ
2.1. Kết quả đạt được qua các vòng đàm phán.

7

Đàm phán ký kết Hiệp định thương mại với Mỹ là một yêu cầu quan trọng nhằm
tạo môi trường pháp lý cho quan hệ thương mại giữa hai nước phát triển và làm
tiền đề cho việc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) của Việt Nam được
thuận lợi hơn. Vấn đề cốt lõi của Hiệp định thương mại giữa hai nước cũng như
gia nh
ập WTO của Việt Nam là Mỹ dành cho Việt Nam Quy chế Quan hệ Thương
mại bình thường (NTR) trong quan hệ song phương hay đa phương. Mục tiêu cần
đạt được là hai nước sẽ dành cho nhau NTR trên cơ sở có đi có lại, không điều
kiện và không phải xem xét lại hàng năm. Hầu hết các quốc gia có quan hệ thương
mại với Mỹ đều được hưởng NTR. Quy chế này quy định các mức thuế thấp đánh
vào hàng nhập khẩ
u đã đạt được trong các vòng đàm phán về tự do thương mại.
Khi Việt Nam còn chưa được hưởng NTR thì hàng Việt Nam xuất khẩu vào Mỹ
phải chịu thuế suất cao, làm cho hàng hoá Việt Nam bán trên thị trường Mỹ kém
hấp dẫn, thậm chí không có khả năng cạnh tranh với hàng hoá sản xuất tại Mỹ.
Tháng 10/1995, Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam và Đại diện
Thương mại Mỹ thoả thuậ
n hai bên tập trung thúc đẩy quan hệ kinh tế - thương
mại và chuẩn bị đàm phán Hiệp định thương mại.
Tháng 11/1995, Đoàn Liên bộ Mỹ thăm Việt Nam để tìm hiểu Hệ thống luật lệ
thương mại, đầu tư của Việt Nam.
Tháng 4/1996, Mỹ trao cho Việt Nam bản “Những yếu tố bình thường hoá quan hệ
kinh tế - thương mại với Việt Nam”.
Tháng 7/1996, Việt Nam trao cho Mỹ bản “Năm nguyên t
ắc bình thường hoá quan
hệ kinh tế - thương mại và đàm phán Hiệp định thương mại với Mỹ” đáp lại văn
bản nói trên.
Để ký kết được Hiệp định thương mại, Việt Nam và Mỹ đã tiến hành đàm phán
qua các vòng:
- Vòng 1 : Từ 2/9/1996 đến 26/9/1996 tại Hà Nội.

- Vòng 2 : Từ 9/12/1996 đến 11/12/1996 tại Hà Nội.
- Vòng 3 : Từ 12/4/1997 đến 17/4/1997 Mỹ trao cho Việt Nam văn bản dự thả
o
Hiệp định đề cập đến các vấn đề như :

8
Quy định về giá và điều tiết giá.
Hệ thống thuế.
Các trợ cấp đối với mỗi lĩnh vực của nền kinh tế nhất là đối với nông nghiệp.
Chế độ đầu tư.
Cán cân thanh toán.
Thuế quan nhập khẩu, bao gồm tất cả thuế quan ưu đãi, phí hải quan, miễn thuế.
Các biện pháp tự vệ và các đền bù thương mại khác (Chống bán phá giá và thuế
đố
i kháng).
Giấy phép nhập khẩu.
Các công ty, doanh nghiệp Nhà nước.
Tiêu chuẩn và chứng nhận hàng hoá nhập khẩu, các tiêu chuẩn vệ sinh dịch tễ.
Hoạt động đối ngoại.
Hệ thống thống kê và phát hành các ấn phẩm về ngoại thương.
Hệ thống bảo hộ quyền tác giả.
Các bước tự do hoá thương mại trong tương lai được thể hiện trong các quy định
và các bộ luật của quốc gia...
- Vòng 4
: Từ 6/10/1997 đến 11/10/1997 tại Washington, sơ bộ trao đổi về những
quy định chung và chương Thương mại hàng hoá trong Hiệp định.
- Vòng 5 : Từ 16/5/1998 đến 22/5/1998 tại Washington.
- Vòng 6 : Từ 15/9/1998 đến 22/9/1998 tại Hà Nội.
Tại các vòng đàm phán 5, 6 hai bên tập trung trao đổi tổng thể về Thương mại
hàng hoá, Sở hữu trí tuệ, Thương mại dịch vụ và Đầu tư.

Sau 6 vòng đàm phán đầu tiên, nhìn chung các vấn đề cơ bản c
ủa một Hiệp định
thương mại đã được đưa ra đàm phán và đã đạt được những kết quả đáng khích lệ
sau:
+ Các bên cơ bản thống nhất được các lĩnh vực quan trọng là dựa trên các chuẩn
mực của WTO để đưa ra dự thảo Hiệp định như chương về Thương mại hàng hoá,
Sở hữu trí tuệ, tuy nhiên có một số vấn đề có th
ể mở rộng hơn WTO nhưng đang
bàn ở diễn đàn khác như Đầu tư.

9
+ Các bên qua thời gian giải thích về chính sách hiện hành của mình đã hiểu biết
nhau hơn và đã có thể đánh giá được mức độ cam kết sẽ được các bên chấp nhận ở
mức độ nào nhưng chưa thể đi đến những kết luận cụ thể vì những vấn đề còn
khác nhau thường phải do cấp cao quyết định còn ở cấp chuyên viên chưa thể
quyết định đượ
c.
+ Các bên đã đưa ra dự thảo của mình với quy mô khác nhau nhưng cũng ở mức
hàng trăm trang (nếu kể cả các phụ lục thì dài hơn nhiều) và dựa trên cơ sở đó để
so sánh và tiến hành đàm phán rõ quan điểm của nhau.
Quyền kinh doanh xuất nhập khẩu của các công ty Mỹ ở Việt Nam, Quy chế Đối
xử quốc gia trong thương mại dịch vụ và đầu tư, mức độ
mở cửa thị trường cho
hàng hoá của nhau là những nội dung chính của vòng đàm phán thứ 6 ở cấp
chuyên viên. Tại vòng đàm phán này nhiều nội dung đã được làm rõ và tuy vẫn
còn nhiều sự khác biệt, hai bên cũng đã thoả thuận được một số vấn đề cụ thể. Bên
Việt Nam đồng ý thực hiện hầu hết những quy định của Tổ chức Thương mại thế
giớ
i (WTO), trừ vấn đề thuế nhập khẩu, nhưng không thể đồng ý với yêu cầu của
phía Mỹ muốn Việt Nam bãi bỏ ngay những chính sách không phù hợp với những

quy định của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và Khu vực tự do mậu dịch
ASEAN (AFTA) như chế độ hạn ngạch, hàng rào phi quan thuế...và áp dụng ngay
những quy định đó trong quan hệ thương mại với Mỹ, trước khi Vi
ệt Nam trở
thành thành viên chính thức của hai tổ chức này.
- Vòng 7 : Từ 15/3/1999 đến 19/3/1999 tại Hà Nội.
Tại vòng đàm phán thứ 7, hai đoàn tập trung trao đổi những vấn đề quan trọng
nhất còn lại chưa xử lý được trong các vòng đàm phán trước nằm ở các chương “
Phát triển Quan hệ đầu tư”, “ Thương mại dịch vụ”, “ Thương mại hàng hoá” và “
Sở hữu trí tuệ”. Cuộc đàm phán đã đạ
t được kết quả tốt đẹp. Phần lớn các vấn đề
nêu ra đã tìm được tiếng nói chung, khoảng cách giữa hai bên đã được thu hẹp.
Hai đoàn hài lòng với kết quả đàm phán. Tuy nhiên, hai đoàn cũng ghi nhận còn
một số vấn đề thuộc lĩnh vực quyền thương mại và dịch vụ mà hai bên sẽ xem xét
và thảo luận tiếp để có thể sớm đi đến ký kết Hiệp
định thương mại nhằm thúc đẩy

10
quá trình bình thường hoá quan hệ kinh tế - thương mại, tăng cường trao đổi phát
triển hàng hoá và hợp tác đầu tư giữa hai nước.
- Vòng 8: Từ 14/6/1999 đến 18/6/1999 tại Washington.
Nội dung của vòng đàm phán thứ 8 là giải quyết các vấn đề còn tồn tại từ vòng
trước. Cả hai bên đều tỏ thái độ thiện chí và cố gắng nhằm giải quyết những
vướng mắc còn tồn đọng. Theo các thành viên đoàn Việt Nam, nh
ững vấn đề còn
lại tuy không nhiều nhưng lại nằm rải rác ở mỗi chương, nhưng đây lại là những
vấn đề khó nhất. Dư luận Mỹ, đặc biệt là giới doanh nghiệp Mỹ rất quan tâm ủng
hộ việc ký kết Hiệp định thương mại giữa hai nước. Họ đã tổ chức viết thư lên các
nghị sỹ Quốc hội Mỹ
kiến nghị đẩy nhanh quá trình bình thường hoá quan hệ kinh

tế với Việt Nam, điều này góp phần cải thiện bầu không khí quan hệ giữa hai
nước. Quyết định miễn áp dụng Đạo luật bổ sung Jackson - Vanik đối với Việt
Nam là một dấu hiệu tốt cho việc phát triển mối quan hệ Việt - Mỹ, nhất là trước
vòng đàm phán thứ 8. Các vấn đề do phía Việt Nam đưa ra đều được xây dựng
trên cơ sở các nguyên tắc của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và chuẩn mực
quốc tế. Phía Việt Nam đã đưa ra một lộ trình hợp lý để thực hiện các nguyên tắc
của WTO trong bối cảnh Việt Nam là một nước đang phát triển và đang trong quá
trình chuyển đổi nền kinh tế.
Ông Nguyễn Đình Lương, Trợ lý Bộ trưởng Thương mại, Trưởng đoàn đàm phán
Việt Nam khẳng định rằng các đề xuất nói trên thể hiện nỗ lực cao nhất của Việt
Nam để tiến tới kết thúc quá trình đàm phán và ký Hiệp định thương mại giữa hai
nước, thể hiện đường lối và chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam là hội
nhập kinh tế thế giới, tạo điều kiện để Việt Nam phát huy cao độ nội lực, nhằm
xây dựng m
ột nền kinh tế vững mạnh. Ông Nguyễn Đình Lương tỏ ý mong muốn
phía Mỹ thể hiện sự hiểu biết thực sự và có đánh giá đầy đủ hơn về những nỗ lực
của phía Việt Nam trong các đề xuất được đưa ra tại vòng đàm phán này, để có thể
sớm kết thúc đàm phán và tiến tới ký kết Hiệp định thương mại giữa hai nước
trong thờ
i gian sớm nhất. Hai bên đã thu hẹp đáng kể nhiều vấn đề tồn tại, tạo
thuận lợi cho việc bình thường hoá quan hệ thương mại giữa hai nước nhưng vẫn

11
còn một số vấn đề quan trọng chưa được giải quyết như dịch vụ ngân hàng, bảo
hiểm ... Đại sứ Mỹ Pete Peterson cho rằng những cơ sở tài chính ở Việt Nam hiện
nay vẫn còn rất non nớt và phải khá lâu nữa mới có thể sánh ngang hàng với
những hệ thống tài chính quốc tế. Chính vì thế, Mỹ đòi hỏi Việt Nam phải củng cố
các cơ sở tài chính trong nướ
c để có thể cạnh tranh trên thương trường quốc tế
cũng như thoả mãn những đòi hỏi trong nước. Như vậy, trong tương lai, Việt Nam

sẽ phải cho phép những cơ sở tài chính cũng như các hãng bảo hiểm của nước
ngoài vào làm ăn tại đây.
- Vòng 9 : Từ 23/7/1999 đến 25/7/1999 tại Hà Nội, gặp mặt cấp Bộ trưởng - Hiệp
định đã được thoả thuận v
ề nguyên tắc.
- Vòng 10 : Từ 28/8/1999 đến 2/9/1999 tại Washington, xử lý các vấn đề về kỹ
thuật.
- Vòng 11: 3/7/2000 tại Washington, hoàn tất Hiệp định.
Qua 11 vòng đàm phán, hai bên đều thể hiện sự quyết tâm thúc đẩy nhanh tiến
trình đàm phán ký kết Hiệp định thương mại. Cả Việt Nam và Mỹ đều bày tỏ sự
quan tâm tới quá trình bình thường hoá quan hệ về kinh tế vì các doanh nghiệp của
cả hai phía đang mong đợi
điều này. Tuy nhiên không phải vì lợi ích trước mắt mà
bỏ qua những lợi ích lâu dài nên các bên vừa quyết tâm đàm phán vừa phải bảo vệ
lợi ích lâu dài của mình.
Ngày 13/7/2000 tại Washington (tức ngày 14/7/2000 ở Việt Nam), Bộ trưởng
Thương mại Việt Nam Vũ Khoan và bà Charlene Barshefsky, Đại diện Thương
mại thuộc phủ Tổng thống Hợp chủng quốc Hoa Kỳ đã thay mặt Chính phủ hai
nước ký Hiệp định giữa nướ
c Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Hợp chủng
quốc Hoa Kỳ về quan hệ thương mại, đánh dấu bước phát triển mới trong quan hệ
kinh tế thương mại giữa hai nước, kết thúc một quá trình đàm phán lâu dài và kiên
trì. Hiệp định được ký đúng vào dịp kỷ niệm lần thứ 5 ngày thiết lập quan hệ ngoại
giao giữa hai nước, đã hoàn tất quá trình bình thường hoá quan hệ kinh tế - thương
mại Việt Nam - Hoa Kỳ.
2.2 . Ý nghĩa của Hiệp định.

12
Sau sự kiện Hiệp định thương mại Việt - Mỹ được ký kết, giới báo chí và doanh
nhân của cả hai nước đều tỏ ý vui mừng trước những nỗ lực mà hai phía đã đạt

được trong suốt 4 năm liền đàm phán bền bỉ. Hiệp định được ký kết dựa trên các
nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của
nhau, bình đẳng và cùng có lợi,
đồng thời phù hợp với thông lệ quốc tế và các
nguyên tắc của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), có tính đến Việt Nam là một
nước đang phát triển ở trình độ thấp, đang trong quá trình chuyển đổi cơ chế kinh
tế và đang hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới. Hiệp định có hiệu lực (sau
khi được Quốc hội của hai Nhà nước phê chuẩ
n) sẽ đánh dấu việc bình thường hoá
hoàn toàn quan hệ Việt - Mỹ, tạo cơ sở pháp lý cho quan hệ kinh tế - thương mại
hai nước phát triển trên cơ sở cân bằng lợi ích, phù hợp với mong muốn của nhân
dân hai nước.
Cho đến nay, Việt Nam đã ký Hiệp định thương mại với trên 60 nước và thoả
thuận về Quy chế Tối huệ quốc với hơn 70 nước và vùng lãnh thổ trên thế giớ
i.
Tuy nhiên, đối với nước ta đây là lần đầu một Hiệp định thương mại mang tính
chất đồng bộ, đề cập một cách toàn diện tới các lĩnh vực kinh tế - thương mại hàng
hoá, dịch vụ, đầu tư, bản quyền, sở hữu trí tuệ được ký kết.
Việc ký kết Hiệp định thương mại Việt - Mỹ vừa là kết quả vừa tạo thêm
điều kiện
để tiếp tục triển khai chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hoá, đa phương
hoá và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta. Chắc chắn Hiệp định sẽ tạo
điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng hơn nữa quan hệ kinh tế - thương mại giữa
hai nước, cho phép tăng nhanh kim ngạ
ch trao đổi thương mại không chỉ với Mỹ
mà cả với các nước khác, đồng thời cũng tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp Mỹ tham
gia vào các hoạt động kinh tế ở Việt Nam.
Hiệp định thương mại Việt - Mỹ được ký kết là bước đi lịch sử trong quá trình
bình thường hoá, hoà giải và hàn gắn giữa hai dân tộc, thúc đẩy quá trình hội nhập
của Việt Nam với cộng đồng Quố

c tế và tăng cường mậu dịch giữa hai nước.
Hiệp định này không chỉ bảo đảm lợi ích của hai nước Việt Nam và Mỹ mà còn là
một đóng góp tích cực cho hoà bình, ổn định, hợp tác để phát triển ở khu vực và

13
trên thế giới. Mỹ cũng đánh giá Hiệp định này là một bước tiến quan trọng của
việc Việt Nam tham gia Tổ chức thương mại thế giới và khẳng định tích cực ủng
hộ Việt Nam gia nhập tổ chức này.
Với thiện chí và quyết tâm của cả hai bên, chúng ta tin rằng Hiệp định thương mại
Việt - Mỹ sẽ được thực hiện đầy đủ trên tinh thầ
n tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng lợi
ích và chủ quyền của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, góp
phần phát triển kinh tế - thương mại của hai quốc gia nói riêng và thế giới nói
chung.
Việc ký kết và thực hiện Hiệp định là phù hợp với đường lối đổi mới của Đảng và
Nhà nước, góp phần vào công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây
dựng một nền kinh tế
độc lập, tự chủ theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để đạt
được yêu cầu đó, các ngành, các cấp và các doanh nghiệp cần ra sức phát huy tối
đa nội lực, cải tiến quản lý, tiếp thu thành tựu khoa học kỹ thuật, nhằm nâng cao
hiệu quả của nền kinh tế và khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam.
3. Những nội dung chủ yếu của Hiệp định
Hiệp
định thương mại Việt Mỹ được ký kết ngày 13/7/2000 là một sự kiện đánh
dấu bước phát triển tích cực của mối quan hệ song phương kể từ ngày hai quốc gia
lập quan hệ ngoại giao. Hiệp định dài gần 120 trang, gồm 7 chương với 72 điều và
9 phụ lục, đề cập đến 4 nội dung chủ yếu: Thương mại hàng hoá, Thương mại dịch
vụ, Sở hữ
u trí tuệ và Quan hệ đầu tư. Như vậy có nghĩa là bản Hiệp định này tuy
được gọi là Hiệp định về quan hệ thương mại nhưng không chỉ đề cập đến lĩnh

vực thương mại hàng hoá. Khái niệm “ thương mại ” ở đây được đề cập theo ý
nghĩa rộng, hiện đại, theo tiêu chuẩn của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) và
có tính đến đặ
c điểm kinh tế của mỗi nước để quy định sự khác nhau về khung
thời gian thực thi các điều khoản. Do Mỹ đã tuân thủ tất cả các luật lệ của WTO và
là một trong những nước tự do hoá thương mại nhất trên thế giới nên hầu như tất
cả các điều khoản trong Hiệp định, Mỹ đều thực hiện ngay. Còn Việt Nam là nước
đang phát triể
n ở trình độ thấp và đang chuyển đổi từ kế hoạch hoá tập trung sang

14
kinh tế thị trường, nên kèm theo bản Hiệp định là 9 bản phụ lục có quy định các lộ
trình thực hiện cho phù hợp với Việt Nam.
Hiệp định được xây dựng trên hai khái niệm quan trọng. Khái niệm “Tối huệ
quốc” (đồng nghĩa với Quan hệ thương mại bình thường) mang ý nghĩa hai bên
cam kết đối xử với hàng hoá, dịch vụ, đầu tư của nước kia không kém phần thuận
lợi so v
ới cách đối xử với hàng hoá, dịch vụ, đầu tư của nước thứ ba (đương nhiên
không kể đến các nước nằm trong Liên minh thuế quan hoặc Khu vực mậu dịch tự
do mà hai bên tham gia, ví dụ Mỹ sẽ không được hưởng những ưu đãi của ta dành
cho các nước tham gia Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và ta cũng không
được hưởng tất cả các ưu đãi Mỹ dành cho các nước khác trong Khu vực mậu dịch
tự
do Bắc Mỹ (NAFTA). Còn khái niệm “Đối xử quốc gia” thì nâng mức này lên
như đối xử với các công ty trong nước. Hai khái niệm này quan trọng vì chúng
được đề cập đến ở hầu hết các chương của bản Hiệp định. Ngoài ra, các phụ lục
được dùng để liệt kê các trường hợp loại trừ, chưa hoặc vĩnh viễn không áp dụng
hai khái niệm trên.
Chương 1: Thương mại hàng hoá gồm 9 điều.
Chương 2: Quy

ền Sở hữu trí tuệ gồm 18 điều.
Chương 3: Thương mại dịch vụ gồm 11 điều.
Chương 4: Phát triển Quan hệ đầu tư gồm 15 điều.
Chương 5: Những điều kiện cho doanh nghiệp hoạt động bình thường.
Chương 6: Những điều khoản minh bạch và quyền được kháng cáo.
Chương 7: Những điều khoản chung.
Sau đây chúng ta sẽ xem xét nhữ
ng nội dung chủ yếu của Hiệp định.
3.1 Thương mại hàng hoá.
* Những quyền về thương mại: Cả hai bên cam kết thực hiện những quyền
thương mại theo chuẩn mực quốc tế và WTO. Tuy nhiên, đây là lần đầu Việt Nam
đồng ý thực hiện quyền về xuất nhập khẩu một cách cởi mở, tuân theo những quy
định chặt chẽ của WTO. Do vậy, những quyề
n đối với các doanh nghiệp Việt

15
Nam, các công ty do Mỹ đầu tư, và tất cả các cá nhân và công ty Mỹ hoạt động tại
Việt Nam theo Hiệp định này sẽ được tiến hành trong từng giai đoạn từ 3- 6 năm
(được áp dụng dài hơn đối với một số mặt hàng nhạy cảm).
* Quy chế tối huệ quốc: Việt Nam và Mỹ cam kết thực hiện đối xử thuế quan tối
huệ quốc đối vớ
i tất cả các mặt hàng nhập khẩu vào mỗi nước (mức thuế quan này
là 50% đối với các quốc gia không nhận được MFN).
* Cắt giảm thuế quan: Việt Nam đồng ý cắt giảm thuế quan (mức cắt giảm điển
hình là từ 1/3 đến 1/2 ) đối với một loạt các sản phẩm được các nhà xuất khẩu Mỹ
quan tâm như các sản phẩm vệ sinh, phim, máy điều hoà nhiệt độ, t
ủ lạnh, xe gắn
máy, điện thoại di động, video games, thịt cừu, bơ, khoai tây, cà chua, hành, tỏi,
các loại rau xanh khác, nho, táo và các loại hoa quả tươi khác, bột mỳ, đậu tương,
dầu thực vật, thịt và cá đã được chế biến, các loại nước hoa quả...Việc cắt giảm

thuế quan các mặt hàng này được áp dụng dần dần trong giai đoạn 3 năm. Phía Mỹ
thực hiện cắt giảm ngay theo quy định c
ủa Hiệp định song phương.
* Những biện pháp phi quan thuế: Phía Mỹ, theo quy định của WTO sẽ không có
những rào cản phi quan thuế (trừ hạn ngạch đối với hàng dệt may). Trong khi đó,
Việt Nam đồng ý loại bỏ tất cả các hạn chế về số lượng đối với một loạt các sản
phẩm nông nghiệp và công nghiệp (các linh kiện lắp ráp, thịt bò, các sản phẩm
cam, quýt...) trong giai đoạn từ
3 -7 năm, phụ thuộc vào từng mặt hàng.
* Cấp giấy phép nhập khẩu: Việt Nam sẽ loại bỏ tất cả các thủ tục cấp giấy phép
một cách tuỳ ý, và sẽ tuân thủ theo các quy định của Hiệp định WTO. Về việc
định giá trị đánh thuế hải quan và các khoản phí hải quan, Việt Nam cần tuân thủ
các luật lệ của WTO đối với việc định giá các giao dịch và đị
nh giá thuế hải quan,
cũng như hạn chế các khoản phí hải quan đánh vào các dịch vụ được thanh toán
trong vòng 2 năm. Về phía Mỹ, theo Luật Thương mại Mỹ, các công ty của Việt
Nam và các nước khác đều sẽ được cấp giấy phép hoạt động khi có yêu cầu.
* Những thước đo về tiêu chuẩn kỹ thuật và vệ sinh an toàn thực phẩm: Hai bên
cam kết tuân thủ theo các tiêu chuẩn của WTO. Các quy định về kỹ
thuật, và
những thước đo về vệ sinh an toàn thực phẩm phải được áp dụng trên cơ sở đối xử

16
quốc gia, và chỉ được áp dụng trong chừng mực cần thiết để giải quyết những mục
đích chính đáng (bảo vệ con người, bảo vệ cuộc sống của động vật, sinh vật).
* Mậu dịch quốc doanh: Cần phải được thực thi theo các quy định của WTO (ví
dụ, các doanh nghiệp quốc doanh Việt Nam trước kia chỉ tiến hành các cuộc giao
dịch theo những mối quan tâm về th
ương mại và còn ít quan tâm tới các quy định
của WTO).

3.2. Thương mại dịch vụ.
Thương mại dịch vụ được đề cập trong Chương 3 của Hiệp định. Chương này áp
dụng cho các biện pháp của các bên có ảnh hưởng tới dịch vụ thương mại.
* Các cam kết chung bao gồm: Các quy định của khuôn khổ Hiệp định chung về
Thương mại và Dịch vụ (GATS) bao gồm Tối huệ quố
c, Đãi ngộ quốc gia và Pháp
luật quốc gia.
Về các lĩnh vực và ngành cụ thể:
* Các dịch vụ pháp lý: Các nhà dịch vụ Mỹ có thể cung cấp dịch vụ dưới hình
thức chi nhánh, công ty 100% vốn Mỹ; các chi nhánh này nhận được giấy phép
hoạt động là 5 năm và có thể được gia hạn mỗi lần không quá 5 năm.
* Các dịch vụ kế toán, kiểm toán: Cho phép công ty 100% vốn Mỹ được hoạt
động trong lĩnh v
ực này. Giấy phép được cấp trên cơ sở từng trường hợp, có hiệu
lực trong 3 năm, không có giới hạn sau đó. Có thể cung cấp các dịch vụ cho các
công ty có vốn đầu tư nước ngoài trong 2 năm đầu, không giới hạn sau đó.
* Các dịch vụ kiến trúc: Cho phép công ty 100% vốn Mỹ được phép kinh doanh.
Có thể cung cấp các dịch vụ cho các công ty nước ngoài trong 2 năm đầu, sau đó
không hạn chế.
* Các dịch vụ k
ỹ thuật: Cho phép công ty 100% vốn Mỹ hoạt động và có thể cung
cấp các dịch vụ cho các công ty có vốn đầu tư nước ngoài trong 2 năm đầu, sau đó
không giới hạn.
* Các dịch vụ về vi tính và các dịch vụ liên quan: Cho phép công ty 100% vốn
Mỹ. Có thể cung cấp dịch vụ cho các công ty có vốn đầu tư nước ngoài trong 2
năm đầu, sau đó không hạn chế.

17
* Các dịch vụ quảng cáo: Chỉ các liên doanh với các đối tác Việt Nam mới được
phép kinh doanh một cách hợp pháp các dịch vụ quảng cáo. Phần góp vốn của

phía Mỹ không vượt quá 49% vốn pháp định của liên doanh. 5 năm sau khi Hiệp
định có hiệu lực hạn chế này là 51% và 7 năm sau sẽ không hạn chế về tỷ lệ góp
vốn từ phía Mỹ trong các liên doanh.
* Các dịch vụ tư vấn quản lý: Chỉ thông qua các công ty liên doanh. 5 nă
m sau
khi Hiệp định có hiệu lực được phép lập các công ty 100% vốn Mỹ.
* Các dịch vụ viễn thông: 1) Các dịch vụ viễn thông có giá trị gia tăng: Liên
doanh với đối tác Việt Nam được phép kinh doanh dịch vụ viễn thông sau 2 năm
(3 năm đối với dịch vụ Internet), vốn của Mỹ không quá 50% vốn pháp định của
liên doanh. 2) Các dịch vụ viễn thông cơ bản (bao gồm mobile, cellular và vệ
tinh): Liên doanh với đối tác Việt Nam được phép kinh doanh d
ịch vụ viễn thông
sau 4 năm, vốn đóng góp phía Mỹ không quá 49% vốn pháp định của liên doanh.
3) Dịch vụ điện thoại cố định: Liên doanh với đối tác Việt Nam được phép kinh
doanh dịch vụ viễn thông sau 6 năm, vốn đóng góp của phía Mỹ không quá 49%
vốn pháp định của liên doanh. Phía Việt Nam có thể xem xét những yêu cầu tăng
vốn đóng góp từ phía Mỹ khi Hiệp định này được xem xét lại sau 3 năm.
* Các dịch v
ụ nghe nhìn: Bao gồm các dịch vụ sản xuất và phân phối phim, các
dịch vụ chiếu phim. Liên doanh với đối tác Việt Nam được phép kinh doanh dịch
vụ nghe nhìn, vốn đóng góp phía Mỹ không quá 49% và sau 5 năm hạn chế về vốn
này sẽ là 51%.
* Các dịch vụ xây dựng và các dịch vụ kỹ thuật đồng bộ có liên quan: Cho phép
công ty 100% vốn Mỹ. Có thể cung cấp các dịch vụ cho các công ty có vốn đầu tư
nước ngoài trong 3 năm đầu tiên, sau
đó không hạn chế.
* Các dịch vụ phân phối (bán buôn và bán lẻ): Được phép lập liên doanh sau 3
năm Hiệp định có hiệu lực, vốn đóng góp phía Mỹ không quá 49%. Sau 6 năm
Hiệp định có hiệu lực hạn chế về vốn này sẽ được bãi bỏ.
* Các dịch vụ giáo dục: Chỉ dưới các hình thức liên doanh, 7 năm sau khi Hiệp

định có hiệu lực sẽ được phép lập trường học với 100% v
ốn Mỹ.

18
* Các dịch vụ tài chính: 1) Các dịch vụ bảo hiểm nhân thọ và các bảo hiểm không
bắt buộc: được phép lập liên doanh sau 3 năm Hiệp định có hiệu lực, vốn đóng
góp phía Mỹ không quá 50%. Sau 5 năm được phép 100% vốn Mỹ. 2) Các dịch vụ
bảo hiểm bắt buộc (bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới, bảo hiểm
trong xây dựng...): được phép lập liên doanh sau 3 năm Hiệp đị
nh có hiệu lực,
không giới hạn vốn đóng góp của phía Mỹ, sau 6 năm được phép 100% vốn Mỹ.
* Các dịch vụ ngân hàng và các dịch vụ tài chính liên quan khác: 1) Các nhà
cung cấp, công ty thuê mua tài chính và ngoài ngân hàng: được phép thành lập
công ty liên doanh trong vòng 3 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, cho phép
100% vốn Mỹ. 2) Ngân hàng: sau 9 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, các ngân
hàng Mỹ được phép thành lập ngân hàng chi nhánh 100% vốn Mỹ tại Việt Nam
.Trong thời gian 9 năm đó các ngân hàng M
ỹ có thể thành lập ngân hàng liên
doanh với đối tác Việt Nam, trong đó phần góp vốn của đối tác Mỹ không dưới
30% và không quá 49%. 3) Các dịch vụ chứng khoán: các nhà kinh doanh chứng
khoán Mỹ chỉ được lập văn phòng đại diện tại Việt Nam .
* Các dịch vụ y tế: Được phép thành lập các cơ sở chữa bệnh 100% vốn Mỹ. Vốn
đầu tư tối thiểu cho bệnh viện là 20 triệu USD, phòng khám đa khoa là 2 triệu và
phòng khám chuyên khoa là 1 triệ
u USD.
* Các dịch vụ du lịch và dịch vụ lữ hành liên quan: 1) Các dịch vụ khách sạn và
nhà hàng: Các công ty cung cấp dịch vụ Mỹ cùng với việc đầu tư xây dựng khách
sạn nhà hàng được phép thành lập doanh nghiệp 100% vốn Mỹ. 2) Các dịch vụ đại
lý và điều phối du lịch lữ hành: Được phép lập liên doanh, phần góp vốn phía Mỹ
không quá 49% và 3 năm sau khi Hiệp định có hiệu lực hạn chế này là 51% và 5

năm sau hạn ch
ế này sẽ được bãi bỏ.
3.3. Quan hệ đầu tư.
* Các cam kết chung bao gồm: Các hoạt động đầu tư của mỗi nước đều được
nước đối tác cam kết bảo hộ, Việt Nam đảm bảo việc bảo hộ các công ty Mỹ
không bị sung công các khoản đầu tư của họ tại Việt Nam.

19
* Các chuyển khoản tài chính: Cho phép đối tác Mỹ được đem về nước các
khoản lợi nhuận và các chuyển khoản tài chính khác trên cơ sở đãi ngộ quốc gia.
* Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMs): Phía Mỹ cam kết
thực hiện ngay từ đầu, Việt Nam sẽ huỷ bỏ dần các TRIMs không phù hợp với các
biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại của WTO trong 5 năm nh
ư những quy
định về tỷ lệ số lượng hoặc giá trị sản xuất trong nước.
* Đối xử quốc gia: Việt Nam cam kết thực hiện chế độ Đối xử quốc gia với một
số ngoại lệ. Việc thẩm tra giám sát đầu tư sẽ được dần huỷ bỏ hoàn toàn đối với
hầu hết các khu vực trong giai đoạn 2, 6 hoặc 9 năm (tuỳ
thuộc vào loại khu vực
đầu tư, ví dụ, đầu tư trong các Khu Công nghiệp hay trong Khu vực sản xuất), tuy
nhiên Việt Nam duy trì quyền áp dụng thẩm tra giám sát trong những khu vực
ngoại lệ nhất định.
* Loại bỏ việc giới hạn đóng góp vốn trong các liên doanh: Quy định hiện nay
đối với phần góp vốn phía Mỹ trong các công ty liên doanh ít nhất phải 30% vốn
pháp định; loại bỏ những quy định bán cổ phần phía Mỹ trong liên doanh cho đố
i
tác Việt Nam. Phía Mỹ chưa được thành lập công ty cổ phần và chưa được phát
hành cổ phiếu ra công chúng, chưa được mua quá 30% vốn của một công ty cổ
phần. Những ràng buộc này sẽ duy trì trong vòng 3 năm sau khi Hiệp định có hiệu
lực.

* Bộ máy nhân sự của liên doanh: Trong vòng 3 năm huỷ bỏ quy định về số
thành viên nhất định người Việt Nam trong Ban giám đốc; giới hạn mạnh mẽ các
vấn đề trong
đó “sự nhất trí” của ban giám đốc phải đạt được (ví dụ, trong vấn đề
đó các thành viên Việt Nam có quyền phủ quyết); cho phép các nhà đầu tư Mỹ
được phép tuyển chọn nhân sự quản lý không phụ thuộc vào quốc tịch.
Phía Việt Nam cũng cam kết ngay sau khi Hiệp định có hiệu lực sẽ loại bỏ dần tất
cả các đối xử không công bằng về giá đối với các công ty và các cá nhân Mỹ như
phí l
ắp đặt điện thoại và các dịch vụ viễn thông khác, các phí vận tải, thuê mướn
nhà xưởng, trang thiết bị, giá nước và dịch vụ du lịch. Trong vòng 2 năm sẽ bỏ chế
độ hai giá đối với đăng ký ô tô, giá dịch vụ cảng và giá đăng ký điện thoại. Trong

20
vòng 4 năm sẽ bỏ hẳn chế độ hai giá đối với mọi hàng hoá và dịch vụ kể cả giá
điện hay vé máy bay.
3.4. Quyền Sở hữu trí tuệ.
Trên lĩnh vực bảo hộ quyền Sở hữu trí tuệ, tuy Việt Nam chưa tham gia nhiều Điều
ước Quốc tế đa phương về bảo hộ quyền tác giả nhưng Việt Nam đã tham gia
nhiều Điều
ước Quốc tế đa phương về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp như
Công ước Paris 1883, Thoả ước Madrid 1881, Công ước Stockholm 1967...Việt
Nam cũng đã ký kết các thoả thuận hợp tác song phương về Sở hữu trí tuệ với úc,
Thái Lan, Pháp và tham gia Hiệp định khung về hợp tác Sở hữu trí tuệ của các
nước thành viên khối ASEAN. Chủ trương chung của Việt Nam là sẽ gia nhập
Công ước Berne năm 1886 v
ề bảo hộ các tác phẩm văn học nghệ thuật cũng như
chuẩn bị các điều kiện để gia nhập WTO nhằm mở rộng toàn diện nguyên tắc “làm
việc theo pháp luật” trong lĩnh vực bảo hộ Sở hữu trí tuệ trên quy mô quốc tế.
Hiệp định Quyền tác giả được ký giữa Việt Nam và Mỹ ngày 27/6/1997 giúp Việt

Nam tăng cường thêm một bước công tác quản lý các hoạt độ
ng văn hoá thông tin
nhằm ngăn chặn việc phổ biến các tác phẩm có nội dung không lành mạnh tại Việt
Nam, hạn chế tệ sử dụng tác phẩm của Mỹ mà không chịu trả tiền để kinh doanh
kiếm lời của một số tổ chức và cá nhân trong nước. Ngoài ra, thông qua việc thực
hiện Hiệp định, các tác phẩm của Mỹ sẽ được lựa chọn kỹ hơn và phổ biến
ở Việt
Nam với nội dung và hình thức tốt hơn.
Quyền Sở hữu trí tuệ được đề cập trong chương 2 của Hiệp định. Việt Nam nhất trí
tuân thủ hoàn toàn các quyền Sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại (TRIPs)
trong tất cả các lĩnh vực trong một khuôn khổ thời gian ngắn bao gồm: Bảo hộ bản
quyền và nhãn hiệu hàng hoá trên cơ sở TRIPs được thực thi trong 12 tháng; Bảo
hộ
các bí mật thương mại và bản quyền trên cơ sở TRIPs được thực thi trong 18
tháng. Việt Nam đồng ý thực hiện những biện pháp bảo hộ mạnh mẽ hơn trong
một số lĩnh vực khác như tín hiệu vệ tinh mang chương trình đã được mã hoá, bảo
hộ bản quyền đối với các động vật và thực vật, bảo hộ những dữ liệu kiểm tra bí

21
mật được trình cho các Chính phủ. Đối với trường hợp bảo hộ tín hiệu vệ tinh
mang chương trình mã hoá, sẽ được thực hiện theo giai đoạn là 30 tháng.
Theo Hiệp định thương mại song phương, phía Mỹ cam kết thực thi quyền Sở hữu
trí tuệ được ký kết kể từ ngày Hiệp định này bắt đầu có hiệu lực trừ các nghĩa vụ
tại Điều 8 và Điề
u 3.1 liên quan đến việc bảo hộ thiết kế bố trí (topography) mạch
tích hợp được thi hành sau 24 tháng kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực.
Hiệp định cũng quy định trường hợp có xung đột giữa các quy định của Hiệp định
này và Hiệp định giữa Chính phủ Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam và Chính
phủ Hợp chủng quốc Hoa Kỳ về thiết lập quan hệ về quyền tác gi
ả, ký tại Hà Nội

ngày 27/6/1997 thì các quy định của Hiệp định này được ưu tiên áp dụng trong
phạm vi xung đột.
II. Nhu cầu của thị trường Mỹ đối với hàng hoá Việt Nam
1. Đặc điểm cơ bản thị trường Mỹ
Mỹ là một nước lớn với dân số 271,8 triệu người, có diện tích hơn 9 triệu km
2
.
Tổng GDP năm 2000 của Mỹ đạt trên 10 ngàn tỷ USD, chiếm 25% tổng GDP toàn
cầu. Trong đó, nông nghiệp chiếm 1,6%, công nghiệp chiếm 22,8%, dịch vụ chiếm
75,8%. Mỹ là một trong những nước có thu nhập bình quân đầu người cao nhất thế
giới, là một thị trường khổng lồ, có sức mua lớn khoảng 7000 tỷ USD năm. Trên
thế giới nếu kể 100 tập đoàn kinh tế làm ăn có hiệu quả nhấ
t thì có tới 61 tập đoàn
là của Mỹ.
2. Nhu cầu của thị trường Mỹ đối với hàng hoá Việt Nam
Theo số liệu của Bộ thương mại thì năm 2002 kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam
vào Mỹ đã tăng 60% so với năm 2001. Năm 2002, kim ngạch xuất nhập khẩu của
Việt Nam vào thị trường Mỹ đạt 2,5 tỷ UDS (năm 2001 Hoa Kỳ nhập khẩu 1146
tỷ USD và xu
ất khẩu 714 tỷ USD). Các mặt hàng xuất khẩu thuộc thế mạnh của
Việt Nam có tốc độ tăng trưởng cao đó là hàng dệt may, giày dép, thuỷ sản. Điều
đáng lưu ý là trong điều kiện kinh tế toàn cầu khó khăn như hiện nay việc mở rộng

22
thị trường Mỹ là nhân tố quan trọng góp phần đảm bảo tốc độ tăng trưởng GDP
của Việt Nam.
Mấy năm qua hàng Việt Nam vào Mỹ phần lớn phải chịu mức thuế cao tới 40%
nhưng kim ngạch xuất khẩu của ta sang Mỹ vẫn liên tục tăng đáng kể. Theo số liệu
của Hải quan Hoa Kỳ năm 1994 kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang
M

ỹ ở mức 50,4 triệu USD nhưng đến năm1996 đã lên đến 308 triệu USD, đến
năm 1999 là 601,9 triệu USD và đến năm 2002 thuế nhập khẩu vào thị trường Mỹ
còn 3% thì kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam sang Mỹ đã đạt mức
2,5 tỷ USD.
Các nền kinh tế trên thế giới đều lấy Mỹ làm thị trường chủ lực. Bởi vì thị trường
Mỹ có tổng tr
ị giá buôn bán lớn nhất toàn cầu. Hàng nhập khẩu đa dạng, các
doanh nghiệp có thể biết được năng lực cạnh tranh của mình, tạo điều kiện thâm
nhập thuận lợi vào các thị trường khác.
Điều cần lưu ý là trong nhập khẩu Mỹ thường xuyên nhập siêu. Hàng năm mức
nhập siêu từ 60 tỷ USD đến 110 tỷ USD. Mỹ là thị trường có sức mua lớn các mặt
hàng tiêu dùng như : quầ
n áo, giày dép, túi sách, hàng gia dụng, hải sản… Điều
này giải thích tại sao các nước Nics Châu á, Thái lan, Trung quốc đã và đang thành
công trong việc mở rộng xuất khẩu các loại hàng hoá này sang Mỹ.
Quan hệ thương mại Việt Nam với Mỹ cho đến nay tuy đã có bước tiến đáng kể,
song quy mô còn rất nhỏ bé so với tiềm năng và nhu cầu của hai bên. Việt Nam
xuất sang Mỹ hàng gia vị, cà phê, chè, hải sản, gạo, may mặc; nhập từ Mỹ
gần 100
loại hàng hoá như phụ tùng máy bay, phân bón, máy móc nồi hơi, thiết bị điện,
bông, dụng cụ y tế, nông sản, hoá chất, đồ uống…
Buôn bán với doanh nghiệp Mỹ do đặc điểm của họ là yêu cầu đơn hàng lớn, giao
hàng tập trung, nên đã kích thích tập trung hoá sản xuất. Như trong lĩnh vực dệt
may đã hình thành các nhóm sản xuất sản phẩm giữa các doanh nghiệp có năng
lực sản xu
ất khá, được đầu tư đồng bộ với các doanh nghiệp địa phương, năng lực
sản xuất bị hạn chế; giải quyết tình trạng có doanh nghiệp có năng lực làm không
hết việc, trong khi doanh nghiệp khác lại dư thừa năng lực do thiếu điều kiện nên

23

thiếu việc làm. Trong ngành dệt may đã có doanh nghiệp có doanh thu trên 1 ngàn
tỷ đồng chủ yếu nhờ làm ăn với Mỹ. Một số doanh nghiệp trong ngành chế biến
bánh kẹo, thủ công, đồ gỗ gia dụng… cũng có cơ hội tăng quy mô sản xuất. Nhiều
doanh nghiệp đã đặt được quan hệ buôn bán với các hãng bán lẻ nổi tiếng của Mỹ
trong lĩnh vực dệt may là các hãng K.Mart, Unitra, Express, Gap, Jepenney. Trong
chế biến thự
c phẩm là hệ thống siêu thị Cissco… Đã tạo được điều kiện chủ động
sản xuất trong thời gian dài ví dụ các doanh nghiệp dệt may, nhất là doanh nghiệp
thuộc Tổng công ty dệt may Việt Nam có nhiều doanh nghiệp đã ký hợp đồng xuất
hàng cho thị trường Mỹ cả năm 2003.
3. Thị hiếu của người Mỹ.
Thị trường Mỹ là một thị trường tiêu thụ lớ
n do thị hiếu của người Mỹ là thích tiêu
dùng nhiều. Điều này lý giải theo quan hệ cung cầu thì cầu càng nhiều bao nhiêu
thì cung càng phát triển bấy nhiêu để đáp ứng cầu, càng kích thích sản xuất và
dịch vụ phát triển làm cho nền kinh tế ngày càng tiến lên. Các hãng sản xuất thu
được nhiều lợi nhuận, ngày càng mở rộng, tái đầu tư sản xuất nâng cao công nghệ
để phát triển không ngừng.
Không chỉ có các hàng hoá đắt tiền được tiêu thụ, mà t
ất cả các loại hàng hoá từ
giá rẻ đến đắt đều bán được. Vì nhu cầu của dân Mỹ đa dạng, có nhiều tầng lớp
giàu nghèo khác nhau. Hàng hoá bán trên thị trường Mỹ rất cần đa dạng, có cá
tính, hợp thị hiếu và phải sử dụng thuận tiện.
Mỹ là một nước có tài nguyên thiên nhiên phong phú, không bị ảnh hưởng lớn của
hai cuộc chiến tranh thế giới, lại tập trung nhiều nhà bác họ
c, thiên tài về nhiều
lĩnh vực, lại có chiến lược phát triển kinh tế lâu dài, nên đã tạo cho Hoa Kỳ có vị
thế cường quốc số một, tạo cho người Mỹ có mức thu nhập rất cao. Vì vậy, họ có
thừa khả năng để mua sắm và rất thích mua sắm. Họ thường mua hàng ở những
hiệu quen, nơi họ thấy tin tưởng về chất lượng và giá cả. Đối với nh

ững mặt hàng
mới nếu như lần đầu họ đã mất lòng tin thì khó có chỗ đứng trên thị trường Mỹ.
Điều này buộc các doanh nghiệp Việt Nam phải có cái nhìn chu đáo đến những
sản phẩm muốn bán trên đất Mỹ.

24
Hoa Kỳ còn là một hợp chủng quốc với nhiều dân tộc khác nhau trên thế giới di cư
đến, nên tâm lý và sở thích văn hoá rất đa dạng, phong phú tạo nên những phân
đoạn thị trường lớn, tạo nên những thói quen tiêu dùng đa dạng không phụ thuộc
vào các ước lệ hay tiêu chuẩn thẩm mỹ xã hội mạnh mẽ hay bắt buộc như ở các
nước khác. Họ cũng tôn trọng chất lượng như
ng lại hay thay đổi trong tiêu dùng.
Điều này lý giải những sản phẩm quá tốt, quá bền, giá cao sẽ kém cạnh tranh hơn
so với những sản phẩm giá rẻ chất lượng đủ tốt, độ bền hợp lý, mẫu mã luôn thay
đổi cho hợp thị hiếu của các nước đang phát triển lại bán tốt trên đất Mỹ.
Hơn nữa, người Mỹ lại có một thói quen thích du lịch, thích nghỉ mát, ưa khám
phá thiên nhiên mà điề
u kiện thiên nhiên môi trường Mỹ với nhiều cảnh đẹp
phong phú đã khuyến khích phát triển. Trong những chuyến đi như vậy họ mua rất
nhiều thứ như: quần áo, giày dép, mũ, lương thực, thực phẩm và các loại hàng hoá
khác từ loại đắt tiền phù hợp với người thu nhập cao cho đến các loại hàng hoá rẻ
tiền phù hợp với người thu nhập trung bình và thấp.
Với một thị trườ
ng có sức tiêu thụ lớn như vậy, mà lại không quá khắt khe đối với
xuất xứ sản phẩm hàng hoá tiêu dùng thì hàng hoá của Việt Nam có rất nhiều cơ
hội bán ra ở thị trường Mỹ. Và thực tế đã cho thấy kim ngạch xuất khẩu của Việt
Nam sang Mỹ ngày càng tăng. Mặc dù chưa phản ánh đầy đủ tiềm năng của Việt
Nam nhưng đã là một dấu hiệu
đáng mừng tạo niềm tin vững chắc cho các doanh
nghiệp làm hàng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường này.










×