Tải bản đầy đủ (.docx) (147 trang)

Công chúng ĐBSCL với chương trình văn nghệ trên sóng phát thanh của các đài PT TH địa phương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (779.19 KB, 147 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phát thanh là một trong những phương tiện truyền thơng năng động, có tính
tương tác cao, thiết thực, gần gũi với cuộc sống, khơng chỉ cung cấp thơng tin, mà
cịn là kênh văn hóa giải trí phục vụ rộng rãi cơng chúng. Người làm báo phát thanh
ngày nay rất quan tâm đến những thói quen và sở thích của từng nhóm cơng chúng
nghe Đài, khơng ngừng cải tiến về hình thức để các chương trình phát thanh ngày
càng gần gũi hơn với thính giả, phù hợp vớ i từng đối tượng nghe Đài, đáp ứng thị
hiếu ở từng độ tuổi...
Từ thực tế trong đời sống hiện đại con người vốn bận rộn và căng thẳng thì các
chương trình văn nghệ ngày càng được quan tâm, có vị thế quan trọng, trở thành
nhu cầu khơng thể thiếu trong đời sống văn hóa, tinh thần của con người. Văn nghệ
cịn là một hình thức để phản ánh hiện thực đời sống xã hội, tư tưởng, tình cảm của
con người đối với mơi trường xã hội. Nếu như báo truyền hình mạnh về các chương
trình vui chơi, giao lưu; báo in mạnh về truyện cười, câu đố vui, tranh biếm họa thì
báo phát thanh có thế mạnh trong việc đem lời thoại và âm nhạc đến với con người,
mang lại sự thư giãn, đẩy lùi căng thẳng, tái tạo sức lao động, làm giàu đời sống tinh
thần của công chúng.
Trong nhiều năm qua, đời sống văn hóa, văn nghệ ĐBSCL có nhiều khởi sắc.
Người dân đã có nhiều cơ hội hơn để tiếp cận, tham gia và thưởng thức các loại hình
văn học nghệ thuật, vui chơi giải trí thơng qua nhiều hình thức, trong đó có các
chương trình văn nghệ trên sóng phát thanh. Với tư cách là một kênh thơng tin văn
hóa, giải trí lành mạnh, trong thời gian qua, sóng phát thanh của các Đài PT-TH
trong khu vực đã mang đến công chúng ĐBSCL nhiều món ăn tinh thần bổ ích, đa
dạng, phong phú về nội dung và hình thức thể hiện. Cơng chúng có nhiều cơ hội
tham gia các chương trình âm nhạc tương tác trực tiếp như: Quà tặng âm nhạc, Ca

1


cổ theo yêu cầu, Tiểu phẩm, Câu chuyện truyền thanh, Đọc truyện đêm khuya,


ĐCTT, Sân khấu cải lương... mang nhiều sắc thái riêng, đáp ứng đời sống tinh thần,
nhu cầu giải trí của đơng đảo cơng chúng khu vực.
Cũng như một tờ báo hay một chương trình truyền hình, một chương trình
phát thanh, để ra đời, trước hết phải dựa trên nhu cầu cơng chúng. Việc thiết lập nội
dung, hình thức, thời lượng, thời điểm phát sóng của chương trình phát thanh cũng
đều cần phải căn cứ vào nhu cầu, mong muốn, đặc điểm, sở thích của cơng chúng.
Mỗi chương trình phát thanh nhằm phục vụ một nhóm đối tượng thính giả nhất định.
Cơng chúng là yếu tố quyết định đối với thành cơng của các chương trình. Cơng
chúng cịn là người tiếp nhận và đánh giá, thẩm định chất lượng của các chương
trình phát thanh. Cơng chúng là yếu tố quyết định đối với thành cơng của các
chương trình. Tuy nhiên, tại khu vực Tây Nam bộ chưa có nghiên cứu nào tìm hiểu
về thói quen, sở thích, mối quan tâm của công chúng nghe Đài đối với các chương
trình văn nghệ trên các Đài địa phương. Các chương trình PTVN được sản xuất hầu
hết chưa dựa trên nghiên cứu công chúng nên chưa thật sự đáp ứng được nhu cầu,
nguyện vọng cũng như những nhận xét, đánh giá của cơng chúng về chất lượng nội
dung và hình thức thể hiện. Đặc biệt, công chúng hiện nay được tiếp cận nhiều nội
dung văn nghệ tràn ngập trên không gian mạng và các hoạt động văn nghệ, giải trí
trên thực tế cũng diễn ra với tần suất lớn, họ có nhiều sự lựa chọn cùng với các thiết
bị nghe nhìn hiện đại. Cùng với đó là sự phát triển nhanh như vũ bão về công nghệ
và sự cạnh tranh để thu hút cơng chúng giữa các loại hình báo chí, những tác phẩm
PTVN sản xuất theo truyền thống khơng cịn thu hút sự theo dõi và tham gia của
người nghe. Thực tế này địi hỏi chương trình PTVN cần xác định đối tượng cơng
chúng và mục đích của chương trình để từ đó định hướng những cơng việc phải làm,
sản xuất ra những chương trình văn nghệ thu hút đơng đảo thính giả, đi vào lịng
người nghe. Vì vậy việc nghiên cứu công chúng và những giải pháp phát triển, thu

2


hút công chúng đang là một vấn đề cấp bách để làm căn cứ, hoạch định hoạt động

của các chương trình PTVN trên ngun tắc xác định rõ cơng chúng của mình là ai,
họ mong muốn gì, hy vọng gì và chờ đợi điều gì từ phía các Đài PT-TH. Từ đó có
phương án, kế hoạch, phục vụ cơng chúng của mình một cách hữu hiệu nhất.
Xuất phát từ thực tế trên tôi chọn đề tài “Công chúng ĐBSCL với chương
trình văn nghệ trên sóng phát thanh của các Đài PT-TH địa phương” làm luận văn
thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
* Nhóm các cơng trình nghiên cứu về cơng chúng báo chí
-

Năm 1998, Trần Hữu Quang tiến hành bảo vệ Luận án Tiến sĩ Xã hội học
"Truyền thông đại chúng và công chúng - trường hợp thành phố Hồ Chí
Minh ”. Luận án là cơng trình mang tính đại diện và nghiên cứu công chúng
truyền thông, mức độ và cách thức tiếp cận các phương tiện truyền thông đại
chúng của người dân thành phố Hồ Chí Minh, phân tích tương quan giữa đọc
báo, xem truyền hình và nghe Đài phát thanh, "các trục nội dung thường
được theo dõi", "các mô thức tiếp nhận truyền thông đại chúng", "sự tác động

của một số nhân tố", những luận giải khoa học từ kết quả điều tra xã hội học.
Ở công trình “Truyền thơng - Lý thuyết và kỹ năng cơ bản” năm 2006, tác
giả Nguyễn Văn Dững chủ biên, với phương pháp tiếp cận hệ
thống, các tác giả đề cập vấn đề nghiên cứu cơng chúng - nhóm
đối tượng trong mối quan hệ một chu trình truyền thơng, phân
tích nội dung của nghiên cứu ban đầu về công chúng, gồm ba
bình diện, các bước tiến hành và phương pháp nghiên cứu.

3


-


Năm 2008, Trần Bá Dung đã bảo vệ Luận án Tiến sĩ với đề tài “Nhu cầu tiếp
nhận thông tin báo chí của cơng chúng Hà Nội”. Luận văn mơ tả nhu cầu và
mô thức tiếp nhận thông tin báo chí của cơng chúng Hà Nội, đồng thời, chỉ ra
những nhân tố tác động, ảnh hưởng đến nhu cầu tiếp nhận này.Trên cơ sở kết
quả nghiên cứu, luận án dự báo một số xu hướng vận động của nhu cầu và
đưa ra các giải pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động báo chí.

-

Bàn luận về cơng chúng báo chí - truyền thơng trên bình diện lý thuyết xã
hội học cơng chúng, tác giả Mai Quỳnh Nam có nhiều bài viết về lý luận và
tác động của truyền thông đại chúng đối với đời sống xã hội. Cụ thể là các
bài nghiên cứu: “Truyền thông đại chúng và dư luận xã hội” - Tạp chí Xã hội
học số 1 năm 1996, “Về đặc điểm và tính chất của giao tiếp đại chúng' - Tạp
chí Xã hội học số 2 năm 2000, “Về vấn đề nghiên cứu hiệu quả của truyền
thơng đại chúng" - Tạp chí Xã hội học số 4 năm 2001, “Xã hội hóa và truyền
thơng đại chúng" - Tạp chí nghiên cứu con người số 6 năm 2010.
* Nhóm cơng trình nghiên cứu về phát thanh và cơng chúng phát thanh:

-

Sách chun luận “Nghề báo nói ” của tác giả Nguyễn Đình Lương do Nhà
xuất bản Văn hố - Thơng tin ấn hành năm 1993. Nội dung sách gồm bảy
phần, trong đó đã đề cập một cách tổng quát về đặc trưng, phương pháp, thể
tài và những vấn đề thuộc về nguyên lý, kỹ năng và quy trình nghề báo phát
thanh; phát thanh với thính giả v.v...

-


Giáo trình “Báo chí phát thanh ” do 13 tác giả ở Phân viện Báo chí và
Tuyên truyền và Đài TNVN viết (Nhà xuất bản Văn hố - Thơng tin ấn hành
năm 2002) có tổng cộng 20 chương, đề cập một cách khá toàn diện về những
vấn đề của phát thanh Việt Nam hiện đại.

4


-

Sách “Lý luận báo phát thanh ” của Đức Dũng (Nhà xuất bản Văn hố Thơng tin ấn hành năm 2003) gồm 9 chương, trong đó đề cập đến những vấn
đề của đặc trưng loại hình và các thể loại báo phát thanh.

-

Cuốn Báo phát thanh -lý thuyết và kỹ năng cơ bản của TS Đinh Thị Thu
Hằng bàn về phương thức sản xuất chương trình phát thanh trực tiếp trong
tương quan so sánh với phương thức sản xuất chương trình phát thanh truyền
thống, đồng thời chỉ ra những yêu cầu của phương thức này.

-

Cuộc điều tra xã hội học của Đài TNVN và Ban Tư tưởng- Văn hoá Trung
ương (2001), tiến hành trên 30 tỉnh, thành phố trong cả nước, cho thấy, mức
độ, cách thức nghe Đài của thính giả, thay đổi theo giới tính, độ tuổi, mức
sống, nơi sống, học vấn... Tại mỗi tỉnh, thành phố điều tra những lý do thính
giả khơng nghe Đài, những đánh giá chất lượng, nguyện vọng và đề xuất của
thính giả.

-


Sách “Phương pháp điều tra thính giả” năm 2003 của Đài TNVN tập hợp
một số chuyên luận của Nguyễn Đình Lương, Nguyễn Văn Dững, Dương
Xuân Sơn, Phạm Chiến Khu... vừa nêu rõ vai trò của điều tra dư luận xã hội,
dư luận thính giả, vừa đề cập một số vấn đề về công chúng, lý luận về
phương pháp và ngôn ngữ điều tra thính giả.

-

Sách “Báo Phát thanh ” năm 2002 và sách “Công chúng phát thanh ” của
tác giả Nguyễn Văn Dững có định nghĩa khái niệm cơng chúng, các loại cơng
chúng báo chí, vai trị cơng chúng, các nội dung và phương pháp nghiên cứu
cơng chúng.
* Nhóm các cơng trình nghiên cứu về văn hóa- văn nghệ ĐBSCL:

-

Sách “Văn hóa người Việt vùng Tây Nam Bộ”do Trần Ngọc Thêm chủ biên
năm 2013, NXB Văn hóa- Văn nghệ;

5


-

Sách “Văn minh miệt vườn” của nhà văn Sơn Nam, 1992, NXB Văn học;
Sách “Đồng Bằng Sông Cửu Long - Nét sinh hoạt xưa và Văn minh miệt
vườn ” của Sơn Nam, 1998, NXB Trẻ;

-


Sách “ĐBSCL qua vài nét văn hóa miệt vườn” của tác giả Nguyễn Văn Trần,
2000, NXB Văn hóa- Văn nghệ;

-

Cơng trình nghiên cứu “Dân ca Cửu Long” của các tác giả Lư Nhất VũNguyễn Văn Hòa- Lê Giang- Thạch An, Sở VHTT Cửu Long ấn hành năm
1986;

-

Sách “Ca nhạc cổ truyền ”, Lê Văn Ngưu biên soạn, NXB Văn nghệ
TPHCM, 1995;
Các sách và cơng trình trên nghiên cứu một cách toàn diện về ĐBSCL qua

nét sinh hoạt truyền thống và nền văn minh sông nước, những giá trị văn hóa tinh
thần của một bộ phận người đã tạo nên diện mạo của một vùng đất này; Các giải
pháp khắc phục thực trạng đời sống văn hóa, văn nghệ trong hiện tại, từng bước
củng cố, xây dựng chiến lược phát triển con người trên cơ sở xây
dựng lối sống văn hóa mới trong q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
* Nhóm các cơng trình nghiên cứu về phát thanh địa phương và PTVN
địa phương:
-

Luận văn thạc sĩ của Trần Hoàng Kiệm chuyên ngành báo chí học, Học viện
Báo chí tuyên truyền Hà Nội (2015), “Đổi mới phương thức sản xuất chương
trình phát thanh trực tiếp của Đài Phát thanh -Truyền hình Vĩnh Long hiện
nay”. Trên cơ sở phân tích, đánh giá khách quan, luận văn khảo sát một cách
có hệ thống về phương thức sản xuất chương trình phát thanh trực tiếp của

Đài PT-TH Vĩnh Long.

6


-

Luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Minh Diễm chuyên ngành báo chí học,
Học viện Báo chí tuyên truyền Hà Nội (2009), “Nâng cao chất lượng
chương trình phát thanh cấp tỉnh khu vực Bắc Sông Hậu, ĐBSCL”. Đây là đề
tài khảo sát một cách có hệ thống về chất lượng các chương trình phát thanh
cấp tỉnh khu vực Bắc Sơng Hậu, ĐBSCL, là bức tranh thực tế sinh động về
các chương trình phát thanh Đài tỉnh Bắc Sơng Hậu có thể tạo ra những so
sánh cần thiết cho các Đài ở khu vực này có cơ sở tham khảo, đối chiếu và
vận dụng để nâng cao chất lượng chương trình của mình.
- Luận văn thạc sĩ báo chí học của Bùi Trọng Điển, Học viện Báo chí và

tuyên truyền (2015), “Nghiên cứu nâng cao đặc trưng văn hóa miệt vườn sơng nước
Cửu Long trong các chương trình phát thanh của cơ quan thường trú khu vực
ĐBSCL”. Luận văn đã chỉ rõ những nét đặc trưng cơ bản của văn hóa miệt
vườn sông nước Cửu Long để xây dựng các sản phẩm phát thanh, chương trình phát
thanh tương thích, phù hợp hơn với văn hóa đặc trưng của người dân Nam Bộ của
cơ quan thường trú khu vực ĐBSCL nói riêng và Đài TNVN nói chung.
Các tài liệu, cơng trình nghiên cứu được tác giả luận văn tham khảo đã nêu ra
những vấn đề nghiên cứu công chúng trong mối quan hệ một chu trình truyền thơng,
đi sâu phân tích, tìm hiểu về đặc điểm, nhu cầu, mối quan hệ, thói quen, cách thức
tiếp cận thông tin của công chúng đối với báo chí và đề xuất giải pháp nâng cao chất
lượng chương trình, đáp ứng nhu cầu xem truyền hình, nghe phát thanh và đọc báo
của công chúng. Tuy nhiên, hiện chưa có cơng trình nào nghiên cứu về cơng chúng
ĐBSCL với chương trình văn nghệ trên sóng phát thanh, đây vẫn còn là một đề tài

đang bỏ ngỏ. Do đó, bản thân nhận thấy cần phải tiến hành nghiên cứu, khảo sát
mức độ thưởng thức, khả năng đáp ứng và q trình tham gia, phản hồi của cơng
chúng đối với các chương trình văn nghệ trên sóng phát thanh của các Đài PT-TH
khu vực ĐBSCL. Từ kết quả trên, luận văn sẽ nhận diện được công chúng của

7


chương trình, từ đó góp phần vào việc nâng cao hiệu quả phát sóng các chương trình
văn nghệ phục vụ tốt hơn nhu cầu cơng chúng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1.

Mục đích nghiên cứu

Trên cơ sở hệ thống hóa một số vấn đề lý luận liên quan đến cơng chúng, vai
trị, đặc điểm, cách thức tìm hiểu về thói quen, nhu cầu, sở thích, cách thức tiếp cận
cơng chúng và thu hút công chúng, luận văn tiến hành khảo sát cơng chúng các
chương trình PTVN ở ĐBSCL để từ đó đề xuất những giải pháp, kiến nghị mang
tính khả thi cho việc đổi mới, nâng cao chất lượng chương trình nhằm đáp ứng tốt
hơn nhu cầu thưởng thức văn nghệ và phát triển, mở rộng công chúng văn nghệ ở
khu vực ĐBSCL.
3.2.

Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, tác giả luận văn thực hiện một số nhiệm vụ

sau đây:
-


Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về công chúng phát thanh, xây dựng
khung lý thuyết để làm cơ sở cho việc khảo sát;

-

Mô tả, khảo sát và phân tích làm rõ được thực trạng tiếp nhận chương trình
văn nghệ trên sóng phát thanh của công chúng khu vực ĐBSCL; Cách thức
các Đài PT-TH tiếp cận, thu hút công chúng;

-

Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm thu hút, phát triển công chúng
với các chương trình văn nghệ trên sóng phát thanh của các Đài PT-TH địa
phương khu vực Tây Nam bộ.

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1.

Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là cơng chúng ĐBSCL, các chương trình văn nghệ trên

sóng phát thanh của các Đài PT-TH địa phương.

8


4.2.

Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi nghiên cứu là các nhóm công chúng ĐBSCL đang sinh sống và làm


việc tại khu vực thành thị và nông thôn các tỉnh trong diện khảo sát; Các chương
trình văn nghệ trên sóng phát thanh được nhiều người yêu thích của các Đài PT-TH
Vĩnh Long, Kiên Giang và Bạc Liêu (Quà tặng âm nhạc, ca cổ theo yêu cầu, Đờn ca
tài tử Nam bộ, Câu lạc bộ sân khấu, Câu chuyện truyền thanh, Đọc truyện đêm
khuya).
Thời gian khảo sát từ tháng 06 đến 12/2019.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình tiến hành thực hiện luận văn sẽ sử dụng tổng hợp các phương
pháp nghiên cứu sau đây:
-

Phương pháp nghiên cứu, phân tích, khảo sát tài liệu: được sử dụng để tiếp
cận các giáo trình và các sách chun khảo, các tài liệu, các cơng trình
nghiên cứu có liên quan đến đề tài và một số tài liệu liên quan đến báo chí
phát thanh, từ đó rút ra những vấn đề lý luận cần thiết.

-

Phương pháp điều tra bằng bằng hỏi: được thực hiện với 300 phiếu phát đến
thính giả chương trình văn nghệ trên sóng phát thanh ở một số địa phương
ĐBSCL thuộc 3 tỉnh Vĩnh Long, Kiên Giang và Bạc Liêu nhằm thu thập,
phân tích một cách có định lượng ý kiến của thính giả thuộc các tầng lớp
nhân dân đối với chương trình PTVN.

-

Phương pháp PV sâu: tác giả PV 9 đối tượng là lãnh đạo các Đài PT- TH,
lãnh đạo phòng phát thanh (văn nghệ - giải trí) và các BTV văn nghệ, nhằm
thu thập tìm hiểu sâu về các biện pháp để thu hút công chúng văn nghệ; Việc

đổi mới nội dung, hình thức chương trình PTVN; Làm thế nào để thỏa mãn
nhu cầu công chúng; Quan điểm của họ về sức hấp dẫn của chương trình văn
nghệ trên sóng phát thanh trong sự cạnh tranh ở lĩnh vực nghe nhìn; Nhận xét

9


về tầm quan trọng của ý kiến công chúng trong việc đổi mới chương trình
PTVN.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
6.1.

Ý nghĩa lý luận

Luận văn làm sâu sắc thêm mảng lý luận về công chúng văn nghệ phát thanh và góp
phần bổ sung, làm phong phú hơn những luận điểm khoa học
cho hệ thống lý luận báo chí truyền thơng ở Việt Nam, đặc biệt là các nghiên cứu về
cơng chúng truyền thơng mang tính chất vùng miền với đặc trưng tâm lý, văn hóa
riêng.
6.2.

Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn đem lại cái nhìn khách quan, chân thực về cơng chúng các chương

trình PTVN ở ĐBSCL để từ đó có những điều chỉnh thích hợp về chất lượng nội
dung và hình thức chương trình văn nghệ trên sóng phát thanh của các Đài PT-TH
khu vực ĐBSCL. Với những cứ liệu thực tế phong phú, luận văn có thể cung cấp
các dữ liệu cần thiết cho cơ quan quản lý báo chí, Ban Giám đốc, BBT các Đài có
thêm cơ sở khoa học để đầu tư đúng mức cho chương trình văn nghệ thực hiện trên
sóng phát thanh. Các nhà báo có thể tham khảo để nhìn nhận sâu hơn về thực trạng

công chúng ĐBSCL và các chương trình văn nghệ đồng thời tiếp cận cách đổi mới,
nâng cao chất lượng chương trình phù hợp cho báo phát thanh trong thời gian tới.
Việc nghiên cứu đề tài này cũng là cơ hội để tác giả luận văn có thể nâng cao kiến
thức sau thời gian học cao học Báo chí tại Trường Đại học KHXHNV Hà Nội.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung luận
văn có kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan tới công chúng của
các chương trình phát thanh văn nghệ

1
0


Chương 2. Khảo sát cơng chúng ĐBSCL với chương trình văn nghệ trên
sóng phát thanh của các Đài PT-TH địa phương.
Chương 3. Một số giải pháp, kiến nghị nhằm thu hút, phát
triển cơng chúng với các chương trình văn nghệ trên sóng phát
thanh của các Đài PT-TH địa phương khu vực Tây Nam bộ.

1
1


Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN LIÊN QUAN TỚI
CƠNG CHÚNG CỦA CÁC CHƯƠNG TRÌNH PHÁT THANH
VĂN NGHỆ
1.1.

Một số khái niệm


1.1.1.

Công chúng và công chúng báo chí
Cơng chúng
Theo Từ điển Tiếng Việt (1992) định nghĩa: “Cơng chúng là đông đảo những

người đọc, xem, nghe, trong quan hệ với tác giả, diễn viên...”
Tác giả E.P.Prôkhôrốp, Cơ sở lý luận báo chí (tập 1, tập 2, NXB Thơng Tấn,
Hà Nội 2004) nêu khái niệm: “Công chúng tiếng Latinh- auditorium; audire có
nghĩa là nghe; audiotor là người nghe, đó là cộng đồng người, những người mà
phương tiện thông tin đại chúng hướng tới và là những ai cảm thụ những thông tin
được hướng tới họ.
Trong truyền thông: “Công chúng nói chung có thể được hiểu là những người
tiếp nhận và được các sản phẩm báo chí tác động, hoặc hướng vào để tác động”
[13, tr.397].
Theo PGS.TS Nguyễn Văn Dững tác giả quyển Báo chí và Dư luận xã hội
(2012) thì: Cơng chúng là đơng đảo người trong mối quan hệ với “người diễn
thuyết”, người biễu diễn, với tác giả, tác phẩm báo chF [13, tr.398].
Còn trong quyển Cơ sở lý luận báo chí (NXB Lao động 2015), tác giả
Nguyễn Văn Dững cho rằng: “Công chúng là quần thể cư dân hay nhóm đối tượng
trực tiếp hay gián tiếp tiếp nhận thông tin hoặc chịu ảnh hưởng từ tác động của
thơng tin báo chí” [12, tr.57].
1.1.1.2.
Cơng chúng báo chí
Tác giả Mai Quỳnh Nam đưa ra khái niệm về công chúng báo chí như sau: “Cơng
chúng báo chí thuộc mọi tầng lớp xã hội, tuổi tác, giới tính,
trình

1

2


độ học vấn... Nói đến cơng chúng của truyền thơng đại chúng là nói đến cá
nhân nặc danh. Khi hướng đến đại chúng, báo chí khơng thể biết cụ thể ai là ai,
điều đó có nghĩa là truyền thơng đại chúng có thể đến với bất kỳ ai, khơng riêng
một cá nhân nào ”.
PGS.TS Nguyễn Văn Dững trong quyển Cơ sở Lý luận Báo chí (Nhà xuất
bản Lao động 2012) cho rằng: “Cơng chúng báo chí là quần thể dân cư hay nhóm
đối tượng mà báo chí hướng tác động của mình vào để cung cấp, trao đổi và chia
sẻ thơng tin, thuyết phục gây ảnh hưởng có thể làm thay đổi nhận thức, thái độ,
hành vi của họ theo mục đích thơng tin nhất định. Vế khía cạnh kinh tế, cơng chúng
báo chí là khách hàng của báo chí; trên khía cạnh xã hội, là lực lượng quan trọng,
quyết định vai trò, vị thế xã hội của cơ quan báo chí”[14, tr.35].
Cịn tác giả Trần Bá Dung trong nghiên cứu Nhu cầu tiếp nhận thơng tin
báo chí của cơng chúng Hà Nội nêu: “Cơng chúng báo chí là nhóm lớn dân cư,
không đồng nhất trong xã hội, được báo chí hướng vào để tác động hoặc chịu ảnh
hưởng tác động của báo chí và có tác động trở lại, giám sát, đánh giá, quyết định
hiệu quả hoạt động của cơ quan báo chí”[6, tr.78].
Từ những góc nhìn trên cho thấy, cơng chúng báo chí truyền thơng là một
thực thể rất phức tạp. Cơng chúng báo chí là khái niệm dùng để chỉ những người
tiếp nhận sản phẩm báo chí. Cơng chúng báo chí được xem xét trong mối quan hệ
với tác phẩm báo chí, với cơ quan báo chí và với nhà báo. Việc nghiên cứu cơng
chúng địi hỏi phải có cái nhìn tổng hợp, tồn diện và đặt đối tượng nghiên cứu
trong mơi trường văn hóa - xã hội cụ thể. Bên cạnh đó, tùy theo đặc điểm của mỗi
loại hình báo chí mà có thể xác định những khác biệt của từng loại công chúng.
Chẳng hạn như với báo in, công chúng là bạn đọc (độc giả); với báo phát thanh,
cơng chúng là người nghe (thính giả); với báo truyền hình, cơng chúng là người

1

3


xem (khán giả); riêng báo mạng điện tử (Internet) được xem là loại hình đa phương
tiện.
1.1.2.
1.1.2.1.

Báo phát thanh và cơng chúng phát thanh
Báo phát thanh
Có nhiều khái niệm về báo phát thanh khác nhau, nhưng thông thường nhất

người ta dựa vào phương thức truyền thông tin và đặc điểm của loại hình để đưa ra
khái niệm về phát thanh.
Theo TS. Đinh Thị Thu Hằng tác giả quyển sách “ Báo phát thanh- Lý thuyết
và kỹ năng cơ bản" (Nhà xuất bản Chính trị- Hành chính, 2013) thì: Báo phát thanh
là tờ báo bằng âm thanh (nhìn từ góc độ phương tiện chuyển tải); Phát thanh là tiếp
nhận thông tin bằng tai (nhìn từ góc độ tiếp nhận); Phát thanh là sử dụng âm thanh
để chuyển tải thơng tin (nhìn từ góc độ sáng tạo) [22, tr.31].
Theo Lois Baird, tác giả cuốn Hướng dẫn sản xuất chương trình phát thanh
của Trường PT-TH điện ảnh Australia đã nêu ra và phân tích đặc tính
sau đây của phát thanh: Radio là hình ảnh; Radio là thân mật riêng tư; Radio dễ
tiếp cận và dễ mang; Radio là trực tiếp; Radio có ngơn ngữ riêng của mình; Radio
có tính tức thời; Radio khơng đắt tiền; Radio có tính lựa chọn; Radio gợi lên cảm
xúc; Radio làm công việc thông tin giáo dục; Radio là âm nhạc [3, tr.13].
Còn hai tác giả Paul Chantler và Peter Stewart viết: “Radio là phương tiện
truyền thông tốt nhất để kích thích trí tưởng tượng; Phát thanh là phương tiện
truyền thơng mang tính riêng tư ”.
Trên cơ sở xem xét những cách hiểu khác nhau, có thể hiểu: Báo phát thanh
là một loại hình báo chí sử dụng kỹ thuật sóng điện từ và hệ thống truyền thanh,

truyền đi ngơn ngữ âm thanh, trực tiếp tác động vào thính giác của đối tượng tiếp
nhận.

1
4


1.1.2.2.

Chương trình phát thanh
TS Đinh Thị Thu Hằng tác giả cuốn “Báo phát thanh- Lý thuyết và kỹ năng

cơ bản ” khái niệm về chương trình phát thanh như sau: “Chương trình phát thanh
là một chỉnh thể trong đó các phần tin bài, âm nhạc, lời dẫn... được bố trí, sắp xếp
một cách hợp lý trong một khoảng thời gian xác định nhằm đáp ứng nhiệm vụ của
cơ quan truyền thông và mang lại hiệu quả ca nhất đối với người nghe ”[22,
tr.153].
Theo PGS. TS Tạ Ngọc Tấn: “Chương trình phát thanh là sự tổ chức các tin
tức, bài vở, tài liệu cùng các chất liệu khác trong phát thanh theo thời lượng nhất
định, mục đích nhất quán và nhằm vào đối tượng công chúng cụ thể. Thông thường
một chương trình phát thanh mở đầu bằng nhạc hiệu và kết thúc bằng lời chào tạm
biệt. Ngay sau nhạc hiệu là lời xướng của phát thanh viên, chỉ ra tên hoặc đặc
trưng của chương trình" [43, tr.92].
Trong thực tế, tùy theo tiêu chí phân loại, mỗi chương trình phát thanh có đối
tượng tác động riêng, có nội dung phản ánh cũng như phương thức thực hiện riêng.
Thính giả dễ dàng phân biệt chương trình phát thanh Thanh niên với Câu lạc bộ
những người cao tuổi, chương trình Thời sự với Diễn đàn các vấn đề xã hội... Sự
phân công và chuyên mơn hóa trong q trình lao động tạo ra cho các chương trình
phát thanh có sự phân định rõ ràng. Q trình tiếp nhận của cơng chúng gắn liền với
các chương trình phát thanh. Người nghe có thể nắm bắt được thông tin thời sự một

cách nhanh nhất qua chương trình thời sự và họ chờ đợi những hướng dẫn cụ thể
qua chương trình chuyên đề.
Trong thực tế đang tồn tại nhiều cách phân dạng các chương trình phát
thanh, theo tác giả Tạ Ngọc Tấn: "Căn cứ vào đặc điểm nội dung, mục đích thơng
tin và đối tượng người ta chia chương trình phát thanh thành 4 loại chính: chương

1
5


trình tin tức, thời sự tổng hợp; chương trình chuyên đề; chương trình giải trí và
chương trình giáo dục ”. [43, tr. 118].
1.1.2.3. Công chúng phát thanh
Công chúng phát thanh cịn gọi là thính giả hoặc bạn nghe Đài. "Khái niệm
cơng chúng, bạn đọc, bạn nghe và xem Đài nói chung được dùng để chỉ một nhóm
lớn trong xã hội, nhưng thường ngày, người ta có thể dùng để chỉ cụ thể một người
hay một nhóm nhỏ nào đó" [36, tr.95].
Theo tác giả Nguyễn Đình Lương tác giả cuốn chuyên luận Nghề báo nói do
Nhà xuất bản Văn hố - Thơng tin ấn hành năm 1993, thì: “Cơng chúng của phát
thanh được gọi là thính giả hay người nghe. Là những người, những nhóm người
tiếp nhận thơng tin từ Đài phát thanh, là đối tượng tác động của các chương trình
phát thanh”[32, tr.40].
PGS.TS Nguyễn Đức Dũng cho rằng: “Cơng chúng phát thanh cịn gọi là
thính giả, bạn nghe Đài, là những người tiếp nhận sản phẩm báo phát thanh ”.
“Công chúng phát thanh được sử dụng ở đây là để chỉ người nghe radio nói
chung trong xã hội, nhưng cũng có thể dùng để chỉ một người hay những nhóm nhỏ
nào đó mà chương trình phát thanh hướng vào để tác động, lơi kéo, thuyết phục.
Các chương trình truyền thống trên sóng phát thanh vừa nhằm vào quảng đại quần
chúng, đồng thời cũng nhằm tới những nhóm đối tượng cụ thể ”[11, tr.60]
Các khái niệm trên đã chỉ rõ, công chúng phát thanh có thể được hiểu là

nhóm lớn xã hội được chương trình phát thanh tác động, hoặc nhóm lớn mà chương
trình phát thanh hướng tới để tác động. Có cơng chúng tiềm năng và cơng chúng
thực tế, cơng chúng trực tiếp và công chúng gián tiếp. Công chúng tiềm năng là
nhóm lớn xã hội mà chương trình nhắm vào, tác động lôi kéo... Nhưng trong thực tế,
không phải tất cả các thành viên nhóm lớn xã hội mà chương trình nhắm vào đều
tiếp nhận được các chương trình phát thanh. Hay nói cách khác, chỉ một phần trong

1
6


nhóm lớn mà chương trình phát thanh hướng vào, tiếp nhận được sự tác động. Bộ
phận ấy gọi là công chúng thực tế. Ở bình diện khác lại có cơng chúng trực tiếp và
gián tiếp. Công chúng trực tiếp là những người trực tiếp tiếp nhận các chương trình
phát thanh. Cịn cơng chúng gián tiếp là những người được cơng chúng trực tiếp kể
lại những thông điệp mà họ tiếp nhận qua các chương trình phát thanh. Do đó, các
chương trình trên radio vừa nhắm vào những đối tượng cụ thể vừa nhắm vào quảng
đại quần chúng. Chương trình phát thanh phụ nữ nhằm vào nhóm cơng chúng phụ
nữ, nhưng kể cả nam giới cũng khơng phải vơ tình nghe được mà nghe theo sở thích
và nhu cầu.
Do vậy, cơng chúng phát thanh có thể được hiểu là nhóm lớn xã hội được
chương trình phát thanh tác động, hoặc nhóm người mà phát thanh hướng vào để tác
động. Công chúng phát thanh là người đầu tiên quyết định việc hình thành các
chương trình phát thanh, một chương trình phát thanh ra đời trước hết phải dựa trên
nhu cầu của công chúng. Việc thiết lập nội dung, hình thức, thời lượng, thời điểm
phát sóng của chương trình phát thanh cũng đều căn cứ trên nhu cầu, mong muốn,
đặc điểm, sở thích của cơng chúng. Mỗi chương trình phát thanh nhằm phục vụ một
nhóm đối tượng thính giả nhất định. Chương trình nào công chúng ấy và ngược lại
công chúng nào chương trình ấy.
Cơng chúng là một nguồn đề tài phong phú của các chương trình phát thanh.

Cuộc sống, tâm tư, tình cảm, nguyện vọng... của họ luôn là đều được các nhà báo,
các chương trình phát thanh quan tâm phản ánh. Trong các chương trình giao lưu,
tương tác cơng chúng cịn tham gia với tư cách là khách mời, là người nêu câu hỏi,
là người lắng nghe trực tiếp và phản hồi. Sau mỗi chương trình phát sóng, những
thơng tin phản hồi từ thính giả có tác dụng điều chỉnh, gợi mở tiếp những cách thức
mới, những nội dung mới cho những người làm chương trình.

1
7


1.2. Một số vấn đề lý luận về công chúng phát thanh
1.2.1.

Thuyết “sử dụng và hài lòng"

Thuyết “sử dụng và hài lòng" là lý thuyết giả định rằng con người chủ động
tiếp cận phương tiện truyền thông để thỏa mãn những nhu cầu cụ thể của họ. Thuyết
“sử dụng và hài lòng" là một hướng tiếp cận lấy người dùng làm trung tâm và tìm
hiểu về hoạt động của truyền thông đại chúng. Khác với những lý thuyết khác thuyết
“sử dụng và hài lịng" nói về "phương tiện truyền thơng ảnh hưởng gì đến con
người?", lại tập trung vào "con người sử dụng phương tiện truyền thơng để làm gì".
Thuyết này cho rằng phương tiện truyền thông là một sản phẩm có tính truy cập cao
và con người là những người sử dụng chúng.
Các phương tiện truyền thông ngày nay rất nhiều và ngày càng đa dạng,
thuyết “sử dụng và hài lòng" giải quyết hai câu hỏi mà các nhà truyền thông thường
gặp: "Con người sử dụng phương tiện truyền thông nào?" và "Tại sao con người lại
chọn phương tiện truyền thơng đó?". Thuyết cịn tìm hiểu về cách người dùng chọn
phương tiện truyền thông nào để thỏa mãn nhu cầu, cụ thể hơn là để nâng cao kiến
thức, thư giãn, tương tác xã hội, tìm sự đồng hành, đa dạng hóa hoặc trốn thốt. Vì

vậy, lý thuyết này địi hỏi độ sẵn sàng cung cấp thông tin cao của các phương tiện
truyền thông về data, đánh giá trải nghiệm, thời lượng sử dụng, thời điểm sử dụng,...
của khách hàng.Thuyết “sử dụng và hài lịng" cho rằng người dùng khơng bị động
so với phương tiện truyền thông mà ngược lại có quyền lực và chủ động về việc sử
dụng chúng và từ đó kết hợp chúng vào đời sống của họ. Không giống như những lý
thuyết khác, thuyết “sử dụng và hài lòng" cho rằng người dùng chịu trách nhiệm
chọn ra phương tiện truyền thông để thỏa mãn nhu cầu và mong muốn của họ để đạt
được sự hài lòng. Thuyết này còn ngụ ý rằng các phương tiện truyền thông đang
cạnh tranh với các nguồn thông tin khác để mang đến sự hài lòng cho khách hàng.
1.2.2. Đặc điểm của công chúng phát thanh

1
8


1.2.2.1. Đặc điểm cơng chúng
Mỗi loại hình báo chí đều có những đặc điểm riêng biệt, chi phối tới cách
tiếp nhận thơng tin của cơng chúng và có ảnh hưởng nhất định tới tâm lý tiếp nhận
của công chúng. Cũng chính từ đặc điểm này mà hình thành nên các lớp công chông
chúng, các đối tượng công chúng khác nhau [22, tr.46].
Trong cuốn “Handbook for the URN Advanced Radio Journalism
Course in Political Reporting” các tác giả chỉ ra rằng:
“ Công chúng cần điều gì?
-

Thơng tin có ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của họ

-

Thông tin mà bạn biết là họ cần


-

Tin tức về địa phương, bộ tộc mà họ sống trong đó

-

Khơng gian để thảo luận rộng rãi

-

Được giải trí...”

Xét theo thang nhu cầu của Abraham Maslow, cơng chúng quan tâm trước
hết đến các nhu cầu sinh lý cơ bản như ăn, uống, thở, ngủ, chỗ ở... Tiếp theo đó, họ
quan tâm tới nhu cầu an tồn cả về thể chất, tinh thần và của cải. Thứ ba, công
chúng mong muốn được giao tiếp và tham gia vào các mối quan hệ xã hội. Thứ tư,
công chúng muốn được tơn trọng, ngưỡng mộ, u q. Và thang nhu cầu cuối cùng
là được phát huy năng lực, các tố chất cá nhân và thành công.
Công chúng phát thanh tiếp nhận theo qui luật nghe và phát huy trí tưởng
tượng. Nhà báo phát thanh phải làm sao để thông qua chuỗi âm thanh của mình giúp
thính giả tạo dựng hình ảnh về sự kiện trong đầu. Cơng chúng phát thanh cịn tiếp
nhận thơng tin theo quy luật xa gần. Đó là sự tổng hịa nhiều phương hướng như địa
lý, tình cảm, thời gian, xã hội. Các kênh sóng, các chương trình phát thanh phải trở
thành diễn đàn để công chúng thể hiện quan điểm, suy nghĩ, cảm nhận của mình

1
9



trước các vấn đề của đời sống. Phong cách giao tiếp với công chúng phát thanh luôn
cần thể hiện sự tôn trọng, sự phục vụ, sẻ chia.
Các nghiên cứu về cơng chúng cho thấy, báo phát thanh có cơng chúng đa
dạng, phong phú. Tuy mỗi chương trình khác nhau có một nhóm đối tượng riêng
nhưng nhìn chung cơng chúng phát thanh là đơng đảo người dân, cả những đối
tượng có trình độ học vấn cao và thấp.
1.2.2.2.

Phân loại cơng chúng
- Phân loại theo đặc điểm xã hội học
Căn cứ vào những tiêu chí khác nhau, có thể có cách phân chia thành các

nhóm cơng chúng khác nhau. Nếu căn cứ vào độ tuổi, sẽ có nhóm cơng chúng trẻ
em, cơng chúng thanh niên, công chúng người cao tuổi, công chúng trung niên.; căn
cứ vào giới sẽ có cơng chúng nam giới và nữ giới; căn cứ vào địa bàn sinh sống sẽ
có cơng chúng đơ thị, cơng chúng nơng thơn, cơng chúng miền núi; căn cứ theo
nghề nghiệp có thể chia thành công chúng là cán bộ công chức, nông dân, học sinh sinh viên, nội trợ.. .[45]
+ Theo lứa tuổi
Độ tuổi của cơng chúng đóng một vai trị quan trọng trong việc phân loại.
Trước đây, với thính giả có độ tuổi càng cao, tỷ lệ nghe Đài cũng tăng theo. Lý do là
phát thanh dễ tiếp cận, dễ tiếp nhận với người cao tuổi do họ có nhiều thời gian, tiếp
nhận thơng tin qua tiếng nói dễ dàng hơn với mắt vì lý do sức khỏe. Người cao tuổi
nghe Đài cịn do thói quen vì có nhu cầu hiểu biết về tình hình thời sự trong nước,
quốc tế và để giải trí. Cịn độ tuổi trẻ có trình độ học vấn cao hơn nhưng tỷ lệ nghe
Đài thường thấp hơn người cao tuổi và ngược lại. Tuy nhiên người cao tuổi có trình
độ học vấn bình qn thấp hơn nhưng thường xuyên nghe Đài hơn. Điều này có thể
hiểu là do tính chất của tuổi trẻ nên họ có những sở thích và quan tâm đặc thù, và

2
0



tham gia nhiều hoạt động xã hội nên ít có thời gian theo dõi tin tức qua Đài phát
thanh.
Tuy nhiên, hiện nay, do môi trường làm việc và xã hội thay đổi, người trẻ
cũng nghe radio nhiều hơn do đặc thù phải di chuyển nhiều. Họ vẫn muốn tiếp nhận
thông tin thời sự, cập nhật trong khi di chuyển mà khơng có điều kiện tiếp cận các
hình thức truyền thơng khác, thí dụ như lúc đang lái xe. Do đó, các Đài phát thanh
cũng phải thay đổi theo công chúng để xây dựng những kênh, chương trình phù hợp
hơn với giới trẻ, đáp ứng nhu cầu thực sự của họ. Ngồi ra, cần chú ý đến thơng tin
chun biệt dành riêng cho đối tượng thính giả trung thành có tuổi như thông tin sức
khỏe, sinh hoạt tinh thần, hướng về quê hương, cội nguồn.
+ Theo nhu cầu thông tin, sở thích của cơng chúng Đây cũng là một góc nhìn
phân loại quan trọng, từ đó góp phần các Đài phát thanh định hình nên cơng chúng
của mình. Thí dụ cơng chúng là giới trẻ có nhu cầu tìm thơng tin nhiều về thơng tin
giải trí như âm nhạc, điện ảnh, người nổi tiếng, đời sống tình cảm... Cơng chúng
trong độ tuổi từ 24-35 quan tâm nhiều về thông tin thị trường, kinh doanh, đời sống
gia đình hoặc sức khỏe.
+ Theo vùng, miền
Yếu tố địa phương, địa lý theo vùng, miền cũng là một yếu tố quan trọng
trong phân loại công chúng. Thí dụ, đối tượng cơng chúng phát thanh của các miền
khác nhau ở nước ta có sự quan tâm đến các vấn đề nội dung và phong cách tiếp
nhận thông tin khác nhau.
+ Theo nghề nghiệp
Nghề nghiệp là yếu tố chi phối công chúng lựa chọn nội dung thông tin và
loại hình báo chí nào để tiếp nhận. Với đối tượng lao động, trí thức, làm cơng tác
quản lý, họ tìm kênh phát thanh để theo dõi tình hình thời sự và mở mang kiến thức
cho cơng việc. Nhóm người lao động chân tay có nhiều nhu cầu về thơng tin giải trí,

2

1


sức khỏe, nhưng chỉ có thể tiếp cận thơng tin sau giờ làm việc. Người kinh doanh
nghiêng về thông tin giá cả thị trường, đời sống. Người nông dân, người làm nơng
nghiệp thích theo dõi thơng tin qua Đài phát thanh về thông tin trồng trọt, chăn nuôi,
tin tức thời tiết.
+ Theo giới tính
Kết quả nhiều cuộc điều tra xã hội học ở Việt Nam cho thấy, tỷ lệ nữ giới tiếp
nhận các phương tiện truyền thơng nói chung và phát thanh nói riêng ít hơn nam
giới. Lý do chính là phụ nữ ít có thời gian hơn để tiếp cận thơng tin của báo chí hơn
nam giới, do họ phải dành nhiều thời gian làm việc nhà, chăm sóc con cái. Ngồi ra,
phụ nữ quan nhiều đến thơng tin gần gũi với đời sống hơn như sức khỏe, gia đình,
cơng việc. Như vậy có thể thấy sự chênh lệch mức hưởng thụ và sự quan tâm đối
với Đài phát thanh giữa nữ và nam vẫn là một vấn đề xã hội lớn liên quan tới vấn đề
bất bình đẳng giới trong xã hội.
+ Theo trình độ
Trình độ học vấn là một trong những điều kiện tác động nhiều tới việc tiếp
nhận những sản phẩm truyền thông đại chúng. Theo xu hướng chung, người có trình
độ học vấn càng cao thường hay theo dõi nhiều tin tức, thời sự, kinh tế, giáo dục,
khoa học. nhằm tăng thêm hiểu biết, đáp ứng nhu cầu cơng việc. Người có học vấn
khơng cao thường nằm trong những nhóm cơng chúng thiên về tiếp nhận thơng tin
xã hội, giải trí như ca nhạc, giải trí, tư vấn đời sống, tâm lý tình cảm, an ninh trật tự,
nghe quảng cáo và ít tiếp nhận những chương trình thời sự.
Trình độ học vấn cịn qui định cách tiếp nhận thơng tin. Nhóm thính giả trình
độ cao thường chủ động trong tìm kiếm thơng tin. Họ có thể tiếp nhận thơng tin mọi
nơi, mọi lúc. Người có trình độ học vấn thấp thường bị động hơn khi tiếp nhận
thông tin. Họ nghe, xem, đọc những thông tin có sẵn xung quanh, khơng chủ động
tìm kiếm và khơng yêu cầu những thông tin cần thiết hoặc thông tin liên quan.


2
2


-

Phân loại theo cấp độ nghe của cơng chúng
Có nhóm cơng chúng tiềm năng và cơng chúng thực tế, nhóm công chúng
trực tiếp và công chúng gián tiếp. Công chúng tiềm năng là nhóm lớn xã hội mà
chương trình phát thanh hướng vào tác động lôi kéo, thuyết phục. Nhưng trong thực
tế khơng phải tất cả những thành viên nhóm lớn xã hội mà chương trình nhằm vào
đều tiếp nhận được các chương trình phát thanh. Hay nói cách khác, chỉ một phần
trong nhóm lớn mà chương trình phát thanh hướng vào, tiếp nhận được sự tác động.
Bộ phận ấy gọi là cơng chúng thực tế. Ở bình diện khác, lại có cơng chúng trực tiếp
và cơng chúng gián tiếp. Công chúng trực tiếp là những người trực tiếp tiếp nhận
các chương trình phát thanh. Cịn cơng chúng gián tiếp là những người được những
người công chúng trực tiếp kể lại, thông tin lại những điều mà họ đã tiếp nhận qua
sóng phát thanh. Các chương trình truyền thơng trên radio vừa nhằm vào đại chúng
trên cơ sở xác định nhóm đối tượng cụ thể.

1.2.2.3.
-

Mối quan hệ giữa cơng chúng và chương trình phát thanh

Vai trị của phát thanh với công chúng
Phát thanh được coi là “cổng thông tin” về tất cả những vấn đề đang xảy ra
trên thế giới, là khởi đầu những nội dung được đề cập trên tất cả các loại hình
truyền thơng khác và cũng là phương thức tiếp cận dễ dàng nhất tới nhiều đối tượng
cơng chúng. Giá trị của phát thanh chính là có thể giúp thính giả hiểu được điều gì

đúng và điều gì quan trọng, chúng ta phải làm sao để thính giả có cảm nhận rằng họ
đang được lắng nghe. Nói cách khác, các chương trình phải thật sự phản ánh được
nhu cầu và mối quan tâm của thính giả. Điều duy nhất khơng thay đổi chính là nhu
cầu được cung cấp thông tin đúng và hay. Đây vẫn là động lực nghe chính của thính
giả khi nghe Đài và cũng là nghĩa vụ của những người làm phát thanh. Phát thanh
ln đóng vai trị cốt yếu trong việc cung cấp thông tin đa dạng tới người nghe và
được công nhận là một loại hình truyền thơng tiêu biểu và căn bản nhất.

2
3


-

Vai trị của cơng chúng với phát thanh
Cơng chúng là người đầu tiên quyết định việc hình thành các chương trình
phát thanh. Cũng như một tờ báo hay một chương trình truyền hình, một chương
trình phát thanh ra đời trước hết phải dựa trên nhu cầu công chúng. Việc thiết lập
nội dung, hình thức, thời lượng, thời điểm phát sóng của chương trình phát thanh
cũng đều căn cứ trên nhu cầu, mong muốn, đặc điểm, sở thích của cơng chúng. Mỗi
chương trình phát thanh nhằm phục vụ một nhóm đối tượng thính giả nhất định. Ví
dụ, chương trình thiếu nhi được thiết kế để phục vụ đối tượng thiếu nhi, chương
trình ca khúc theo u cầu phục vụ nhóm các bạn trẻ u thích âm nhạc.. .[21, tr.44].
Vai trị của cơng chúng có đóng góp to lớn cho sự phát triển của các chương
trình phát thanh, cơng chúng vừa là đối tượng tiếp nhận vừa là đối tượng phản ánh.
Chính cơng chúng là người góp phần tạo nên các tác phẩm báo chí và chương trình
phát thanh hay, có giá trị. Cơng chúng ngày nay khơng chỉ thích nghe Đài mà cịn có
ý thức tham gia các chương trình phát thanh. Họ ln có sự so sánh, đánh giá, nhận
xét về những vấn đề được nêu ra.


-

Các hình thức tương tác truyền thống
+ Tương tác trong phát thanh không trực tiếp:
Trong chương trình phát thanh khơng trực tiếp, dù khơng xuất hiện nhiều
nhưng tính tương tác cũng đã được các nhà sản xuất chương trình phát thanh áp
dụng trong quy trình sản xuất hay thu thập thơng tin. Thơng thường, các chương
trình thu trước thường có độ chính xác cao về thơng tin, tạo sự tin tưởng tuyệt đối
trong lịng thính giả. Tuy nhiên, với tính chất khơng phát trực tiếp nên sự tương tác
qua lại giữa thính giả và một chương trình phát thanh cần một thời gian nhất định.
+ Tương tác trong chương trình ca nhạc:
Từ trước đến nay, âm nhạc vẫn được coi là thế mạnh của phát thanh. Vì thế,
việc tận dụng âm nhạc trong sản xuất chương trình phát thanh vẫn ln được chú

2
4


trọng. Các chương trình ca nhạc theo yêu cầu là một ví dụ điển hình mang tính
tương tác, do tiếp nhận u cầu từ phía thính giả và phát sóng bài hát theo yêu cầu
đó. Giữa nhóm thực hiện chương trình và thính giả sẽ có mối liên hệ với nhau,
thông qua việc tương tác qua thư hay qua điện thoại. Điều này chúng ta thấy khá rõ
từ một số chương trình như Ca nhạc theo yêu cầu, Quick And Snow show, Xone
FM. của Đài TNVN.
+ Tương tác trong chương trình tọa đàm:
Bên cạnh đó, chương trình phát thanh khơng trực tiếp vẫn có sự xuất hiện
của nhiều yếu tố tương tác khác. Ví dụ như đối với chương trình tọa đàm sẽ có
tương tác giữa người dẫn với khách mời, trong chương trình có hai người dẫn sẽ có
sự tương tác giữa người dẫn với nhau.
+ Tương tác trong chương trình phát thanh trực tiếp:

Tính tương tác trong chương trình phát thanh trực tiếp trước hết thể hiện ở yếu
tố tương tác giữa thính giả với ekip thực hiện chương trình. Với các chương trình
phát thanh trực tiếp được thực hiện tại studio, sự tham gia của thính giả sẽ tạo nên
bầu khơng khí giao lưu, cởi mở, giúp chương trình sống động hơn. Từ đó, chương
trình như một bức tranh âm thanh với nhiều giai điệu sẽ thu hút nhiều người cùng
lắng nghe, suy ngẫm và đồng cảm nên có thể tạo ra những hiệu ứng lan tỏa lớn hơn.
Đây là ưu thế hơn hẳn của phát thanh trực tiếp mang tính tương tác so với chương
trình phát thanh chỉ có sự xuất hiện của BTV và PTV. [46].
1.2.3.

Cơng chúng với các chương trình phát thanh văn nghệ

1.2.3.1.
-

Khái niệm văn nghệ

Khái niệm:
Theo từ điển Tiếng Việt: Văn nghệ là cách nói tắt của “văn học nghệ thuật”,
là các hoạt động biểu diễn nghệ thuật như ca, múa, nhạc, ... phục vụ vui chơi, giải trí
(nói khái qt) [17, tr.405].

2
5


×